Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
- Về những rủi ro chủ yếu trong cho vay ngắn hạn đối với các DNXL:...................................................29
1.3.3.1 Các nhân tố chủ quan.................................................................................................................57
1.3.3.2 Các nhân tố khách quan.............................................................................................................61
a.Nhân tố từ phía DNXL:.........................................................................................................................61
b.Các nhân tố khác:................................................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Thị Thanh
1
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi
nhánh thành phố Hà Nội chính thức thành lập theo quyết định số
198/QĐ – TCCB ngày 29.06.1988 của Tổng Giám đốc Ngân hàng
Công thương Việt Nam. Trải qua 21 năm, NHCT vẫn vững bước trên
con đường hội nhập và phát triển. Để được thành công đó thì hoạt
động cho vay là một trong những nghiệp vụ chính đem lại thu nhập
cho Ngân hàng, trong đó cho vay đối với các DNXL đóng góp một
phần đáng kể.
Tuy nhiên, do đặc điểm hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp
xây lắp mà việc cho vay loại hình doanh nghiệp này luôn phát sinh rất
nhiều rủi ro. Hơn nữa do biến động của cuộc suy giảm kinh tế kéo dài
từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế rơi vào suy thoái, thị trường bất
động sản đóng băng, lạm phát tăng cao, tác động không tốt tới tình
hình sản xuất kinh doanh của DNXL. Đảm bảo an toàn cho vốn của
Ngân hàng khi cho vay đồng thời cung ứng vốn đầy đủ, kịp thời giúp
DNXL hoạt động chất lượng là nhiệm vụ và mục tiêu của NHCT - Chi
nhánh Hà nội.
Do đó việc nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các
doanh nghiệp xây lắp là đòi hỏi rất cấp bách của ngân hàng hiện nay.
Góp phần giải quyết tính cấp bách từ thực tiễn tại Ngân hàng Công
thương - Chi nhánh Hà nội, đề tài: “ Cho vay ngắn hạn đối với doanh
Trần Thị Thanh
2
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
nghiệp xây lắp tại Vietinbank – Chi nhánh Hà nội” được lựa chọn
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay ngắn
hạn đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Công thương - Chi nhánh Hà nội
để đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
- Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối
với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Công thương - Chi nhánh Hà
nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng thương mại
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động cho vay người ta có
thể nghiên cứu trên các phương diện: mở rộng phát triển cho vay,
nâng cao chất lượng cho vay, nâng cao hiệu quả cho vay. Trong bản
luận văn này tác giả chỉ xét trên góc độ ngân hàng và tập trung nghiên
cứu chất lượng cho vay ngắn hạn dưới giác độ cho vay ngắn hạn đối
với các doanh nghiệp xây lắp để phục vụ hoạt động thi công xây lắp
tại Ngân hàng Công thương - Chi nhánh Hà nội.
Trần Thị Thanh
3
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
Thời gian nghiên cứu: nghiên cứu tình hình cho vay ngắn hạn tại
NHCT- Chi nhánh Hà nội trong vòng 3 năm (từ năm 2009 đến năm
2011).
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê kinh tế, so sánh, tổng
hợp một cách logic để làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra nhằm tìm ra các
giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp
xây lắp.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, hệ thống ngôn từ viết tắt,
danh mục tài liệu tham khảo, các bảng biểu và sơ đồ, nội dung chính
của luận văn được trình bày theo kết cấu 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng cho vay ngắn hạn đối với
Doanh nghiệp xây lắp
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Công thương – Chi nhánh Hà nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn các
doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Công thương - Chi nhánh Hà nội
Trần Thị Thanh
4
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Trần Thị Thanh
Luận văn tốt nghiệp
5
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI
VỚI
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1.
