Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân biệt chủ nghĩa duy tâm chủ quan của j berkley và chủ nghĩa duy tâm chủ quan của d hume

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.75 KB, 11 trang )

A.

LỜI MỞ ĐẦU

Triết học cổ điển Tây Âu (thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX) là giai đoạn phát triển
mạnh mẽ của tư tưởng triết học ở các nước Châu Âu với nhiều điểm đặc thù phân biệt
một cách căn bản với những giai đoạn trước. Giai đoạn này gắn liền với tên tuổi của
các nhà triết học nổi tiếng như: Bacon, Descartes, Hobbes, Locke, Kant.... Khi nghiên
cứu về chủ nghĩa duy tâm chủ quan thuộc giai đoạn này, hai cái tên được nhắc tới
nhiều đó chính là J.Berkley và D.Hume. Mặc dù đều theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan
nhưng mỗi người lại có những tư tưởng riêng nhất định. Bài viết này sẽ phân biệt chủ
nghĩa duy tâm chủ quan của J.Berkley và chủ nghĩa duy tâm chủ quan của D.Hume.
B.

NỘI DUNG

I.Khái quát chung
1. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
a) Chủ nghĩa duy tâm
Triết học là hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí
của con người trong thế giới đó. Triết học giải quyết 2 vấn đề cơ bản bao gồm: Thứ
nhất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào
quyết định cái nào? Và Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không?
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có
trước và quyết định ý thức của con người được coi là các nhà duy vật; học thuyết của
họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại những người
cho rằng, ý thức, tinh thần có trước, giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm; họ hợp
thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần, là cái có trước và sản


sinh ra giới tự nhiên; như vậy là đã bằng cách này hay cách khác thừa nhận sự sáng
1


tạo ra thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý
luận, luận chứng cho các quan điểm của mình.
Cùng với nguồn gốc nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm ra đời còn do nguồn gốc
xã hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao
động trí óc đối với lao động chân tay trong xã hội cũng đã tạo ra quan niệm về vai trò
quyết định của nhân tố tinh thần. Các giai cấp thống trị và những lực lượng xã hội
phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan
điểm chính trị xã hội của mình.
b) Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
Chủ nghĩa duy tâm được chia ra: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy
tâm khách quan. Trong đó, chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý
thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa
duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác
của cá nhân của chủ thể. Khuynh hướng của triết học duy tâm chủ quan phủ nhận sự
tồn tại của thế giới khách quan, coi nó là một cái gì đó hoàn toàn do tính tích cực của
chủ thể quyết định. Cơ sở nhận thức của chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng thế
giới bên ngoài (hiện thực) chỉ là cảm giác, tri giác, biểu tượng, ý thức của cá nhân của
chủ thể và không tồn tại bên ngoài ý thức của chủ thể. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
đẩy tới cuối cùng sẽ dẫn tới thuyết duy ngã. Điều này chính là sự khác biệt với chủ
nghĩa duy tâm khách quan. Khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là thừa
nhận ý thức là tính thứ nhất (tính có trước), vật chất là tính thứ hai (tính có sau), và
coi cơ sở đầu tiên của tồn tại không phải là ý thức cá nhân con người, mà là một ý
thức nào đó ở bên ngoài thế giới như “tinh thần tuyệt đối”, “lý tính thế giới”…
2. Giới thiệu chung về J.Berkley và D.Hume

2



Thế kỷ XVII-XVIII (thời cận đại) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản
đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư
sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI; Cách
mạng tư sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời
kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản
xuất thống trị Tây Âu. Nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, trong đó cơ học
đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là
khoa học tự nhiên – thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận
đối tượng nhận thức trong trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát
triển, nếu có nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là
nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc
siêu hình. Trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của thời cận đại,
chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải cách nhất định. Nhu cầu ấy
được phản ánh đặc biệt trong triết học duy tâm chủ quan của các nhà triết học thần
học đó của hai nhà triết học tiêu biểu: J.Berkley và D.Hume.
 J.Berkley (1685-1753)
J.Berkley hay Giám mục Berkley, là một nhà triết học người Ireland. Ông sinh
ngày 12 tháng 03 năm 1685 ở Hạt Kilkenny. Năm 11 tuổi, ông vào học trường
Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity
College, cũng ở Dubin. Năm 1709, J. Berkley được thụ phong chức chấp sự (deacon)
trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình với tên “Thử
hướng đến một lý thuyết mới về cái nhìn”. Các tác phẩm tiếp theo của ông: Một
nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người – Phần I (1710); Ba cuộc đối
thoại giữa Hylas và Philonous (1713),…
Ông là một trong những gương mặt quan trọng của nền triết học Tây phương
hiện đại thời kỳ đầu. Lập trường triết học của J.Berkley là duy tâm thường nghiệm
3



(empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi”
(tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và
các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần là cái tri giác những cái
được tri giác ấy.
 D.Hume (1711-1776)
D.Hume sử gia kiêm triết gia Xcốtlen, sinh tại Edinburgh ngày 07 tháng 05
năm 1711. D.Hume được giáo dục tại gia đình và năm 12 tuổi ông trúng tuyển vào đại
học Edinburgh. Từ năm 1734 đế 1737, Hume tập trung hết sức vào những vấn đề của
triết học tư biện và trong thời gian này ông viết tác phẩm triết học quan trọng nhất của
mình, “Luận về nhân tính” (gồm 3 tập, 1739 – 1740), thể hiện tinh túy tư tưởng của
ông. Các tác phẩm tiếp theo của ông: Những tiểu luận về đạo đức và chính trị (2 tập,
1741 – 1742); Về giác tính con người (1748), Lý luận chính trị (1752),…
D.Hume được xem là một trong số những nhà hoài nghi vĩ đại nhất trong lịch
sử triết học. Ông cho rằng, người ta không thể biết gì bên ngoài kinh nghiệm, và kinh
nghiệm – dựa trên những ý niệm chủ quan của con người – không bao giờ cung cấp
tri thức đích thực về thực tại. Đối với Hume, ngay cả luật nhân quả cũng là một niềm
tin không được lý giải. Lập trường triết học của Hume chịu ảnh hưởng bởi những ý
tưởng của các triết gia Anh quốc John Locke và J.Berkley. Cả J.Berkley và D.Hume
đều cho thấy sự khác nhau giữa lý trí và cảm giác. Tuy nhiên, Hume đi xa hơn khi nỗ
lực chứng minh rằng, lý trí và những phán đoán thuần lý chỉ đơn thuần là những liên
tưởng theo tập quán của những cảm giác hay kinh nghiệm rõ rệt.
II. Phân biệt chủ nghĩa duy tâm chủ quan của J.Berkley và chủ nghĩa duy tâm
chủ quan của D.Hume
J.Berkley và D.Hume đều là hai nhà triết học nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật
chủ quan nên trước hết, họ đều có những điểm tương đồng trong quan niệm thể hiện ở
các khía cạnh: phản đối và bác bỏ chủ nghĩa duy vật; phủ nhận sự tồn tại của thế giới
4



