MỞ ĐẦU
Báo chí càng cạnh tranh gay gắt, người đọc càng có cơ hội được tiếp
nhận thông tin nhanh, đa dạng và nhiều chiều hơn. Do đó tiếp cận ở góc độ
tâm lý tiếp nhận của độc giả luôn được chú ý .Đặc biệt với báo chí làm sao
có thể tiếp cận công chúng , độc giả trong thời kì cạnh tranh gay gắt thế
này luôn là một vấn đề được quan tâm nhiều
Bất kì một sản phẩm báo chí , ấn phẩm báo chí đều mục đích hướng đến
nhóm công chúng chính của mình . Mỗi một tác phẩm là một kênh thông
thông tin đưa đến cho người đọc tiếp nhận .Càng nóng càng mang tính thời
sự, phản ánh sự việc một cách nhanh nhất là điều được chú ý và cũng là
điều độc giả mong muốn nhất
Việc nghiên cứu tâm lý công chúng để có hướng điều chỉnh sản phẩm báo
chí của tòa soạn báo là điều cần thiết để phát triển một sản phẩm báo chí.
Ứng dụng tâm lý lứa tuổi vào viết báo và tổ chức sản phẩm đang là vấn đề
cần chú ý trong mỗi tờ báo.Dựa những điều trên đây em xin chọn đề tài “
Hướng ứng dụng tâm lý lứa tuổi tiểu học vào viết báo và tổ chức ấn phẩm
của báo Nhi Đồng”
Phần I: Nghiên cứu tâm lý lứa tuổi học sinhTiểu học
•
Vài nét về tâm lý học lứa tuổi
Tâm lý học lứa tuổi trình bày các hiện tượng và quy luật tâm lý theo các
lứa tuổi, qua đó nêu lên nguyên nhân, động lực của sự phát triển tâm lý
cùng những đặc trưng tâm lý qua các giai đoạn phát triển.
Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của cá nhân
đang được phát triển (vui chơi, lao động..) Qua đó nêu lên nguyên nhân
động lực của sự phát triển tâm lý cùng với những đặc trưng tâm lý qua các
giai đoạn phát triển của từng lứa tuổi. Ngoài ra, tâm lý học lứa tuổi chia
thành những chuyên ngành hẹp để nghiên cứu sâu về từng lứa tuổi
1
•
Đặc điểm tâm lý lứa tuổi Tiểu học
Căn cứ vào sự thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của con
người , căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của và sự trưởng
thành cơ thể, các nhà nghiên cứu đã chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong
sự phát triển tâm lý
+ Tuổi sơ sinh: mới sinh đến 2 tháng
+ Tuổi hài nhi: 2 tháng đến 12 tháng
+ Tuổi nhà trẻ ( ấu nhi): 1 tuổi đến 3 tuổi
+ Tuổi mẫu giáo: 3 tuổi đến 6 tuổi
+ Tuổi nhi đồng: 6 tuổi đến 11 tuổi
+ Tuổi thiếu niên: 11 tuổi đến 15 tuổi
+ Tuổi đầu thanh niên: 15 tuổi đến 18 tuổi
Trong đó lứa tuổi Tiểu học bắt đầu từ lúc 6 tuổi đến 11 tuổi
* Yếu tố ảnh hướng tới sự phát triển của học sinh Tiểu học
1. Đặc điểm về sự phát triển thể chất
Đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận
động như chạy, nhảy, nô đùa,… nhiều mô sụn, xương sống, xương hông,
xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên
dễ bị cong vẹo, gẫy dập.
Tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình
tượng, tư duy trừu tượng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí
tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ. Dựa vào sự phát triển này mà
các nhà giáo dục cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt động
vui chơi lành mạnh, an toàn.cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát
triển tư duy của các em.
2. Điều kiện sống và hoạt động
+Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có
thể tham gia các công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất
2
trong các gia đình neo đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,
…các em phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ.
+ Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn
học đều thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về
phương pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý
và có ý thức học tập tốt.
+Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội
mang tính tập thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc
biệt là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người
biết đến mình.
*. Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ
1. Đặc điểm hoạt động học tập
Học tập vẫn là hoạt động chủ đạo của học Tiểu học. Với những yêu cầu
cao hơn về tính tích cực và độc lập trí tuệ. Muốn lĩnh hội được sâu sắc môn
học phải có trình độ tư duy. Đòi hỏi phải có tính năng động và độc lập ở
lứa tuổi này.
Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì
đến tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất,
chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song
với hoạt động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như:
+ Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ
vật sang các trò chơi vận động.
+ Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản
thân và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,…Ngoài ra, trẻ
còn còn tham gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây,
trồng hoa,…
+ Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của
trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,…
3
* .Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ
1.Tư duy
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực
quan hành động.
Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu
tượng khái quát
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu
biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến
thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.
2.Tưởng tượng
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so
với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng
dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm
nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền
vững và dễ thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ
những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng
tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển
khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,…. Đặc biệt, tưởng tượng của các em
trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm,
những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động
tình cảm của các em.
3.Ngôn ngữ
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào
lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành
thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có
ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới
4
xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin
khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức
cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy,
tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua
ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của
trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên phải trau dồi
vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của
trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện
tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng..
4.Trí nhớ
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ – lôgic
Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm
ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc
ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết
cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng
cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi
nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập
trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý
tình cảm hay hứng thú của các em…
5.Ý chí
Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào
yêu cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo
khen, quét nhà để được ông cho tiền,…) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với
việc thực thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để
thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
5
Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người
lớn thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu
bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành
vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời
Sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ Chuyển từ hiếu kỳ,tò mò
sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính
hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội
quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh
khéo của đôi bàn tay để tập viết,…Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ
vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của
gia đình, nhà trường và xã
*. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn
gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,…Lúc này khả năng
kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận,
biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư…
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy
vậy so với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn
rất nhiều.
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu
học luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất
hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,…khi đó cần
phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học
tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ.
*. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi
trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi
nổi, mạnh dạn…Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và
bền vững ở trẻ.
6
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang
những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh
thể và hồn nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận
thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật
thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn,
những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có
được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân
cách của các em còn mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách
không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong
quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ
được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.
Phần II: Hướng ứng dụng tâm lý lứa tuổi trong viết báo và tổ
chức của một số ấn phẩm
I Đặc điểm nhóm công chúng học sinh Tiểu học Việt Nam
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi từ 7 đến 11 tuổi. Đây là lứa tuổi các
em trở thành một học sinh ở trường phổ thông, chứ không còn là một em bé
mấu giáo “học mà chơi, chơi mà học” nữa. Bao gồm nhiều dân tộc và thành
phần tôn giáo khác nhau.Phân chia thành nhiều vùng miền từ nông thôn,
đến thành thị , vùng sâu vùng xa….
Nhóm công chúng này có sự phát triển mạnh về nhận thức về các mặt của
xã hội, quan tâm đến tất cả các điều xảy ra quanh mình.Là nhóm công
chúng bắt đầu chịu sự tác động cũng như tiếp thu các sản phẩm báo chí .
Nhóm công chúng có nhu cầu tiếp nhận các sản phẩm báo chí sinh động,
ngộ nghĩnh ,nhất là về mặt hình ảnh đặc biệt
II Hướng ứng dụng tâm lý lứa tuổi trong viết báo và tổ chức của
các ấn phẩm dành cho học sinh Tiểu học tại Việt Nam.
Có rất nhiều các ấn phẩm viết cho lứa tuổi này nhưng trong bài chỉ xin đưa
một tờ báo tiêu biểu cho lứa tuổi này được nhiều người đón đọc
7
•
Báo Nhi Đồng , ấn phẩm Chăm học , ấn phẩm cười vui, Khoa học –
khám phá
Nhi Đồng là tờ báo chuyên viết cho các độc giả được ra đời vào dịp
Trung thu năm 1983 nhỏ tuổi ,dưới sự chỉ đạo của Trung Ương ĐoànThanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Hiện tại Nhi Đồng là ấn phẩm dành cho học
sinh Tiểu học, mẫu giáo có số lượng phát hành lớn và thu hút được nhiều
độc giả nhỏ tuổi nhất.
+ Sức hấp dẫn của trang bìa
Có thể nói, những ấn phẩm dành cho học sinh Tiểu học hiện nay đều có
trang bìa rất hấp dẫn. Đặc biệt với thiết kế, độc đáo, bắt mắt về màu sắc và
hình ảnh sinh động ..
Hầu hết bìa báo đều in hình ảnh các nhân vật hoạt hình ngộ nghĩnh, hay
các hình động vật rất được các bé yêu thích. Bên cạnh đó, trang bìa đăng tải
những bài trọng tâm bằng chữ viết chuẩn phù hợp với lứa tuổi tiểu học còn
riêng tên các ấn phẩm được làm cách điệu fon chữ Điều này đã tạo nên sức
thu hút nhất định đối với nhóm công chúng này .