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái quát chung về Ngân hàng Thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức quan trọng nhất của nền
kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp đều gửi
tiền tại Ngân hàng, nó được ví như thủ quỹ của toàn xã hội. Ngân
hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ
gia đình và một phần đối với Nhà nước. Ngoài việc nhận tiền gửi và
cung cấp các phương thức thanh toán, Ngân hàng còn thực hiện nhiều
chính sách quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này
trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân
hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, và dịch vụ thanh
toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Một số định nghĩa dựa trên
Trần Thị Thanh
6
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
các hoạt động chủ yếu, ví dụ Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động Ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cung cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
a. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng
khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các
loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác để huy động vốn trong và ngoài nước.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam
và các tổ chức nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động khác theo quy định của Nhà nước.
b. Hoạt động tín dụng
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân
dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định
Trần Thị Thanh
7
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
của Nhà nước. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt
động quan trọng và chiếm tỷ trọng cao nhất.
Cho vay: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức và cá
nhân vay vốn dưới các hình thức cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn tùy theo mục đích sử dụng vốn.
Bảo lãnh: Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh
thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các
hình thức bảo lãnh khác bằng uy tín và khả năng của Ngân hàng.
Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu
các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ
chức tín dụng khác.
Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính
nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập,
tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo
Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính.
c. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của Ngân hàng
thương mại bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
Trần Thị Thanh
8
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà
nước cho phép.
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh
toán liên Ngân hàng trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Nhà nước cho
phép.
d. Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính như huy động vốn, cấp tín dụng,
cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, Ngân hàng thương mại còn
thực hiện một số hoạt động khác bao gồm: Góp vốn và mua cổ phần
của tổ chức khác, mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ, kinh
doanh ngoại hối, ủy thác và nhận ủy thác, cung ứng dịch vụ bảo hiểm,
tư vấn tài chính, bảo quản vật quý giá.
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của cho vay ngắn hạn
Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay có thời hạn hợp đồng
dưới 1 năm có thể chia thành các khoảng thời gian 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng và 12 tháng... Cho vay ngắn hạn là loại hình cho vay nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên như mua nguyên vật liệu, trả
lương công nhân, dự trữ hàng hóa
Trần Thị Thanh
9
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
Cho vay ngắn hạn là một hình thức sử dụng vốn phổ biến nhất
của NHTM. Các khoản cho vay này thường ít rủi ro hơn về khả năng
thanh toán cũng như rủi ro về lãi suất hơn so với trung và dài hạn.
CVNH cũng mang những đặc điểm chung của loại hình cho vay là
tính hoàn trả, tính thời hạn và dựa trên cơ sở lòng tin thì ngoài ra
CVNH còn có một số đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất: CVNH có thời gian thu hồi vốn nhanh; do các khoản
cho vay ngắn hạn thường dưới 1 năm nên nó thường ít rủi ro hơn so
với cho vay trung và dài hạn. Như vậy mức lãi suất CVNH cũng thấp
hơn so với cho vay trung và dài hạn.
Thứ hai: Đây là hình thức cho vay phổ biến và truyền thống của
NHTM; Ngân hàng hoạt động trên cơ sở nhận tiền gửi và đi vay để
cho vay. Trong khi các khoản nhận tiền gửi và đi vay chủ yếu là ngắn
hạn nên vì mục tiêu an toàn và sinh lợi các Ngân hàng cũng chủ yếu
cho vay ngắn hạn. Hơn nữa theo quy định các Ngân hàng cũng chỉ
được phép chuyển một tỷ lệ nhất định các khoản tiền gửi ngắn hạn để
cho vay dài hạn. Ngày nay tuy hoạt động tín dụng đã có nhiều bước
phát triển nhưng CVNH vẫn chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò quan
trọng.