khách quan và coi nó là một cái gì đó hoàn toàn do tính tích cực của chủ thể quy định,
tức mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Theo các công này
thì chủ nghĩa duy lý vẫn còn tồn tại nhưng không đóng vai trò chủ đạo như quan điểm
của các nhà triết học thuộc thế kỷ XVII trước đó (với các tên tuổi như: Th.hobbes,
J.Locke...), lý tính nhường chỗ cho kinh nghiệm. Tuy nhiên, bên cạnh những nét
tương đồng đó, thì trong quan điểm tư tưởng của mỗi nhà triết học lại có những điểm
khác biệt nhất định. Điều này sẽ được chứng minh ở các nội dung phân biệt sau đây:
1. Quan điểm về tôn giáo trong chủ nghĩa duy tâm chủ quan của J.Berkley và chủ
nghĩa duy tâm chủ quan của D.Hume
Sự khác biệt trong quan điểm tôn giáo giữa hai nhà triết học J.Berkley và
D.Hume được thể hiện:
 Quan điểm của J.Berkley: với tư cách là một nhà triết học tôn giáo, một nhà
thần học làm triết học, J.Berkley đã dành những nỗ lực đáng kể của mình cho nhận
thức lý luận về Chúa và cho việc đổi mới cách chứng minh về tồn tại của Chúa. Ông
luôn tìm mọi cách để bảo vệ chúa.
Quan điểm về chủ nghĩa duy tâm chủ quan của J.Berkley đã đặt toàn bộ sức
nặng của sự minh giải lên các tri giác, tức cảm giác sinh ra sự vật chứ không phải sự
vật sinh ra cảm giác. Điều này để lại cho J.Berkeley một vấn đề đó là giải thích tại sao
mỗi người trong chúng ta đều có vẻ có các tri giác ít nhiều giống nhau về một đối
tượng. Ông đã giải quyết vấn đề này bằng cách đưa Chúa trời vào can thiệp với vai trò
nguyên nhân trực tiếp của mọi tri giác. Khi J.Berkley nói: “hiện thực tồn tại, các vật
tồn tại, bản chất của các vật tồn tại phù hợp với những nguyên lý của tối” thì ông
hàm ý muốn nói: lý do chủ yếu là Chúa, tinh thần không phụ thuộc ở mọi ý thức của
con người. Ông cho rằng, sự vật tồn tại ngay cả khi không được con người tri giác
nhưng lại được Chúa tri giác. Chúa là “tinh thần vũ trụ thiêng liêng”, là tinh thần vĩnh
viễn phổ biến khắp nơi, nhận thức bao trùm tất cả mọi vật.

5



Sở dĩ quan điểm triết học của J.Berkley thiên về bảo vệ và chứng minh cho sự
tồn tại của Chúa, ngoài nguyên nhân là chịu ảnh hưởng chung của sự thống trị tôn
giáo lúc bất giờ, còn có nguyên nhân trực tiếp do J.Berkley vừa là nhà triết học lại vừa
là một giám mục và được phong Thánh vào năm 1709.
Như vậy, giống như các nhà triết học cùng thời đại, J.Berkley cũng dùng triết
học để chứng minh cho sự tồn tại của Chúa mà không đưa ra bất kỷ một tư tưởng nào
mới về tôn giáo. Điều này khác biệt với D.Hume.
 Quan điểm của D.Hume: D.Hume có một đóng góp đặc biệt quan trọng
trong lĩnh vực tôn giáo học. Ông được coi là một trong những bậc tiền bối của tôn
giáo học hiện đại. Đó chính là quan điểm về lịch sử tự nhiên của tôn giáo và giải
quyết vấn đề cấp bách với thời đại lúc đó – quan hệ giữa triết học và tôn giáo.
D.Hume đặt ra vấn đề về nguồn gốc của tôn giáo dưới hình thức đa thần giáo.
Cái ác và cái thiện, hạnh phúc và bất hạnh, sáng suốt và ngu dốt, đức hạnh và thói hư
tật xấu đan xen với nhau ở khắp mọi nơi, không cái gì là thuần túy và có giá trị tuyệt
đối... tất cả mọi ưu điểm đều đi liền với những khuyết điểm. Chúng ta không có đầy
đủ tri thức để tiên đoán những hậu quả không ngừng đe dọa chúng ta, không đủ sức
để ngăn chặn chúng. Chính các nguyên nhân vô hình này trở thành đối tượng thường
xuyên của những hi vọng và nỗi sợ hãi của con người. Vì toàn bộ cuộc sống của con
người bị những ngẫu nhiên bất ngờ chi phối nên mê tín dị đoạn thống trị khắp mọi
nơi, nó bắt buộc con người phải lý giải các lực lượng vô hình dường như quyết định
hạnh phúc hay đau khổ của họ. Từ đó, con người có thiên hướng hình dung mọi thứ
là tương tự với bản thân mình và gán cho mỗi khách thể những đặc tính quen thuộc
đối với họ. Con người thừa nhận các thần linh là một loại người đặc biệt tách ra khỏi
môi trường của họ và giữ lại mọi cảm xúc và khát vọng của con người, cũng như mọi
cơ quan của thể xác con người. Xuất phát từ quan điểm như vậy về tôn giáo, D.Hume
giải quyết vấn đề cấp bách với thời đại lúc đó – quan hệ giữa triết học và tôn giáo.
Theo D.Hume tôn giáo chân chính gắn liền với niềm tin căn cứ trên lý tính: toàn bộ
6



