Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 90 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Mục tiêu của tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, tỷ trọng trong GDP của
ngành nông nghiệp là 5,6%; ngành công nghiệp là 59,8%; ngành dịch vụ là
34,6%. Nhưng theo số liệu thống kê, năm 2006 tỷ trọng trong GDP của ngành
nông nghiệp là 23,6%; ngành công nghiệp là 47,8%; ngành dịch vụ là 28,6%.
Thực tế trên đòi hỏi tỉnh Bắc Ninh phải có những bước đột phá trên nhiều lĩnh
vực đặc biệt là chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo ngành để đáp ứng yêu
cầu của chuyển dịch cơ cấu ngành. Tuy nhiên, năm 2006 tỷ trọng lao động
ngành nông nghiệp là 61,2 %; ngành công nghiệp là 23,6 %; ngành dịch vụ là
15,2%. Với cơ cấu lao động theo ngành còn ở trình độ thấp và lạc hậu, vấn đề
có tính cấp thiết được đặt ra là phải có giải pháp đúng đắn nhằm đẩy nhanh
tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành theo hướng hợp lý đáp ứng
được yêu cầu mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành đến 2020.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Định
hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020 “
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận kết hợp với việc phân tích thực
trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành từ đó đánh giá quá
trình chuyển dịch, rút kết luận làm cơ sở đề ra các biện pháp có hiệu quả thúc
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề cơ cấu
lao động theo ngành, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong mối quan
hệ với cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành.


2



Phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở mốc thời gian tái lập tỉnh (1997) và
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020, luận văn tập trung
đi sâu nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu theo ngành và từng nhóm ngành
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp
thống kê, phương pháp dự báo, phương pháp phân tích, tổng hợp.
5. Những đóng góp của luận văn
Góp phần làm rõ các khái niệm về cơ cấu lao động theo ngành, chuyển
dịch cơ cấu lao động ngành; mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành. Đồng thời chỉ ra xu hướng chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2006.
Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp
phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh đến 2020.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được chia làm ba chương như sau:
Chương I

: Một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu lao động

Chương II

theo ngành
: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành tại


Chương

tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2006
: Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động

III

theo ngành tại tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020


3

CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH
1.1. Tổng quan về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
1.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là hình thức cấu tạo bên trong của nền
kinh tế, là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối
ổn định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản
xuất xã hội trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu của nền
kinh tế được nghiên cứu theo nhiều phương diện khác nhau, trong đó phổ biến
hơn cả là theo phương diện ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế được hiểu là sự tương quan giữa các ngành trong
tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về
số và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình
thành trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, luôn vận động và
hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Trong tổng thể nền kinh tế bao gồm rất nhiều ngành kinh tế khác nhau,

số lượng các ngành này không cố định. Sự phát triển của phân công lao động
xã hội sẽ làm thay đổi về mặt chất và lượng của các ngành kinh tế. Từ đầu thế
kỷ XIX, nhà Kinh tế học Collin Class căn cứ vào tính chất chuyên môn hóa
của sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Khai thác tài nguyên thiên nhiên
(nông nghiệp và khai thác khoáng sản); Công nghiệp chế biến; Sản xuất sản
phẩm vô hình. Sau này, Liên hiệp quốc căn cứ vào tính chất hoạt động sản
xuất đã chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và
gọi sản xuất sản phẩm vô hình là dịch vụ. Thực ra, nguyên tắc phân ngành
xuất phát từ tính chất phân công lao động xã hội, biểu hiện cụ thể qua sự khác


4

nhau về quy trình công nghệ của các ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm
vật chất và dịch vụ. Với nguyên tắc đó, các ngành kinh tế được phân thành 3
khu vực hay còn gọi là 3 nhóm ngành: Khu vực I bao gồm các ngành nônglâm – ngư nghiệp; Khu vực II gồm các ngành công nghiệp và xây dựng; Khu
vực III bao gồm các ngành dịch vụ.
Với sự phân ngành này, cơ cấu ngành được nghiên cứu chủ yếu dưới
các góc độ sau: góc độ thu nhập (nghiên cứu cơ cấu ngành theo GDP), góc
độ đầu tư (nghiên cứu cơ cấu ngành theo lượng vốn đầu tư), góc độ lao động
(nghiên cứu cơ cấu ngành theo lao động).
Nền kinh tế được chia thành 3 nhóm ngành lớn, mỗi nhóm ngành này là
sự kết hợp của các ngành nhỏ hơn có những đặc điểm tương đối giống nhau
và chính cơ cấu của các ngành này được gọi là cơ cấu nội bộ ngành.
Nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành: ngành sản xuất nông
nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản
Nhóm ngành công nghiệp xây dựng bao gồm các ngành: ngành công
nghiệp khai thác, ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất – phân phối
điện nước và khí đốt, ngành xây dựng
Nhóm ngành dịch vụ bao gồm các ngành: các ngành dịch vụ kinh

doanh có tính chất thị trường, dịch vụ sự nghiệp, dịch vụ hành chính công
Tương đối giống cơ cấu ngành về mặt bản chất, cơ cấu nội bộ ngành
chính là hình thức cấu trúc bên trong của ngành, là các mối quan hệ của các
ngành nhỏ về cả số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu cơ cấu ngành tức là nghiên cứu tổng thể cơ cấu ngành
trong mối quan hệ mật thiết với cơ cấu nội bộ từng nhóm ngành. Việc nghiên
cứu cơ cấu ngành có ý nghĩa rất quan trọng. Xét trên cả hai khía cạnh tăng
trưởng kinh tế và phát triển kinh tế thì cơ cấu ngành được xem là một trong
những yếu tố quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công