Thứ ba, Các hình thức CVNH phong phú: ngày nay nhu cầu của
khách hàng ngày càng đa dạng và đòi hỏi của họ ngày càng cao. Do
vậy các Ngân hàng phải không ngừng nghiên cứu để cải tiến sản phẩm
của mình có như vậy mới tồn tại trong điều kiện cạnh tranh như hiện
nay đồng thời cũng nhằm phân tán rủi ro. Các hình thức CVNH hiện
nay gồm cho vay thấu chi, cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức và
Trần Thị Thanh
10
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
cho vay luân chuyển.
Thứ tư, Vốn vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu tài trợ ngắn hạn
thường xuyên cũng như nhu cầu vốn thời vụ cho doanh nghiệp;
CVNH chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn thiếu hụt trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp do sự lệch pha trong quá trình lưu
chuyển tiền tệ. Khách hàng thường vay khi bắt đầu vào mùa vụ và sẽ
thanh toán cho Ngân hàng khi cuối mùa vụ. Như vậy thời hạn cho vay
chỉ là trong một chu kỳ sản xuất.
1.1.3.Các phương thức cho vay ngắn hạn
Hoạt động cho vay của các NHTM hiện nay rất đa dạng và
phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại tín dụng có
ý nghĩa quan trọng trong thực hiện cân đối nguồn vốn huy động và sử
dụng vốn của Ngân hàng. Phân loại hoạt động cho vay có cơ sở khoa
học là tiền đề để thiết lập các quy trình thích hợp và nâng cao hiệu quả
QLRR. Có thể phân hoạt động cho vay ngắn hạn như sau:
1.1.3.1
Căn cứ theo hình thức tài trợ vốn vay:
- Cho vay thấu chi:
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép
người vay được phép chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của
mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất
định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin Ngân hàng hạn
mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình sử dụng khách hàng
có thể ký séc, lập UNC có thể vượt quá số dư tiền gửi song không được
Trần Thị Thanh
11
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
vượt quá hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản
thì Ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả dựa
trên lãi suất thấu chi, thời gian thấu chi, số tiền thấu chi. Các khoản chi
vượt qua hạn mức sẽ phải chịu lãi suất phạt và đình chỉ ngay việc sử
dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở sự không phù hợp về thời gian và quy
mô trong quá trình thu và chi của khách hàng. Hình thức này giúp cho
khách hàng có thể chủ động, nhanh, kịp thời trong việc thanh toán.
Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn là không có tài sản đảm bảo và chỉ cung cấp cho doanh nghiệp hay
cá nhân vài ngày trong tháng hoặc vài tháng trong năm và chỉ cung
cấp cho khách hàng có độ tin tưởng cao có chu kỳ thu nhập đều đặn và
kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần:
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của các Ngân hàng
đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không có đủ điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn
chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu chỉ khi có nhu cầu vốn
thời vụ mới vay Ngân hàng. Tức là vốn Ngân hàng chỉ tham gia vào
một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm của loại cho vay này là khách hàng xin vay món nào
thì phải làm hồ sơ xin vay món đó. Như vậy nếu trong một quý khách
hàng có bao nhiêu món vay thì phải làm bấy nhiêu hồ sơ xin vay. Bộ
Trần Thị Thanh
12
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
phận tín dụng sẽ tiến hành phân tích hồ sơ xin vay và xem xét cho vay
đối với từng hồ sơ cụ thể từ đó xem xét quy mô cho vay, thời hạn giải
ngân, thời hạn trả nợ và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Trong quá trình
khách hàng sử dụng khoản vay Ngân hàng có thể kiểm tra mục đích
và hiệu quả sử dụng món vay nếu phát hiện người vay sử dụng sai
mục đích vi phạm hợp đồng đã ký kết Ngân hàng có thể thu nợ trước
hạn.