Nắm bắt tâm lý lứa tuổi học sinh Tiểu học ưa thích hình ảnh, màu sắc
nổi bật, độc đáo, bắt mắt trong những sản phẩm báo chí, các ấn phẩm dần
thay đổi hình thức để sao cho càng ngày thu hút được nhiều độc giả hơn.
Bìa của tờ báo chí là phản ánh một ấn phẩm báo chí có hoàn hảo hay
không vì khi đọc báo trước tiên người ta chú ý đến bìa của mỗi tờ
báo.Chính vì vậy công việc thiết kế tờ bìa sao cho hợp lí nhất để tạo sự thu
hút đối với công chúng xem và mua báo được tòa soạn chăm chút không
dám xem nhẹ.
Những ấn phẩm danh cho học sinh tiểu học gần đây có sự thay da đổi
thịt khá mạnh mẽ . Các ấn phẩm như Chăm học, Cười Vui, Khoa Học
Khám Phá… bìa báo làm rất chuyên nghiệp, tạo sức hút hơn đối với công
chúng tiếp nhận . Hầu hết đều là hình ảnh nhân vật hoạt hình, các con vật
hay những bạn nhỏ … được in màu đẹp, sáng , tạo sự thích thú về thị giác
8
Nội dung bên trong tờ báo được trình bày ngăn nắp phù hợp cho lứa tuổi
tiểu học có nhiều chuyên mục khá là độc đáo bài viết nhiều màu sắc có
hình ảnh minh họa đi kèm cho bài viết và thêm nhiều trang truyện tranh
ảnh cho thiếu nhi, bao gồm cả những câu truyện cười .Có thể nói nội dung
rất đẹp phù hợp về mặt thị giác với màu sắc và thiết kế độc đáo. Điều này
đã góp phần thu hút sự quan tâm của nhóm công chúng mục tiêu là học
sinh tiểu học .
Khi nghiên cứu tâm lý, thị hiếu của nhóm công chúng. Những thay đổi
này là hoàn toàn phù hợp. Hình thức đẹp, ngỗ nghĩnh, rất bắt mắt là điều
đầu tiên mà chúng ta thấy ở báo thuộc lứa tuổi này.
Đây cũng là tiêu chí để tạo thói quen trong sự tiếp nhận của nhóm công
chúng. Chỉ có một bìa báo nhiều màu sắc, đẹp, bắt mắt mới có thể tiếp cận
được tâm lý ưa thích và chuộng hình thức của nhóm công chúng này.
+ Thông điệp
Là những ấn phẩm dành riêng cho học sinh tiểu học , nên thông điệp của
những ấn phẩm này cũng đặc biệt hướng tới chính là nhóm công chúng
này . Tờ báo và các ấn phẩm là dành riêng cho lứ tuổi thiếu nhi với các
thông điệp về cuộc sống , học hành, bạn bè… bao gồm tất cả các thông
điệp gắn với lứa tuổi này.Phù hợp với tâm lý lứa tuổi tiểu học khi bắt đầu
có sự tư duy và tưởng tượng, tự ý thức trước cuộc sống đầy màu sắc với
những con người xung quanh , các hoạt động đoàn thể..
+ Nội dung các chuyên mục
Nghiên cứu tâm lý công chúng là điều rất quan trọng trong công tác sáng
tạo sản phẩm báo chí, đặc biệt là trong nội dung của bài viết để có những
bài viết phù hợp tâm lý của nhóm công chúng đó.
+Báo Nhi Đồng là một tờ báo được lựa chọn của đa số học sinh và phụ
huynh .Báo viết về lứa tuổi thiếu nhi điều này tạo tâm lý gần gũi của độc
giả khi tiếp nhận sản phẩm báo chí. Do đó, ta có thể thấy, những ấn phẩm
thường xuyên đăng tải những bài viết về thiếu nhi .
9
Nội dung những chuyên mục cũng như những bài viết đều đề cập đến
thiếu nhi và những gì liên quan đến cuộc sống được phản ánh trong bài .
Những chuyên mục hay của Nhi Đồng có thể kể đến như: Gõ cửa các nhà
khoa học, Thiên nhiên kì thú , Văn phòng Bo Đa , Bạn bè dễ thương…..