5

nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và hợp tác hóa sản xuất.
Trạng thái của cơ cấu ngành phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế của mỗi
quốc gia, đó là tiêu chí để xác định xem nền kinh tế của quốc gia đó là nền
kinh tế nông nghiệp, công nghiệp hay hậu công nghiệp.
1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành và những vấn đề có tính quy luật về xu
hướng chuyển dịch cơ cấu ngành
Cơ cấu ngành là phạm trù động, thay đổi theo từng thời kỳ phát triển.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ
trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với
môi trường và điều kiện phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không
chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng mỗi ngành mà còn là sự
thay đổi về vị trí, tính chất mỗi ngành trong mối quan hệ giữa các ngành. Việc
chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung
của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu để xây dựng một cơ cấu mới
phù hợp hơn.
Theo một số nghiên cứu của các nhà kinh tế học cho thấy: Quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự

tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tính chất bền vững của tăng trưởng và phát
triển kinh tế phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch linh hoạt của cơ cấu ngành
trong những điều kiện cụ thể. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành gắn liền và
phản ánh tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Xu hướng chuyển dịch cơ
cấu ngành được coi là hợp lý, tiến bộ khi tỷ trọng giá trị ngành công nghiệp
và đặc biệt là ngành dịch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng giá trị ngành nông
nghiệp ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Trong nội bộ
ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu
sản xuất thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng
nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượng cao về vốn và


6

khoa học công nghệ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản
lượng ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng của ngành
trồng trọt giảm xuống tương ứng. Còn đối với ngành dịch vụ, tỷ trọng giá trị
các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường ngày càng tăng.
Xây dựng một cơ cấu ngành kinh tế hơp lý là yêu cầu khách quan của
mỗi quốc gia. Một cơ cấu ngành được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được một
số điều kiện cơ bản sau: Các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ và đồng bộ, tỷ
trọng ngành nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ
tăng dần; trình độ kỹ thuật của nền kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển
khoa học công nghệ; cho phép khai thác tối đa và hiệu quả mọi tiềm năng của
quốc gia; thực hiện phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa,
xây dựng cơ cấu ngành kinh tế thành một “cơ cấu mở”.
1.1.2. Cơ cấu lao động theo ngành
Là một hình thức của cơ cấu lao động do đó nghiên cứu cơ cấu lao
động là tiền đề quan trọng để nghiên cứu cơ cấu lao động theo ngành.
Cơ cấu lao động là phạm trù kinh tế xã hội, phản ánh hình thức cấu tạo

bên trong của tổng thể lao động, sự tương quan giữa các bộ phận và mối quan
hệ giữa các bộ phận đó. Đặc trưng của cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về
mặt số lượng lao động theo những tiêu chí nhất định.
Là một phạm trù kinh tế – xã hội, cơ cấu lao động có những thuộc tính
cơ bản, đó là tính khách quan, tính lịch sử và tính xã hội:
i) Tính khách quan: Cơ cấu lao động bắt nguồn từ dân số và cơ cấu
kinh tế, quá trình vận động của dân số và cơ cấu kinh tế có tính khách quan
do đó nó quy định tính khách quan của cơ cấu lao động.
ii) Tính lịch sử: Quá trình phát triển của loài người là quá trình phát
triển của các phương thức sản xuất, mỗi phương thức sản xuất có một cơ cấu
kinh tế đặc trưng, nên cơ cấu kinh tế có tính lịch sử. Được bắt nguồn từ cơ
cấu kinh tế nên cơ cấu lao động cũng có tính lịch sử.


7

iii) Cơ cấu lao động mang tính xã hội sâu sắc: Cơ cấu lao động phản
ánh sự phân công lao động xã hội. Quá trình phân công lao động xã hội thể
hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện quá trình phát triển
của con người. Mỗi hình thức phân công lao động sẽ tạo nên một cơ cấu lao
động mới. Xét trên phương diện sản xuất, cơ cấu lao động không những phản
ánh các giai tầng của xã hội trong nền sản xuất mà còn phản ánh các hoạt
động kinh tế của các giai tầng xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu cơ cấu lao động nghĩa là nghiên cứu sự phân chia lao động
thành các nhóm, các bộ phận khác nhau dựa theo những tiêu chí cụ thể tuỳ
thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Thông thường, cơ cấu lao động được chia làm hai loại : cơ cấu cung về
lao động (theo khả năng) và cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
(theo cầu). Cơ cấu cung lao động là một trong các yếu tố phản ánh số lượng
và chất lượng của nguồn nhân lực, còn cơ cấu lao động đang làm việc phản

ánh sự phân bố của lao động theo các ngành, khu vực, và theo các tiêu chí
khác. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu lao động theo cung cầu được hình
thành từ quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động.
Tùy theo giác độ nghiên cứu mà người ta chia ra các loại cơ cấu lao
động khác nhau:
Xét theo không gian hình thành cơ cấu lao động theo vùng, lãnh thổ; cơ
cấu lao động theo khu vực thành thị – nông thôn. Loại cơ cấu này dùng để
đánh giá tình trạng phân bố lao động xã hội theo không gian.
Xét theo tính chất các yếu tố tạo nguồn hình thành cơ cấu lao động theo
độ tuổi; cơ cấu lao động theo trình độ… Loại cơ cấu này dùng để đánh giá
thực trạng về tình hợp lý trong sử dụng lao động.
Xét theo các ngành kinh tế hình thành cơ cấu lao động theo ngành, đây
là cơ cấu lao động đang làm việc trên các vùng, lãnh thổ được chia theo