Hình thức này có ưu điểm là Ngân hàng chủ động trong việc sử
dụng vốn. Tuy nhiên hình thức này có nhiều nhược điểm là thủ tục
phức tạp, tốn chi phí, thời gian cho cả khách hàng và Ngân hàng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng
Đây là nghiệp vụ theo đó Ngân hàng thỏa thuận cung cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kỳ
hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Đặc điểm cơ bản của loại cho vay này là một hồ sơ xin vay có
thể dùng cho nhiều món vay. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện
vay trả nhiều lần song không được vượt quá hạn mức tín dụng. Tuy
nhiên có một số Ngân hàng quy định hạn mức
tín dụng cuối kỳ tức là trong kỳ khách hàng có thể chi vượt hạn mức
nhưng cuối kỳ khách hàng phải trả sao cho dư nợ không vượt quá hạn
mức đã được cấp.
Hình thức cho vay này có nhiều ưu điểm như thuận tiện cho
khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, vốn vay tham gia
Trần Thị Thanh
13
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này
Ngân hàng không ấn định trước ngày thu nợ do đó tạo chủ động trong
quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên nhược điểm của hình
thức này là Ngân hàng dễ bị đọng vốn trong kinh doanh, hơn nữa do
các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên Ngân hàng
khó kiểm soát hiệu quả của từng lần vay.
- Cho vay luân chuyển:
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển
của hàng hoá, doanh nghiệp khi mua hàng hóa có thể thiếu vốn, Ngân
hàng có thể cho vay để mua hàng và thu nợ khi doanh nghiệp bán
hàng. Đầu năm hoặc đầu quý người vay phải làm đơn xin vay luân
chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương
thức vay, hạn mức tín dụng, Các nguồn cung cấp hàng hóa và khả
năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một
năm hoặc nhiều năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời
hạn để Ngân hàng xem lại mối quan hệ với khách hàng và đưa ra
quyết định có nên cho vay tiếp hay không.
Việc cho vay dựa trên tính chất luân chuyển của hàng hóa nên cả
Ngân hàng và khách hàng đều phải nghiên cứu kế hoạch luân chuyển
hàng hóa để từ đó dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Cho vay luân chuyển có nhiều ưu điểm là rất thuận tiện cho
khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay.
Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời vì vậy có lợi thế cho
Trần Thị Thanh
14
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
việc mua hàng hóa và việc thanh toán cho người bán sẽ nhanh gọn
hơn. Hình thức này thường áp dụng với doanh nghiệp thương mại
hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
vay trả thường xuyên với Ngân hàng và có tình hình tài chính lành
mạnh. Tuy nhiên nhược điểm của nó là Ngân hàng sẽ gặp khó khăn
trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy
định rõ ràng.
1.1.3.2 . Căn cứ theo TSĐB vốn vay:
TSĐB của khoản vay cho phép Ngân hàng có được nguồn thu nợ
thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ hoạt
động sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ. Theo tiêu thức
này, hoạt động cho vay được chia làm hai loại:
- Cho vay có TSĐB: là loại hình cho vay mà Ngân hàng yêu cầu
doanh nghiệp vay phải thế chấp tài sản với tỷ lệ trên dư nợ vay nhất
định tùy theo chính sách khách hàng trong từng thời kỳ.
- Cho vay không có TSĐB: là loại hình cho vay mà Ngân hàng
chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng, không yêu cầu phải có tài sản
thế chấp đảm bảo cho khoản vay. Loại hình này thường được cấp cho
các khách hàng có uy tín, thường xuyên có lãi, tình hình tài chính
vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa.
1.1.3.3 . Căn cứ theo đối tượng khách hàng:
- Cho vay Chính phủ: Là loại hình cho vay mà khách hàng đi
vay là Chính phủ, mục đích chủ yếu là để đầu tư vào các dự án phát
Trần Thị Thanh
15
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
triển kinh tế.
- Cho vay tổ chức kinh tế: Là hoạt động cho vay nhằm mục đích
phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay của cá nhân nào
đó.
- Cho vay tổ chức tài chính: (như Ngân hàng, công ty tài chính,
quỹ tín dụng,...) Hoạt động này là để đáp ứng nhu cầu thanh khoản
hay thanh toán liên Ngân hàng.