cấu tạo của tự nhiên chứng tỏ tồn tại của của một đấng Sáng thế có lý tính. Hai tôn
giáo giả dối xuất hiện là sự xuyên tạc của tôn giáo chân chính là mê tín dị đoan và
cuồng tín. Triết học không chấp nhận tôn giáo giả dối.
Từ đó có thể thấy, triết học của D.Hume không bổ sung gì cho những luận cứ
bảo vệ tôn giáo, chứng minh sự tồn tại của Chúa nhưng lại có những bước tiến quan
trọng trong lĩnh vực tôn giáo học trong thời đại của ông.
2. Quan điểm chủ nghĩa duy tâm chủ quan của J.Berkley và chủ nghĩa duy tâm
chủ quan của D.Hume
Mặc dù đều là nhà triết học theo khuynh hướng duy tâm chủ quan nhưng mỗi
người lại có những quan điểm và lập luận khác nhau để bác bỏ quan điểm của chủ
nghĩa duy vật. Đối với J.Berkley thì phản đối chủ nghĩa duy vật bằng cách cho rằng
sự vật không sinh ra cảm giác mà là cảm giác sinh ra sự vật và ông tập trung nghiên
cứu phương thức làm xuất hiện các cảm giác. Trong khi đó, D.Hume khước từ lý luận
nhận thức từ việc mô tả phương thức tác động của các vật đến các giác quan, tức cho
rằng mọi tri thức đều đi từ kinh nghiệm cảm tính mà ra, ông coi kinh nghiệm không
phải là phản ánh khách quan mà nó sinh ra từ “ấn tượng” – thứ tồn tại sẵn trong cảm
giác của chủ thể. Quan điểm của từng người cụ thể như sau:
 Quan điểm của J.Berkley: J.Berkley là đại biểu nổi bật của chủ nghĩa duy
tâm chủ quan nước Anh. Nhằm mục đích bảo vệ chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, tuyên
truyền theo chủ nghĩa nghĩa duy tâm thần bí, trước tiên J.Berkley đã tấn công vào chủ
nghĩa duy vật. Nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy tâm chủ quan J.Berkley:
+ Thứ nhất, ông cho rằng tồn tại có nghĩa là được lĩnh hội (trực quan), tức sự vật là
tổng hợp của các cảm giác, xóa bỏ cảm giác đi thì sự vật biến mất. Chẳng hạn như
một ai đó đang trực quan cái bàn mà họ đang ngồi bên cạnh. Trong trường hợp này,
tồn tại của cái bàn là không tách rời khỏi trực quan theo nghĩa cái bàn không tồn tại
với người đó và những người xung quanh, nếu tất cả mọi người không lĩnh hội nó.
Khi ra khỏi căn phòng, người đó sẽ không nhìn thấy cái bàn cũng như không lĩnh hội
7