Những chuyên mục này đều để lại cho người đọc một niềm thích thú riêng
cho mình . Nội dung những chuyên mục này xoay quanh những câu chuyện
và vấn đề mà học sinh gặp phải trong cuộc sống, chuyện học hành, bạn bè,
thắc mắc, giải đáp về học hành…Ngoài ra, những chuyên mục như Văn
phòng Bo ĐA, Bạn bè dễ thương là những chuyên mục hay góp phần giải
đáp khúc mắc lứa tuổi này và giao lưu với bạn bè cùng tuổi mình
Những chuyên mục này có phạm vi phản ánh rộng, không chỉ về học tập
mà còn phản ánh cả những điều kì thú trong thiên nhiên những chuyện lạ
trong nước mà cả quốc tế. Phù hợp với tâm lý ưa mới lạ, tò mò, ưa khám
phá của lứa tuổi này.
Bên cạnh đó là những chuyên mục giải trí phù hợp lứa tuổi như Chát
cùng sao toàn là các sao nhất là những sao hài hay diễn cho thiếu nhi rất
nổi tiếng như Xuân Bắc , Thúy Nga, Quang Thắng được lứa tuổi này yêu
thích hay Khéo tay-Sáng tạo vừa được chơi mà lại tiếp thu được những
kiến thức bổ ích cho mình Còn có chuyên mục Không thể nhịn cười là
những câu chuyện cười dí dỏm xoay quanh và xảy ra trong cuộc sống. Nội
dung về học tập là nội dung được Nhi Đồng chú ý. Đây là nơi đăng tải
những bài tập về những vấn đề được học sinh quan tâm như phương pháp
học tập, kỹ năng học tập một số môn học
+Ấn phẩm Chăm học là ấn phẩm chuyên viết về những vấn đề học tập
của lứa tuổi nhỏ . Đây là một ấn phẩm được rất nhiều học sinh yêu thích,
vì sự hấp dẫn và những kiến thức thông tin thu được trong đó khá nhiều về
vấn đề học tập những câu chuyện về trường lớp về các nhà khoa học trên
thế giới và cả về lịch sử nước nhà được kể theo lịch sự của các nhân vật
dưới các triều đại, ngoài ra còn có các bài tập, câu ca dao tục ngữ cách giải
10
thích nó được nhà khoa học giải thích tường tận. Học sinh còn được thử
sức với những bài toán trong đó như chuyên mục Đề thi Trạng nguyên
nhỏ tuổi là những bài toán phải giải có kèm theo giải thưởng. Cuối ấn phẩm
là đôi điều về các điểm du lịch nổi tiếng trong nước và quốc tế. Ấn phẩm
xuất bản dựa trên những nghiên cứu về tâm lý tuổi nhi đồng , đặc biệt là về
học tập rồi từ đó đề ra mục tiêu để xuất bản những bài viết phù hợp. Những
câu chuyện trong ấn phẩm này góp phần đáng kể vào việc hình thành và
phát triển
nhận thực tư duy cũng như kiến thức của tuổi nhi đồng này .
Ngôn ngữ của ấn phẩm này cũng mang đậm phong cách của nhi đồng,
sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn nhất với lứa tuổi này không sử dụng
các từ ngữ gây khó hiểu . Điều này một phần là do hướng đến công chúng
và một phần do đội ngũ làm báo của những ấn phẩm này hầu hết là những
học sinh
+ Ấn phẩm Cười vui là ấn phẩm chuyên viết sự hài hước nhằm tạo sự
giải trí cho riêng lứa tuổi này cũng là một ấn phẩm được đón đọc và săn
đón ư thích của khá nhiều bạn và phụ huynh . Với nhiều chuyên mục được
thể hiện : Cười hở mười cái răng, Bạn bè cười ta , Một tấc lên giời , Siêu
thị cười …hầu hết là những câu truyện chữ cười bao gồm truyện ngắn và
truyện dài nhằm mang lại tiếng cười cho các bạn trẻ .Bên cạnh đó còn có
truyện tranh cười gồm những hình ảnh ngỗ nghĩnh của nhiều nhân vật trong
tạo sự thu hút với lứa tuổi tiểu học này .