- Cho vay cá nhân: Là hoạt động cho vay chủ yếu đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của cá nhân.
1.1.3.4 . Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay
- Cho vay tiêu dùng: Là những khoản cho vay chủ yếu là để phục
vụ cho nhu cầu chi tiêu của cá nhân hoặc hộ gia đình.
- Cho vay kinh doanh: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được
sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối tượng khách hàng vay vốn có
thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp mà chủ yếu là doanh nghiệp.
1.2 HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI.
1.2.1 Giới thiệu về Doanh nghiệp xây lắp
1.2.1.1 Khái niệm và các hoạt động chính
Hoạt động thi công xây lắp được quy định theo Luật đấu thầu số
61/2005/QH11 thông qua ngày 29/11/2005 là bao gồm những công
Trần Thị Thanh
16
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt các công trình, hạng mục
công trình, cải tạo, sửa chữa lớn. Trong đó, công trình xây dựng được
hiểu là sản phẩm của công nghệ lắp đặt gắn liền với đất (bao gồm cả
khoảng không, mặt nước, mặt đất, mặt biển, thềm lục địa) được tạo
thành bởi vật liệu xây dựng, thiết bị và lao động.
DNXL là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành
lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký ngành nghề hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản để tạo ra các công trình xây dựng hay
kinh doanh về xây dựng. Theo quy định điều 16, Nghị định
52/1999/NĐ-CP vào ngày 8/7/1999 của Chính phủ về việc ban hành
quy chế quản lý đầu tư và xây dựng.
DNXL có hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu là: (1) hoạt động tìm
kiếm hợp đồng xây dựng và (2) hoạt động bàn giao công trình hoàn
thành và thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư công
trình. Các doanh nghiệp xây lắp có trách nhiệm:
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Chủ đầu tư về các nội dung
đã cam kết trong hợp đồng, bao gồm cả số lượng, chất lượng, tính
chính xác của sản phẩm, thời gian thực hiện hợp đồng, có quy định và
hướng dẫn sử dụng công trình trước khi bàn giao công trình xây dựng,
thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây dựng và công trình theo
quy định.
Trần Thị Thanh
17
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
- Thực hiện chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, thực hiện an
toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng.
Thông tin rộng rãi về năng lực hoạt động của Doanh nghiệp để Chủ
đầu tư biết và lựa chọn.
- Các hoạt động sản xuất chính của Doanh nghiệp xây lắp
(DNXL) là:
Chế tạo các sản phẩm thuộc các loại hình:
- Các loại thiết bị phục vụ cho các ngành công nghiệp nặng, công
nghiệp nhẹ như: Dệt may, nhiệt điện, thuỷ điện, xi măng, dầu khí……
- Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, thiết bị gạch, thiết bị băng tải,
gầu tải, vít tải, thiết bị lọc bụi tĩnh điện, lọc bụi túi…
- Kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, đầm chịu lực, giàn không
gian.
- Thiết bị phi tiêu chuẩn, đường ống công nghiệp.
- Các loại bình bể, silo chứa.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình nhà ở dân dụng, công
nghiệp, các công trình thuỷ lợi, giao thông:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng các khu đô thị, khu công nghiệp.
- Xây dựng nhà công nghiệp, dân dụng, trường học, bệnh viện.
- Xây dựng trạm bơm, đê, kè, hồ chứa nước., cảng sông, cảng biển
- Thi công các công trình giao thông.
Trần Thị Thanh
18
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
- Xây dựng các công trình
Thực hiện lắp đặt:
- Lắp đặt thiết bị công nghệ cho các công trình, dự án xây dựng.
- Lắp khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất.
- Lắp thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh điện.
- Lắp đặt hệ thống điều hòa.
- Các công tác lắp đặt khác liên quan trong ngành xây dựng.