được nó nữa. Theo J.Berkley, không bao giờ cái bàn không tồn tại ở bên ngoài trực
quan của bất kỳ một ai cho dù khi nào và bằng cách thức nào và chúng ta có hình
dung, tư duy cái bàn thì nó vẫn không tách rời khỏi tổng thể nhưng trực quan cảm
tính.
+ Thứ hai, ông cho rằng không thể tư duy các vật hay đối tượng cảm tính độc lập với
cảm giác và trực quan về chúng. Trên thực tế khách quan và cảm giác là một và
không thể trừu tượng tách rời chúng khỏi nhau. Một ví dụ ông đưa ra để minh chứng
cho quan điểm này: con số không phải là một các gì đó xác định và được xác lập, tồn
tại trong bản thân của sự vật mà nó hoàn toàn là tạo phẩm của tinh thần trong xem xét
ý niệm đơn giản tự thân nó hay một tổ hợp những ý niệm đơn giản nào đó. Tổ hợp
được gán cho một tên gọi và trở nên giống với đơn vị.
+ Thứ ba, không bao giờ có thể trực quan được những vật thể tự nhiên như chúng tồn
tại tự thân chúng. Từ đó, ông bác bỏ tư tưởng cho rằng, các ý niệm có thể là bản sao,
chụp của các vật. Ông chứng minh quan điểm này bằng ví dụ sau: Trên thực tế, trong
trực quan trực tiếp, chúng ta chỉ quan sát thấy màu sắc và hình dạng còn khoảng cách
thì thị giác không thấy được mà nó được gợi ý cho lý trí của con người thực ra là nhờ
kinh nghiệm và phán đoán chứ không phải nhờ cảm giác. Thị giác không lĩnh hội
được đường và góc tự thân chúng, chúng không tồn tại hiện thực trong tự nhiên mà
chỉ là giả định do các nhà toán học tạo ra rồi đưa vào quang học nhằm mục đích tạo
khả năng lí giải nó theo phương thức hình thành.
 Quan điểm của D. Hume
Đặc điểm của triết học D. Hume thể hiện ở chỗ ông khước từ lý luận nhận thức
từ việc mô tả phương thức tác động của các vật đến các giác quan, tức phương thức
làm xuất hiện các cảm giác. Ông cho rằng ấn tượng là thứ vốn sẵn có trong tâm thần,
là xuất phát điểm của nhận thức luận. Ông phân biệt ấn tượng thành ấn tượng cảm xúc
và ấn tượng phản tư. Riêng loại ấn tượng cảm xúc bị loại ra khỏi nhận thức luận,
chúng thường xuất hiện trong tâm thần do có những nguyên nhân không rõ. Con
người đã có những ấn tượng không biết từ đâu mà có. Trí tuệ không bao giờ có một sự
8



vật nào cả ngoài những trực quan và chúng hoàn toàn không có khả năng tạo ra một
kinh nghiệm nào giữa trực giác và khách thể. Cơ chế triển khai tiếp kinh nghiệm cảm
tính dựa trên cơ sở những ấn tượng như sau: đầu tiên xuất hiện một ấn tượng nào đó,
nó có bắt con người cảm nhận nóng, lạnh, ấm, đói, sung sướng, đau khổ. Sau đó trí
tuệ sao chép ấn tượng ban đầu này và hình thành ý niệm. Như vậy ý niệm được
D.Hume xác định là ấn tượng ít sống động hơn. Quan niệm của D.Hume là: Kinh
nghiệm là sự kết hợp chặt chẽ nhất giữa những ấn tượng và những ý niệm. Do vậy,
cần bắt đầu phân tích kinh nghiệm cảm tính hoàn toàn không phải là từ cảm giác.
D.Hume không ngừng nhắc lại cơ chế kỳ lạ của bất kỳ kinh nghiệm nào. Mỗi người
đều biết rõ cơ chế: Khi nói ra một từ thì một ý niệm sẽ được tự động gắn với nó
không phụ thuộc vào mong muốn của chúng ta. Suy luận trở nên thừa vì trí tưởng
tượng bắt con người ngay lập tức, không cần nỗ lực nào, phải chuyển từ một ý niệm
này sang một ý niệm khác. Mối liên hệ, quan hệ tự nhiên thể hiện như một cơ chế
nhận thức không hiểu xuất hiện như thế nào đã có mặt ở đây, D.Hume đã gọi đó là
tính nhân quả.
 Đánh giá: Như vậy, từ những quan điểm trên chúng ta có thể đánh giá như
sau: Với D.Hume thì ông là nhà triết học duy tâm chủ quan triệt để, ra sức chống lại
chủ nghĩa duy vật. Ông được xem như một điển hình của cuộc đấu tranh của chủ
nghĩa duy tâm chống chủ nghĩa duy vật. Còn với J.Berkley mặc dù là nhà triết học
luôn đi chứng minh cho quan điểm chủ nghĩa duy tâm chủ quan nhưng ở một phương
diện trong triết học của J.Berkley lại bác bỏ chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Bằng chứng
là mặc dù cho rằng tồn tại có nghĩa là được lĩnh hội (trực quan) nhưng J.Berkley còn
khẳng định tồn tại độc lập của các vật thể ở bên ngoài ý thức: “các khách thể thậm chí
còn tồn tại khi chúng không được lĩnh hội, vốn là các khả năng trong thực thể hành
động”.
3. Vấn đề con người trong chủ nghĩa duy tâm chủ quan J. Berkley và chủ nghĩa
duy tâm chủ quan D.Hume
9