Hình ảnh và ngôn ngữ của ấn phẩm gợi lên cho bạn đọc sự hài hước đây
cũng là tính toán nhằm vào tâm lý tiếp nhận của bạn đọc sao có thể thu hút
được số lượng lượng lớn bạn đọc
+Ấn phẩm Khoa học khám phá chuyên viết về những vấn đề khoa
học thường thức trong cuộc sống để cho độc giả có thể khám phá và hiểu
biết về nó như các câu chuyện về khoa học , câu lạc bộ các nhà khoa học
trẻ tuổi , khoa học vui , những kỷ lục đáng nhớ . Không chỉ bao gồm những
công chuyện mà còn có giải đáp về những thắc mắc rất ngộ nghĩnh mà thực
11
tế như sư tử và hổ con nào mạnh hơn của bạn Trần Anh Tuấn qua lời giải
thích của bác Gõ kiến trong 1001 câu hỏi tại sao. Mục Vườn bách thú của
bạn là các con vật trong giới tự nhiện được giới thiệu . Cuối ấn phẩm là
mục chuyện lạ đó đây nói về những chuyện là trên khắp thế giới.
Hình ảnh và ngôn ngữ trong ấn phẩm này cốt yếu vẫn là sự thể hiện của
hình ảnh nhiều hơn đánh đúng vào tâm lý thị giác của học sinh tiểu học
bằng nhiều hình ảnh để làm cho những bài viết sống động chân thực hơn
III. Những vấn đề đặt ra trong viết báo và tổ chức sản phẩm dành
cho học sinh Tiểu học tại Việt Nam
Mặc dù có sự ứng dụng của những nghiên cứu tâm lý lứa tuổi học sinh
trong việc viết báo và tổ chức sản phẩm báo chí dành cho học sinh tiểu
họcs tại Việt Nam, nhưng hiện tại có nhiều vấn đề đáng lưu ý.
Nội dung trên báo, đài còn đơn điệu, nghèo nàn so với mong muốn của
các em. Các em đang rất mong có nhiều chương trình tư vấn tâm sinh lý,
sức khỏe cho trẻ em trong khi đó, các báo, đài dành thời lượng rất ít cho
lĩnh vực này; hình thức các báo chưa thật sự hấp dẫn, nhiều ấn phẩm in
trắng đen, sự đơn điệu trong các trang, mục và hình thức thể hiện còn mang
tính phổ biến, chưa tạo phong cách riêng cho tờ báo đã khiến mức độ thu
hút đối với các em còn hạn chế.
Nguyên nhân cơ bản khiến báo chí dành cho trẻ em chưa phát triển đúng
yêu cầu mong muốn, là hiện nay đội ngũ làm báo cho trẻ em còn hạn chế
về kỹ năng nghiệp vụ. Phần lớn các nhà báo viết cho trẻ em còn hạn chế về
kỹ năng viết báo cho trẻ em. Thông thường, các nhà báo chỉ học hỏi kinh
nghiệm từ đồng nghiệp hoặc rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn hoặc làm báo
cho trẻ em như báo cho người dưỡng vẫn chưa được tổng kết và đánh giá
một cách toàn diện.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để trẻ em đón nhận báo chí là vô cùng
cần thiết. Để làm được điều đó, thầy cô, cha mẹ có trách nhiệm nâng cao
nhận thức về vai trò của báo chí cho trẻ để các em tự giác tìm đến với báo
12
chí như đọc báo, xem truyền hình và nghe đài… Đối với trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt, không có phương tiện nghe, nhìn, các cấp ủy Đảng, chính
quyền cần có chính sách hỗ trợ dưới hình thức mua báo tặng cho các em.
Báo, Đài, ngoài tổ chức các chương trình văn nghệ gây quỹ học bỗng, có
thể vận động các tổ chức, cá nhân tài trợ kinh phí mua báo, các phương tiện
nghe, nhìn cho trẻ em.