Thực hiện các dịch vụ khác:
- Cung cấp thiết bị cho công trình công nghiệp, công trình nhiệt
điện, thủy điện, các trạm bơm biến áp, đường dây…
- Đào tạo công nhân kỹ thuật.
- Xuất nhập khẩu thiết bị, vật tư.
- Xuất khẩu lao động.
- Tư vấn đầu tư lao động.
- Thiết kế
1.2.1.2 Đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp xây lắp
Ngành xây lắp là ngành sản xuất vật chất đặc biệt có những đặc
điểm riêng khác so với những ngành sản xuất vật chất khác. Xuất phát
từ những đặc thù riêng đó, sản phẩm xây lắp cũng có đặc điểm riêng,
khác với sản phẩm hàng hóa của ngành sản xuất vật chất khác ở chỗ
mỗi sản phẩm đều có yêu cầu riêng về công nghệ, về quy phạm, về
Trần Thị Thanh
19
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
tiện nghi, về mỹ quan và sự an toàn. Những đặc điểm riêng của ngành
và đặc điểm của sản phẩm xây lắp sẽ chi phối công tác tổ chức quản
lý, điều hành. Việc nghiên cứu nắm rõ các đặc điểm này, giúp Ngân
hàng đưa ra những quyết định chính xác, nắm rõ được những rủi ro và
đề ra những phương án khắc phục rủi ro, nhằm tiến hành cho vay, bảo
lãnh có hiệu quả.
Trong xây dựng người ta thường phân biệt giữa một bên là Chủ
đầu tư (bên A) và Doanh nghiệp thi công xây lắp - thường được gọi là
các Nhà thầu (bên B). Các doanh nghiệp thi công xây lắp là các đơn vị
ký hợp đồng thi công xây lắp trực tiếp với Chủ đầu tư hoặc nhận lại
một phần việc thi công xây lắp công trình từ các Nhà thầu chính (còn
gọi các doanh nghiệp này là các Nhà thầu phụ), chịu trách nhiệm trong
vấn đề xây dựng các công trình theo thiết kế của Chủ đầu tư. Hiện
nay, hầu hết các công trình, hạng mục công trình sử dụng nguồn vốn
ngân sách, Chủ đầu tư là các doanh nghiệp Nhà nước đều được thực
hiện tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu theo quy chế đấu thầu của
Chính phủ nhằm chọn được các nhà thầu có đầy đủ tư cách pháp nhân,
năng lực thi công thực sự với chất lượng đảm bảo và giá cả hợp lý.
- Đặc điểm về cơ cấu tổ chức, quản lý trong các DNXL:
Các DNXL do đặc thù sản xuất kinh doanh trên diện rộng, sản
phẩm sản xuất ra nằm trên nhiều địa bàn khác nhau đòi hỏi cơ cấu tổ
chức, quản lý phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Hiện nay, tuỳ
vào quy mô hoạt động kinh doanh và hình thức sở hữu mà các doanh
Trần Thị Thanh
20
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
nghiệp xây dựng có cơ cấu tổ chức, quản lý phù hợp với đặc điểm của
đơn vị mình.
+ Đối với các doanh nghiệp là các tập đoàn, các Tổng công ty: Cơ
cấu tổ chức được xây dựng theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con,
công ty liên doanh, liên kết … hoạt động kinh doanh theo định hướng,
kế hoạch của Công ty mẹ.
+ Đối với các Công ty cổ phần, các công ty cổ phần có quy mô
vốn, tài sản tương đối lớn: Thực hiện cơ cấu tổ chức theo mô hình
Công ty mẹ - Công ty con kết hợp với việc thành lập các Chi nhánh,
văn phòng đại diện, các xí nghiệp hạch toán phụ thuộc, các nhà máy,
trung tâm…..Số lượng, quy mô và loại hình tổ chức được hình thành,
sắp xếp phù hợp với quy mô hoạt động, sản xuất kinh doanh của từng
doanh nghiệp.