8

ngành hay nhóm ngành kinh tế. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá thực trạng
phân bố, chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành kinh tế quốc dân.
Xét theo từng ngành kinh tế hình thành cơ cấu lao động theo nội bộ
ngành. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá tình trạng phân bố lao động làm
việc trong nội bộ các ngành của nền kinh tế.
Ngoài ra, tùy thuộc mục đích nghiên cứu có thể chia cơ cấu lao động
làm nhiều loại khác nhau như cơ cấu lao động theo giới tính, theo nghề
nghiệp …
Luận văn đi sâu nghiên cứu một góc độ của cơ cấu lao động, đó là cơ
cấu lao động theo ngành kinh tế.
Nghiên cứu cơ cấu lao động theo ngành tức là nghiên cứu về cấu trúc
bên trong, sự tương quan, mối quan hệ về lao động giữa 3 nhóm ngành hay
từng nhóm ngành, sự phù hợp và xu hướng chuyển dịch của nó trong mối liên

hệ với cơ cấu ngành kinh tế.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
1.2.1. Khái niệm
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ
phận trong tổng số lao động theo một khoảng thời gian nào đó. Còn chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như
xu hướng vận động về lao động của các ngành diễn ra trong một không gian,
thời gian và theo chiều hướng nhất định.
Thực chất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá
trình phân bố lại lực lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế theo những
xu hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng lao động có hiệu quả hơn. Quá trình
phân bố lại lực lượng lao động vừa diễn ra trên quy mô toàn bộ nền kinh tế
vừa diễn ra theo phạm vi của từng nhóm ngành. Lao động của một ngành thay
đổi chỉ khi có sự thay đổi về số lượng lao động trong nội bộ ngành đó. Chẳng


9

hạn, nếu lao động của nhóm ngành nông nghiệp giảm đi, thì rõ ràng việc giảm
này là do sự thay đổi lao động của 3 ngành nhỏ nông nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp. Có thể trong mỗi ngành nhỏ số lao động có thể tăng lên hay giảm
xuống nhưng xét trên cả 3 ngành thì số lao động giảm đi. Như vậy, ở đây đã
có sự thay đổi về lao động của từng ngành nhỏ so với tổng số lao động của
ngành nông nghiệp, đây chính là sự thay đổi về cơ cấu lao động trong nội bộ
ngành nông nghiệp.
Có thể khẳng định rằng có mối liên hệ mật thiết giữa việc chuyển dịch
cơ cấu lao động nội bộ ngành và sự thay đổi lao động của ngành, suy rộng ra
đó là mối liên hệ giữa việc chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành và cơ
cấu lao động theo ngành. Như vậy, kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động theo ngành là sự thay đổi cấu trúc lao động trong nội bộ mỗi ngành.

Hơn nữa, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành còn làm thay đổi
chất lượng lao động trong từng ngành. Mỗi ngành đều có những đặc tính
riêng, do đó đặc điểm sử dụng lao động của các ngành khác nhau đặc biệt là
trình độ của lao động. Do vậy, quá trình chuyển dịch dẫn đến sự di chuyển về
lao động và sự di chuyển này kéo theo sự thay đổi về chất lượng lao động của
từng ngành.
1.2.2. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và chuyển
dịch cơ cấu theo ngành kinh tế
1.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là hệ quả tất yếu của chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế
Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò của lao động đối với tăng trưởng
kinh tế được thể hiện ở những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng phát triển dẫn đến
năng suất lao động ngày càng cao, do đó tính chất sử dụng lao động cũng thay
đổi. Các lý thuyết kinh tế đặc biệt là lý thuyết kinh tế hiện đại chỉ ra rằng:


10

Cùng với vốn, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên thì lao động là nguồn gốc
của tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng này có thể được hiểu là sự tăng
trưởng toàn nền kinh tế hay sự tăng trưởng của từng ngành cấu thành nên nền
kinh tế.
Khi phân tích về chuyển dịch cơ cấu ngành chúng ta đã biết bản chất
quá trình chuyển dịch chính là sự thay đổi về cấu trúc của các ngành trong
nền kinh tế, tỷ trọng các ngành thay đổi, vị trí và vai trò của các ngành cũng
thay đổi. Xét trên phương diện giá trị thì cấu trúc về mặt giá trị của các ngành
có sự thay đổi tức là tỷ trọng của mỗi ngành trong nền kinh tế thay đổi. Mặt
khác, giá trị của mỗi ngành thay đổi thì các yếu tố cấu thành nên giá trị ngành
đó cũng thay đổi, lao động chính là một trong các yếu tố đó. Do vậy, giá trị

một ngành thay đổi sẽ tác động đến sự thay đổi về lao động của ngành đó. Khi
có sự thay đổi về mặt giá trị của cả 3 ngành dẫn đến lao động của cả 3 ngành
cũng thay đổi và đây chính là sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành.
Ở một phạm vi hẹp hơn, với cách phân tích tương tự sẽ cho ta thấy sự thay
đổi về cơ cấu nội bộ ngành cũng dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động trong
nội bộ ngành đó. Như vậy, quá trình thay đổi cơ cấu ngành cũng như cơ cấu
nội bộ ngành tất yếu dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành
và cơ cấu lao động trong nội bộ ngành.
1.2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành phải phù hợp với trình độ
phát triển của cơ cấu ngành kinh tế.
Trên giác độ cơ cấu ngành kinh tế thì quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế là quá trình biến đổi liên tục của cơ cấu ngành kinh tế từ cũ sang
mới và ngày càng hoàn thiện hơn. Nền kinh tế trải qua nhiều giai đoạn phát
triển từ lạc hậu đến hiện đại, từ trình độ thấp đến trình độ cao. Mỗi giai đoạn
phát triển, cơ cấu ngành có những đặc trưng riêng và gắn liền với nó là một
cơ cấu lao động phù hợp.