Phải thường xuyên nắm bắt nhu cầu công chúng để cải tiến nội dung
và hình thức cho phù hợp, bởi trẻ em đang trong giai đoạn phát triển về thể
chất lẫn tinh thần, việc nắm bắt nhu cầu của trẻ em là việc làm không dễ,
đòi hỏi phải có một quá trình nghiên cứu thường xuyên và lâu dài. Ngoài
dựa vào các kênh: bạn đọc gửi thư từ, mail, điện thoại, Báo, Đài nên chủ
động đi tìm nguồn thông tin từ chính bài viết cộng tác của trẻ em hoặc tổ
chức các cuộc điều tra xã hội học, thăm dò ý kiến từng nhóm trẻ sống trong
môi trường khác nhau để nắm bắt tâm lý từng nhóm trẻ em, ghi nhận
những vấn đề các em đang quan tâm…
Tổ chức nội dung đúng chủ trương có nghĩa là nội dung không chạy theo
thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng trẻ em, không xa rời tôn
chỉ, mục đích của báo. Lưu ý, không nên đánh đồng thị hiếu tầm thường
với những nhu cầu tiếp nhận thông tin bình thường của trẻ em. Bởi khi xã
hội chưa phát triển cao thì số lượng tiếp nhận thông tin ở mức độ giản đơn
sẽ chiếm đa số. Tốt nhất, các báo nên tổ chức nội dung xuất phát từ chức
năng, nhiệm vụ, tôn chỉ mục đích của tờ báo và xác định đối tượng tiếp
nhận là ai, từ đó tìm ra phương thức tổ chức hợp lý, đáp ứng đúng chủ
trương và trúng nhu cầu của trẻ em..
Để thu hút trẻ em, các báo cho trẻ em phải sắp xếp, bố trí các yếu tố nội
dung trên trang báo đúng, hợp lý đẹp. Đối với truyền hình, hình ảnh cần rõ
nét, màu sắc hài hòa, âm thanh tốt để hấp dẫn được công chúng. Riêng phát
thanh, âm thanh phải rõ ràng…
13
Đối với các nhà báo viết cho trẻ em tương lai, việc trang bị kỹ năng viết
báo cho trẻ em phụ thuộc rất nhiều vào các trường có đào tạo chuyên ngành
báo chí. Nên chăng, các trường cần bổ sung chuyên đề báo chí với trẻ em
vào chương trình học; khuyến khích sinh viên, học viên tham gia viết báo
cho trẻ em ngay khi còn ở ghế nhà trường.
Với các phóng viên, biên tập viên đang viết báo cho trẻ em, việc tạo điều
kiện thuận lợi để họ được tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ viết báo
cho trẻ em do các tổ chức có liên quan tổ chức là vô cùng cần thiết.
Với trường hợp người lớn làm báo cho trẻ em và có sự tham gia của trẻ em,
người làm báo cần phải có nhiều kinh nghiệm. Ngoài việc chọn đề tài,
phóng viên, biên tập viên phải có kinh nghiệm trong việc tiếp cận với trẻ
em, tạo không gian, hoàn cảnh thân thiện và lắng nghe trẻ em nói về những
mối quan tâm, những tâm tư tình cảm, nguyện vọng của các em. Đặc biệt,
nhà báo phải thật sự tôn trọng ý kiến của trẻ em, không áp đặt, không
khuôn mẫu và không tưởng tượng giúp các em. Vấn đề nổi trội nhất của
tính dẫn hấp trong bài báo cho trẻ em chính là tiếng nói của các em, chính
kiến, nguyện vọng của trẻ em. Hãy để cho các em nói lên tất cả. Đừng
mượn lời, đừng nói thay, nói hộ các em.
Ngoài ra, cần chú trọng nâng cao năng lực tham gia làm báo của trẻ em.
Người lớn viết báo cho trẻ em, dù có cố gắng mấy cũng không hấp dẫn
bằng trẻ em viết cho trẻ em. Tuy trẻ em không có kinh nghiệm về chuyên
môn nghiệp vụ nhưng được một điều, các em cảm nhận được, nhìn thấy
được, viết ra được, diễn đạt được những điều mình muốn nói, quan tâm và
suy nghĩ. Bởi, chỉ có trẻ em mới hiểu xác thực nhất về thế giới của mình.
Điều này lý giải được tại sao đa số trẻ em thích đọc bài của các bạn cùng
trang lứa mình sáng tác, bởi qua đây, các em như tìm thấy hình ảnh và cuộc
sống của mình.
14
KẾT LUẬN
Số lượng công chúng đọc và mua báo chính là thước đo cho sản phẩm
báo chí tai mỗi cơ quan báo chí. Báo chí rất cần có công chúng không có
công chúng thì không có báo chí báo chí ra đời là phục vụ nhu cầu thông
tin cho công chúng .Việc nghiên cứu tâm lý tiếp nhận công chúng chưa
được diễn ra nhiều để có sản phẩm báo chí tốt cho công chúng phải biết
viết cho ai, viết như thế nào, viết cái gì cho đúng với sự tiếp nhận chứ
không chạy theo sở thích đơn thuần của công chúng.Cái mà ta hướng tới
chính là sản phẩm báo chí tốt nhất cho người đọc
15