+ Đối với các DNXL có quy mô vừa và nhỏ: Mô hình tổ chức
quản lý sẽ được bố trí xắp xếp gọn nhẹ, đảm bảo hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
- Đặc điểm của sản phẩm xây lắp:
+ Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với
nơi tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện, địa chất, thủy
văn, khí hậu.
+ Sản phẩm xây lắp có quy mô lớn, kết cấu phức tạp.
+ Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của
sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành
Trần Thị Thanh
21
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
khác.
+ Sản phẩm xây lắp có liên quan đến nhiều ngành, vùng, địa
phương.
+ Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp về mặt kỹ thuật, kinh tế,
xã hội, văn hóa, nghệ thuật và quốc phòng.
+ Sản phẩm xây lắp có tính đơn chiếc, riêng lẻ.
- Đặc điểm về tình hình tài chính của các DNXL:
+ Vốn tự có của DNXL thấp, chủ yếu tồn tại dưới dạng máy móc
thiết bị đã qua sử dụng, trụ sở doanh nghiệp. Thực tế hiện nay, vốn chủ
sở hữu của DNXL chỉ chiếm khoảng 5 -15% trong tổng số nguồn vốn
của doanh nghiệp, còn lại là vốn vay Ngân hàng và các nguồn vốn
chiếm dụng khác. Do đó, gánh nặng về chi phí lãi vay lớn gây áp lực
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, do sản lượng
thi công tăng lên cùng với yêu cầu cao về chất lượng công trình đòi hỏi
doanh nghiệp phải có vốn lưu động lớn cũng như trang bị những thiết
bị thi công hiện đại. Vì vậy, nhu cầu vốn (cả vốn ngắn hạn và vốn đầu
tư trung, dài hạn) ngày càng tăng. Do đó, trong hoạt động của các đơn
vị này, nhu cầu vay vốn Ngân hàng để hoạt động là thường xuyên và
rất lớn.
+ Nhu cầu vốn lưu động của DNXL thường chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Các Ngân hàng thường cho vay các DNXL để bổ sung vốn
lưu động, phục vụ thi công công trình. Đối với nhu cầu đầu tư mới,
Trần Thị Thanh
22
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
Ngân hàng thường chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn lại các
DNXL tự bỏ vốn tự có của mình.
+ Tốc độ chu chuyển vốn trong các DNXL thường không cao.
Do quy mô lớn, thời gian sản xuất kéo dài nên vốn bỏ vào xây dựng
các công trình dễ bị ứ đọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của
các DNXL. Nếu công trình thiếu vốn hoạt động thì quá trình thi công
sẽ bị gián đoạn, thời gian xây dựng bị kéo dài. Khi công trình hoàn
thành, công tác nghiệm thu, quyết toán và thanh toán phụ thuộc nhiều
vào Chủ đầu tư, do vậy, các DNXL thường bị chiếm dụng vốn trong
thời gian dài, tốc độ quay vòng vốn lưu động thấp. Nhu cầu vốn lưu
động cần thiết cho thi công lớn trong khi vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ
nhỏ trong tổng nguồn vốn nên các DNXL phải huy động vốn bên
ngoài, chủ yếu là vốn vay Ngân hàng.
+ Tình hình tài chính và chu chuyển vốn của các DNXL phụ
thuộc rất lớn vào tình hình tài chính, nguồn vốn thanh toán của Chủ
đầu tư (Bên A). Các DNXL có tình hình tài chính lành mạnh, kinh
doanh có lãi thường là các doanh nghiệp có tình hình thanh toán công
nợ tốt với Chủ đầu tư, sản lượng thực hiện được nghiệm thu thanh
toán kịp thời theo giai đoạn, không bị chiếm dụng vốn. Đồng thời,
trước khi tham gia đấu thầu, ký kết hợp đồng xây lắp, các DNXL cần
đặc biệt quan tâm đến nguồn vốn thanh toán của công trình, uy tín và
tình hình tài chính của Chủ đầu tư để tránh rủi ro về thanh khoản trong
quá trình thi công, nghiệm thu, thanh toán vốn.