11

Theo W. Rostow, quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia được
chia thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành
kinh tế đặc trưng thể hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy. Mặc dù có rất
nhiều hạn chế về cơ sở của việc phân đoạn trong phát triển kinh tế nhưng việc
vận dụng mô hình của ông trong phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động theo ngành là rất cần thiết. Mô hình của W.Rostow chứng tỏ rằng: gắn
liền với việc chuyển dịch cơ cấu ngành qua các giai đoạn là quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành. Tùy thuộc vào tính chất và trình độ của cơ
cấu ngành trong từng giai đoạn mà cơ cấu lao động theo ngành cũng có sự
chuyển dịch phù hợp. Ở mức độ nghiên cứu sâu hơn, quá trình chuyển dịch cơ

cấu lao động theo ngành vừa là quá trình di chuyển lao động từ nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ vừa là quá trình thay đổi cơ cấu lao động theo
trình độ, lực lượng lao động có trình độ tăng lên theo từng giai đoạn. Như
vậy, cơ cấu lao động theo ngành luôn chuyển dịch theo tính chất và trình độ
của cơ cấu ngành kinh tế với xu hướng ngày càng hiện đại và hoàn thiện hơn.
1.2.2.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành tạo điều kiện thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành
Lao động với vai trò là một nguồn lực của sản xuất, là yếu tố không thể
thiếu trong các hoạt động kinh tế. Sự tăng trưởng và phát triển của các ngành
kinh tế sẽ không thể có nếu không có yếu tố lao động, vì lao động là một
trong các yếu tố đầu vào có vai trò rất quan trọng trong sản xuất.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá trình di
chuyển lao động từ ngành này sang ngành khác. Chính sự di chuyển này đã
tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành. Quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành nhanh hay chậm phụ thuộc vào tốc độ quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động. Nếu tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động nhanh sẽ thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành nhanh hơn và ngược lại.


12

Luận điểm trên có thể được giải thích như sau: Cùng với sự phát triển
của khoa học công nghệ và việc tăng lượng vốn đầu tư vào ngành công
nghiệp và dịch vụ. Khi đó cầu lao động trong nông nghiệp sẽ giảm do có áp
dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, cầu lao động
trong hai ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Một vấn đề đặt ra là: Nếu
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra nhanh chóng, tức là khi có sự di
chuyển nhanh về lao động từ ngành nông nghiệp hoặc một bộ phận lao động
khác trong lực lượng lao động sang ngành công nghiệp và dịch vụ thì cầu về
lao động của ngành công nghiệp và dịch vụ được đáp ứng, kết quả là quá trình

chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra nhanh. Ngược lại, nếu cầu về lao động của
ngành công nghiệp và dịch vụ không được đáp ứng thì quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành sẽ chậm lại.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành vừa là hệ quả của quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành vừa là yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế.
1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
1.2.3.1. Cơ sở lý thuyết
- Quy luật tăng năng suất lao động của A. Fisher: Theo A. Fisher, xu
thế phát khoa học công nghệ, ngành nông nghiệp dễ có khả năng thay thế lao
động nhất, việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị và các phương tiện
canh tác mới tạo điều kiện cho nông dân nâng cao được năng suất lao động.
Kết quả là để đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội
không cần đến một lượng lao động như cũ, vì vậy tỷ lệ lao động nông nghiệp
có xu hướng giảm dần. Ngành công nghiệp là ngành khó có khả năng thay thế
lao động do đặc tính của ngành này là sử dụng kỹ thuật công nghệ phức tạp.
Vì vậy, cùng với quá trình phát triển tỷ trọng lao động của ngành này có xu
hướng tăng lên. Ngành dịch vụ là ngành khó có khả năng thay thế lao động


13

nhất do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của việc tạo ra sản phẩm dịch vụ, rào cản
cho sự thay thế công nghệ và kỹ thuật rất cao. Trong khi đó, trong một nền
kinh tế trình độ cao thì tốc độ tăng của cầu tiêu dùng lớn hơn tốc độ tăng thu
nhập. Vì vậy, tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ sẽ có xu hướng tăng và
tăng càng nhanh khi nền kinh tế càng phát triển.
- Mô hình di cư của Todaro: Bắt đầu từ giả định rằng di cư chủ yếu là
hiện tượng kinh tế. Todaro cho rằng quá trình di cư bắt nguồn từ chênh lệch
trong thu nhập dự kiến có được hơn là thu nhập thực tế giữa nông thôn và

thành thị. Người di cư xem xét những cơ hội khác nhau trong thị trường lao
động giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị và lựa chọn để làm tăng
lợi ích mà họ có thể có được từ việc di cư. Những lợi ích này được xác định
bởi: sự chênh lệch trong mức thu nhập thực tế giữa công việc ở nông thôn và
thành thị; khả năng có thể kiếm được việc làm ở thành thị của người di cư.
Học thuyết của Todaro mô tả vấn đề di cư từ nông thôn ra thành thị như
một cơ chế điều chỉnh mà qua đó quyết định đến việc phân bổ trên các thị
trường lao động nông thôn và thành thị đặc biệt là sự di chuyển lao động từ
khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp từ đó tác động đến lao
động của các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Mặc dù học thuyết của Todaro có những phân tích thiếu tính thực tế khi
áp dụng với các nước Thế giới Thứ 3. Tuy nhiên, học thuyết đã đưa ra những
cơ sở lý luận khi nghiên cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến lao động
trong đó có vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
1.2.3.2. Xu hướng chuyển dịch
Dựa trên những nghiên cứu của các nhà kinh tế học về chuyển dịch cơ
cấu lao động và phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu ngành và cơ cấu lao động
theo ngành, tính tất yếu và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành chúng ta có
thể rút ra kết luận sau:


14

Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là tất yếu do đó quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành cũng mang tính tất yếu.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu theo ngành theo những xu hướng nhất
định, do vậy nó quy định xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Cụ thể là: Tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp có xu hướng ngày càng
giảm đi trong khi đó tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ có xu
hướng ngày càng tăng, đặc biệt là tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ có xu

hướng tăng và tăng càng nhanh khi nền kinh tế càng phát triển.
Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát triển, quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành thường trải qua ba thời kỳ:
Thời kỳ đầu: Thời kỳ phát triển nông nghiệp, lao động ngành nông
nghiệp , lao động ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó đến lao
động trong ngành công nghiệp và cuối cùng là dịch vụ.
Thời kỳ thứ hai: Khi sản xuất công nghiệp đã phát triển thì lao động
trong ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó là lao động trong
ngành nông nghiệp và sau cùng là lao động trong ngành dịch vụ.
Thời kỳ thứ ba: Đây là thời kỳ hậu công nghiệp, khi các ngành kinh tế
công nghiệp và nông nghiệp đã đạt năng suất lao động cao thì nguồn nhân lực
chuyển dịch nhanh sang ngành dịch vụ. Nguồn nhân lực ở ngành dịch vụ
chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó đến ngành công nghiệp và cuối cùng là ngành
nông nghiệp. Các nước phát triển đã trải qua ba thời kỳ này và hiện nay đang
ở giai đoạn thứ ba với xu hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay,
lao động nông nghiệp ở các nước phát triển chỉ còn chiếm tỷ trọng dưới 5%
lực lượng lao động, lao động trong công nghiệp dưới 30% và lao động dịch
vụ tăng trên 70%.
Như vậy, tính tất yếu và xu hướng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động theo ngành không chỉ được khẳng định trên phương diện lý thuyết mà


15

còn được chứng minh bằng thực tiễn quá trình phát triển của một số cường
quốc kinh tế.
1.2.4. Các tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
1.2.4.1. Động thái thay đổi tỷ trọng lao động các ngành trong nền kinh tế
Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động được thể hiện thông qua việc
biến đổi về tỷ trọng lao động của ngành này so với ngành khác và so với toàn

ngành kinh tế theo thời gian. Khi đó, xu hướng và tốc độ biến đổi tỷ trọng lao
động của các ngành là căn cứ quan trọng nhất để đánh giá quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành là hợp lý hay không hợp lý. Nếu tốc độ giảm
tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp ngày càng giảm còn tốc độ tăng tỷ
trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, đặc biệt là
ngành dịch vụ thì có thể nói quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động là tương
đối hợp lý. Tuy nhiên, việc đánh giá này chỉ mang tính tương đối, vì nó phụ
thuộc vào các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Ở mỗi giai đoạn khác nhau
mặc dù xu hướng chuyển dịch là giống nhau nhưng tốc độ chuyển dịch của
các ngành khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm và trình độ phát triển của
nền kinh tế.
1.2.4.2. Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
Sử dụng phương pháp Vector để lượng hóa và phân tích quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động, bằng cách tính hệ số Cos φ:

Cos φ

=

n
∑ Si(t 0 ).Si(t 1 )
i =1
n 2
n 2
∑ S i(t 0 ) ∑ S i(t 1 )
i =1
i =1

Si(t): tỷ trọng ngành i tại thời điểm t
φ: Là góc hợp bởi hai vector cơ cấu S(t0) và S(t1). Khi đó Cosφ càng lớn



16

bao nhiêu thì các cơ cấu càng gần nhau bấy nhiêu và ngược lại. Khi Cosφ = 1
thì góc giữa hai vector này bằng 0 điều đó có nghĩa là hai cơ cấu đồng nhất.
Khi Cosφ = 0 thì góc giữa hai vector này bằng 900 và các vector cơ cấu là trực
giao với nhau. Như vậy:
0 ≤ φ ≤ 900
Để đánh giá một cách trực giác sự chuyển dịch có thể so sánh góc φ với
giới hạn tối đa của sự sai lệch giữa hai vector. Do đó, để phản ánh tỷ lệ
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ta dùng tỷ số φ/900.
Chỉ số này chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung của cơ cấu lao động theo
ngành, tức là nó không chỉ ra được sự biến đổi cụ thể của từng ngành. Chỉ số
này càng lớn chứng tỏ quá trình chuyển dịch diễn ra càng mạnh và ngược lại.
Chúng ta có thể dùng chỉ số này kết hợp với việc phân tích xu hướng trên cơ
sở số liệu cụ thể để đánh giá tính hợp lý và tốc độ của quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động theo ngành.
1.2.4.3. Tương quan giữa chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành. Do vậy, khi nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành phải đặt trong mối quan hệ mật thiết với quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành. Để có đánh giá tổng thể và toàn diện về chuyển dịch cơ cấu ngành cần
phải thấy được sự tương quan và mối quan hệ giữa hai quá trình chuyển dịch.
Liệu so với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thì chuyển dịch cơ cấu
lao động đã phù hợp chưa, tốc độ chuyển dịch là nhanh hay chậm, việc
chuyển dịch đã đạt được hiệu quả tối ưu về kinh tế xã hội, đã đảm bảo sử
dụng hợp lý và phát huy tối đa tiềm năng của các nguồn lực hay chưa.
Bằng cách tính hệ số co giãn của việc làm đối với GDP (e) ta có thể

phân tích mối quan hệ giữa thay đổi GDP với thay đổi lao động trong nền
kinh tế.


17

e

=

l
g

Trong đó:
- e: hệ số co giãn của lao động theo GDP
- l: tốc độ tăng trưởng lao động
- g: tốc độ tăng trưởng kinh tế
Phương pháp này có ý nghĩa trong việc xác định mối quan hệ giữa tốc
độ tăng trưởng lao động và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nó cho biết khi GDP
thay đổi 1% thì l phải thay đổi bao nhiêu %. Nếu e > 0 thì g và l thay đổi cùng
chiều, nếu e < 0 thì g và l thay đổi ngược chiều.
1.2.4.4. Mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và cơ cấu lao động
Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế, tồn tại mối quan hệ giữa GDP
bình quân đầu người và cơ cấu lao động theo ngành tại các nước đang phát
triển. GDP bình quân đầu người càng cao thì cơ cấu lao động càng có sự thay
đổi mạnh và sự thay đổi này theo hướng giảm tỷ trọng lao động ngành nông
nghiệp và tăng tỷ trọng lao động ngành công nghiệp và dịch vụ. Có sự thích
ứng giữa mức GDP bình quân đầu người và cơ cấu lao động theo ngành, sự
thích ứng này được thể hiện qua biểu sau:
Biểu 1.1. Mối quan hệ giữa GDP/người và cơ cấu lao động theo ngành

GDP/người

320

960

1600

2560

3200

Nông nghiệp

66

49

39

30

25

Công nghiệp – Xây dựng

9

21


26

30

33

Dịch vụ

25

30

35

40

42

Cơ cấu LĐ (%)

Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương 2002
Nghiên cứu này có vai trò tương đối quan trọng trong việc đánh giá


18

tỉnh hợp lý của cơ cấu lao động theo ngành tại một thời điểm xác định.
1.2.5. Các nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch CCLĐ theo ngành
1.2.5.1. Các nhân tố liên quan đến nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động
- Sự phát triển của khoa học công nghệ:

Nếu thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX được đặc trưng bởi cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật thì từ sau Cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II đến hiện nay
được đặc trưng bởi cuộc cách mạng khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ không chỉ tạo ra các công cụ lao động mới mà cả
phương pháp sản xuất mới, do đó mở ra khả năng mới về kết quả sản xuất và
tăng năng suất lao động. Dưới tác động của khoa học công nghệ, các nguồn
lực sản xuất được mở rộng: Mở rộng khả năng phát hiện, khai thác và đưa vào
sử dụng các nguồn tài nguyên; làm biến đổi chất lượng lao động; cơ cấu lao
động xã hội chuyển từ lao động giản đơn là chủ yếu sang lao động bầng máy
móc, nhờ đó tăng năng suất lao động và giảm một cách tương đối số lượng
lao động được sử dụng trong các ngành dẫn đến sự thay đổi về lao động giữa
các ngành và làm cơ cấu lao động theo ngành thay đổi.
Các công nghệ mới ra đời như sử dụng vật liệu mới, công nghệ sinh
học, công nghệ điện tử … đã làm cho nền kinh tế chuyển từ phát triển theo
chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, nghĩa là việc tăng trưởng kinh tế
dựa trên việc nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất. Với vai trò này,
khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng nhất chuyển nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và tri thức. Điều này đồng nghĩa với việc
chuyển dịch cơ cấu lao động theo các ngành từ lạc hậu đến hiện đại, từ trình
độ thấp lên trình độ cao.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ không chỉ đẩy
nhanh tốc độ phát triển của các ngành, mà còn làm cho phân công lao động xã
hội ngày càng sâu sắc và đưa đến việc phân chia các ngành thành nhiều phân


19

ngành nhỏ, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ đó làm thay
đổi cơ cấu lao động theo hướng tích cực, thể hiện; Tỷ trọng lao động của
ngành công nghiệp mà đặc biệt là ngành dịch vụ có xu hướng tăng dần, trong

khi đó tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm; Cơ cấu lao động
trong nội bộ mỗi ngành cũng có sự biến đổi sâu sắc theo hướng tỷ trọng lao
động trong các ngành có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao ngày càng tăng.
Có thể nói, khoa học công nghệ không những đẩy nhanh tốc độ chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành theo hướng hợp lý và hiện đại mà còn làm
thay đổi cơ cấu lao động nội bộ ngành đồng thời tác động đến việc chuyển
dịch cơ cấu lao động theo trình độ.
- Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành có mối liên hệ hữu cơ, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành vừa là
đòi hỏi vừa là hệ quả của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong phần này
chúng ta đề cập đến yếu tố định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ tác động
như thế nào đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Hầu hết các quốc gia đều phải nghiên cứu và đưa ra các định hướng
phát triển và xây dựng cơ cấu ngành hợp lý. Việc định hướng phát triển
không những có tác dụng trong việc xác định con đường sẽ đi mà còn tạo ra
các căn cứ để quản lý, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Lao
động là một nguồn lực không thể thiếu để phát triển. Gắn liền với một cơ cấu
ngành là một cơ cấu lao động, cho nên việc định hướng xây dựng cơ cấu
ngành sẽ đặt ra yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành ở thời
điểm hiện tại để phù hợp với cơ cấu ngành đã được định hướng trong tương
lại. Rõ ràng, với mỗi định hướng khác nhau sẽ làm cho cơ cấu lao động theo
ngành chuyển dịch theo những chiều hướng khác nhau. Như vậy, việc định
hướng cơ cấu ngành đúng đắn, có tính khả thi cao thì cơ cấu lao động theo