Trần Thị Thanh
23
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
- Đặc điểm chu chuyển vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh:
Cũng như mọi doanh nghiệp khác, muốn tiến hành sản xuất kinh
doanh, các DNXL cần phải có tài sản lưu động. Tài sản lưu động của
Doanh nghiệp tồn tại dưới hai hình thái: hình thái vật chất là các công
cụ, dụng cụ, nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất, xây dựng,
hàng hóa tồn kho (bán thành phẩm)…; hình thái phi vật chất là các tài
sản ngắn hạn tồn tại dưới dạng giá trị như các khoản phải thu từ Chủ đầu
tư, các khoản ứng trước cho các nhà cung cấp vật tư, hàng hóa…, các
khoản ứng trước cho các nhà thầu phụ, các chi phí trích trước…Tài sản
lưu động tồn tại dưới hình thái vật chất chủ yếu diễn ra trong quá trình
trực tiếp sản xuất và quá trình dự trữ sản xuất. Tài sản lưu động tồn tại
dưới hình thái phi vật chất chủ yếu diễn ra trong quá trình lưu thông. Tài
sản lưu động tồn tại trong các hình thức này liên tục đổi chỗ cho nhau và
vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được
tiến hành thuận lợi và liên tục.
Như vậy, DNXL nào cũng cần có một số vốn thích hợp để đầu
tư và tài sản lưu động. Số tiền dành để đầu tư cho những tài sản đó
được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Để quản lý vốn lưu động
được tốt, chúng ta cần phân loại vốn lưu động. Dựa theo vai trò trong
quá trình tái sản xuất, vốn lưu động được chia thành ba loại, trong mỗi
loại dựa theo công dụng lại được chia thành nhiều khoản cụ thể. Với
DNXL vốn lưu động được chia thành:
+ Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất.
Trần Thị Thanh
24
Lớp CH 19D
- -
Khoa Ngân hàng – Tài chính
Luận văn tốt nghiệp
+ Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất.
+ Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông.
Đối với sản phẩm xây lắp bao giờ cũng được thi công ngay tại
chỗ cho nên sản phẩm không phải nhập kho và vận chuyển tới nơi tiêu
thụ. Mặt khác, thi công xây lắp hiện nay sản xuất theo kiểu đơn đặt
hàng nên sản phẩm xây lắp không khó khăn gì trong việc tìm người
tiêu thụ. Ngay sau khi hoàn thành, các công trình xây lắp được bàn
giao cho Chủ đầu tư. Hai bên thực hiện nghiệm thu và quyết toán công
trình. Chủ đầu tư sẽ thanh toán cho Nhà thầu dựa trên số tiền được
quyết toán. Như vậy, nhu cầu về vốn thành phẩm ở đây được xuất
phát từ sản lượng xây lắp phải bàn giao quyết toán trong kỳ kế hoạch
và thời gian cần thiết để làm thủ tục nghiệm thu, thanh quyết toán giữa
Chủ đầu tư và Nhà thầu.
1.2.2. Cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xây lắp.
1.2.2.1 Khái niệm
Cho vay ngắn hạn đối với Doanh nghiệp xây lắp là một trong
những hình thức cho vay của tổ chức tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (các doanh nghiệp xây lắp) một
khoản vốn tiền tệ, bên vay sẽ sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong
một khoảng thời gian tối đa là 12 tháng, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức
tín dụng cả gốc và lãi theo thoả thuận. Mục đích sử dụng vốn của các
doanh nghiệp xây lắp là để thanh toán chi phí lưu động trong quá trình
thi công xây dựng các công trình (hoặc từng hạng mục công trình)
Trần Thị Thanh
25
Lớp CH 19D
- -