20

ngành cũng có điều kiện chuyển dịch đúng hướng và phù hợp với cơ cấu
ngành.

- Quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá:
Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị, đồng thời là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản
xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô
thị mở rộng.
Theo lý thuyết của Todaro, quá trình đô thị hoá gắn liền với quá trình di
dân từ nông thôn ra thành thị, quá trình di chuyển lao động từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. Việc di chuyển này trực tiếp làm giảm
tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp ở khu vực nông thôn, tăng tỷ trọng
lao động ngành công nghiệp và dịch vụ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu lao động
theo ngành.
Quá trình đô thị hoá một mặt làm giảm diện tích đất nông nghiệp, nhu
cầu lao động nông nghiệp giảm dần. Mặt khác, do sự phát triển về cơ sở hạ
tầng, tâm lý của người lao động và việc dư thừa lao động nông nghiệp dẫn
đến xu hướng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó làm tỷ trọng
lao động của các ngành này không ngừng tăng lên. Có thể thấy rằng, đô thị
hoá không những tác động trực tiếp đến số lượng và tỷ trọng lao động của các
ngành mà còn gián tiếp tác động đến cơ cấu lao động theo ngành thông qua
việc làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Quá trình công nghiệp hoá gắn liền với sự phát triển của


21

ngành công nghiệp đặc biệt là các ngành có hàm lượng khoa học cao. Việc

phát triển các ngành sản xuất về cả số lượng và chất lượng là một biểu hiện
của sự phát trỉển của lực lượng sản xuất, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi mạnh mẽ do sự biến đổi của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Việc thay đổi cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn
đến sự thay đổi của cơ cấu lao động trong nền kinh tế, trong đó có cơ cấu lao
động theo ngành.
1.2.5.2. Các nhân tố liên quan đến khả năng chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành
- Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực:
Không thể nói gì đến chuyển dịch cơ cấu lao động khi quy mô nguồn
nhân lực không đáp ứng được những đòi hỏi của cơ cấu ngành kinh tế, nhân
tố gần như là dễ đáp ứng nhất của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Mặc
dù có những tác động tiêu cực nhưng sự dồi dào về lao động cũng là yếu tố
rất quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Quy
mô của lực lượng lao động lớn sẽ đáp ứng được yêu cầu về số lượng lao động
để mở rộng quy mô các ngành kinh tế. Có hai vấn đề đặt ra: nếu việc chuyển
dịch chỉ đơn thuần là việc di chuyển lao động giữa các ngành, tác dụng quy
mô nguồn nhân lực chỉ dừng lại ở mức độ bổ sung lao động cho các ngành;
nếu việc chuyển dịch không chỉ là sự di chuyển lao động giữa các ngành mà
còn là sự tăng lên về quy mô lao động của nền kinh tế thì quy mô lao động có
ý nghĩa rất lớn vì nếu quy mô lao động không đáp ứng được dẫn đến tình
trạng thiếu hụt nguồn lực từ đó sẽ làm giảm tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Như vậy, trong những điều kiện khác nhau, vai trò của quy mô nguồn nhân
lực là khác nhau, chúng ta không thể phủ nhận tác động của nó đến quá trình
phát triển nói chung và đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành nói riêng
Sẽ thiển cận nếu chỉ phân tích tác dụng của quy mô nguồn nhân lực,


22


chất lượng nguồn nhân lực cũng là yếu tố có ý nghĩa quan trọng với quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Chất lượng nguồn nhân lực tác động
đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động được xét trên hai phương diện.
Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành không chỉ
đơn thuần là sự thay đổi về số lượng lao động, gắn liền với nó là sự thay đổi
về chất lượng lao động. Xu hướng của quá trình chuyển dịch là giảm tỷ trọng
lao động trong ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng lao động trong ngành công
nghiệp và dịch vụ. Không giống với ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp
và dịch vụ là những ngành đòi hỏi cao về chất lượng lao động việc tăng tỷ
trọng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ đồng nghĩa với việc
tăng tỷ trọng lao động có chất lượng. Hơn nữa, sự tác động của khoa học công
nghệ dẫn đến quá trình hiện đại hoá nông nghiệp, kéo theo đó là yêu cầu nâng
cao chất lượng lao động trong nông nghiệp. Như một xu thế tất yếu, quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động đặt ra một vấn đề là không ngừng nâng cao chất
lượng lao động trong cả ba ngành kinh tế với mức độ khác nhau. Nguồn nhân
lực chất lượng cao chính là nhân tố quan trọng nhất để giải quyết vấn đề này.
Hơn nữa, nó còn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định tốc độ quá
trình chuyển dịch.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực cũng là nhân tố quyết định đến
phát triển khoa học công nghệ. Chúng ta đã biết vai trò của khoa học công
nghệ với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành cho nên xét trên
phương diện này nguồn nhân lực đã tác động gián tiếp đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động thông qua việc thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ.
- Chênh lệch thu nhập:
Thu nhập là có vai trò sống còn đối với người lao động. Nó là mục tiêu
là động lực thúc đẩy người lao động trong quá trình sản xuất. Xu hướng
chung của người lao động là hướng đến những công việc phù hợp và có thu


23


nhập cao, do đó việc chênh lệch thu nhập giữa ngành này và ngành khác là
một trong những căn cứ quan trọng nhất để người lao động quyết định làm
việc cho ngành nay hay ngành kia.
Sự chênh lệch thu nhập giữa các ngành nông nghiệp và công nghiệp,
dịch vụ là yếu tố thúc đẩy di chuyển một phân lao động từ ngành nông nghiệp
sang hoạt động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Hệ số co giãn của cung
lao động theo thu nhập thường được dùng để đo lường biến động trên.
EL

=

%∆L

%∆I
- EL : Hệ số co giãn của cung lao động theo thu nhập
- % ∆ L : Sự thay đổi của cung lao động
- % ∆ I : Sự thay đổi của thu nhập
Hệ số co giản càng lớn thì cung lao động theo thu nhập càng co giãn,
nghĩa là khi mức độ chênh lệch thu nhập giữa các ngành càng lớn thì quy mô
lao động dịch chuyển ngày càng tăng. Nếu chênh lệch thu nhập giữa ngành
nông nghiệp với ngành công nghiệp dịch vụ càng lớn thì quy mô lao động di
chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Điều này
dẫn đến tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp giảm, còn tỷ trọng lao
động trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên.
1.2.5.3. Trình độ phát triển của thị trường lao động
Thị trường lao động được hình thành khi sức lao động là hàng hóa và
được trao đổi trên thị trường. Thị trường lao động thường được phân loại theo
không gian và theo chất lượng hàng hóa sức lao động. Dựa trên tiêu chí chất
lượng hàng hóa sức lao động, thị trường gồm hai loại: thị trường lao động có

trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và thị trường lao động phổ thông. Nếu theo
tiêu chí không gian thì có các loại thị trường như thị trường lao động các địa
phương, thị trường lao động trong nước, thị trường lao động quốc tế, thị


24

trường lao động nông thôn, thị trường lao động thành thị.
Một trong những đặc trưng của thị trường lao động đó là mua bán hàng
hóa sức lao động và cung, cầu lao động là những yếu tố quan trọng nhất trên
thị trường lao động.
Thị trường lao động có vai trò quan trọng thúc đẩy sự di chuyển lao
động trong xã hội. Chúng ta hãy xét vấn đề này trên hai khía cạnh: Thứ nhất,
trên thị trường một khối lượng lớn hàng hóa được mua, bán nghĩa là có nhiều
người bán được và mua được sức lao động, do đó số lượng người được tuyển
dụng tăng lên dẫn đến số lượng lao động của một ngành nào đó đã có sự thay
đổi. Thứ hai, nếu quá trình mua, bán sức lao động diễn ra với tốc độ nhanh,
với lập luận tương tự có thể thấy rằng nó sẽ đẩy nhanh tốc độ di chuyển lao
động trong xã hội
Như vậy, thị trường lao động không những tác động đến số lượng lao
động di chuyển mà còn ảnh hưởng đến cả tốc độ di chuyển lao động. Chuyển
dịch cơ cấu lao động, theo cách hiểu khái quát nhất đó là sự di chuyển lao
động vào và ra khỏi các ngành. Do vậy, thị trường lao động sẽ tác động đến
quá trình này. Tính chất và mức độ tác động của thị trường lao động đến
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành phụ thuộc vào trình độ phát triển của
thị trường lao động. Thị trường lao động càng phát triển thì càng thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và ngược lại.
1.2.5.4. Nhân tố hệ thống chính sách
Lịch sử phát triển kinh tế đã chứng tỏ rằng: Trong bất kỳ giai đoạn phát
triển nào, phương thức sản xuất nào, Nhà nước luôn giữ một vai trò quan

trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, vai trò
của Nhà nước được thể hiện khác nhau thông qua việc can thiệp của Nhà
nước vào các vấn đề kinh tế – xã hội. Bằng các chính sách cụ thể, Nhà nước
đã can thiệp trực tiếp và gián tiếp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu


25

lao động. Mặc dù, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động mang tính khách
quan và tuân theo những xu hướng nhất định. Nhưng sự can thiệp của Nhà
nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đẩy mạnh quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Nhà nước tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ngành
thông qua hệ thống các chính sách: chính sách phát triển khoa học công nghệ;
chính sách đầu tư mà đặc biệt là cơ cấu đầu tư; chính sách phát triển nguồn
nhân lực… Các chính sách này một mặt thúc đẩy quá trình phân công lao
động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mặt khác đẩy nhanh tốc độ chuyển
dịch cơ cấu ngành, cơ cấu nội bộ ngành. Những tác động này không những
làm thay đổi sự phân bố lao động giữa các ngành và nội bộ ngành mà còn
nâng cao chất lượng lao động, một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
1.3. Sự cần thiết phải chuyển dịch CCLĐ theo ngành ở các địa phương
1.3.1. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu lao động theo ngành của
cả nước đến năm 2010
Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu
quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt
hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy
mạnh xuất khẩu. ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh
và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm
soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội

bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp
độ tăng GDP. Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế,
đến năm 2010 tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp 40
- 41%, dịch vụ 42 - 43%. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành,
đến năm 2010 tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%.


×