Điểm nổi bật trong chủ nghĩa duy tâm chủ quan của J. Berkley là đi sâu vào
phê phán dữ dội chủ nghĩa duy vật bằng những lập luận của mình, do đó vấn đề con
người trong quan điểm triết học của J. Berkley mang tính mờ nhạt.
Trong khi đó, đối với triết học của D.Hume thì học thuyết về con người là trọng
tâm. Ông cho rằng quan sát và kinh nghiệm thực chất là những cơ sở đầu tiên, do vậy
cần phải quan tâm nghiên cứu tỷ mỉ nhận thức của con người, luận chứng cho kinh
nghiệm tính tương đối và tính chân thực của tri thức, nghiên cứu những cảm xúc của
con người, sau đó chuyển sang đạo đức, các vấn đề công bằng và sở hữu, nhà nước và
luật pháp. Như vậy nếu lý luận nhận thức là cơ sở đầu tiên cho quan điểm về bản tính
người, thì những suy luận về vấn đề đạo đức – xã hội là mục đích và kết quả của nó.
D.Hume đưa những dấu hiệu chủ yếu sau đây về bản tính người: (i) con người là thực
thể có lý tính, (ii) con người là thực thể của xã hội, (iii) con người là một thực thể
hoạt động.
Vai trò hàng đầu của lối sống hỗn hợp và bản tính người đa dạng đưa D.Hume
đến kết luận đúng đắn về sự cần thiết né tránh những thái cực trong quan điểm triết
học về con người và những chỉ dẫn về đạo đức, chính trị, khoa học... Sức mạnh và
khả năng của con người là hữu hạn trong mọi phương hướng hoạt động của nó.
D.Hume coi con người là một thực thể có bản chất xã hội. Khi đó ông không bỏ qua
vấn đề “tính ích kỷ” của con người đang được bàn luận rộng rãi. Ông nhất trí rằng có
thể coi tính ích ỷ là một trong những thuộc tính quan trọng nhất của con người, vốn có
ở con người một cách bẩm sinh. Đồng thời ông cũng tin tưởng rằng người ta quá
phóng đại phẩm chất này. Ông quan tâm tới một phương diện khác của vấn đề - tiến
bộ chậm chạp, không đồng đều nhưng không ngừng mà loài người nhờ giáo dục đã
tạo ra một phẩm chất quan trọng nhất là “ý thức nhân hậu” hay “đức hạnh xã hội”.
Theo D.hume, một vấn đề nan giải là vấn đề động cơ của những hành vi nhân hậu,
nhân ái. Ông này phủ định trong con người ngay từ đầu đã có cảm xúc yêu thương
nhận loại tự thân nó. Dù các quy tác công bằng, đức hạnh xã hội là nhân tạo, song

10



chúng hoàn toàn không mang tính tùy tiện mà phục tùng các quy luật nghiêm ngặt của
tính tất yếu.

C. KẾT LUẬN
J.Berkley và D.Hume đều là các nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan
nhưng mỗi người lại có những quan điểm và đưa ra những lập luận khá khác nhau
nhưng đều hướng tới mục đích cuối cùng là phản bác lại chủ nghĩa duy vật. Nhìn
nhận một cách khách quan thì mặc dù một số quan điểm trong học thuyết của hai ông
có những sai lầm và phiến diện nhất định nhưng cũng cần ghi nhận những đóng góp
nhất định của hai ông trong tiến trình phát triển của lịch sử triết học nhân loại nói
chung và triết học thế ký XVIII nói riêng. Với J.Berkley, có thể nói, ông đã có những
đóng góp đáng kể cho lý luận nhận thức, cho cuộc tranh luận về những khái niệm trừu
tượng và vai trò của các danh từ và các khía niệm chung. Còn D.Hume, trong học
thuyết con người ông đã thừa nhận những khả năng đáng kể của loài người trong giáo
dục và hoàn thiện những đức tính xã hội, bảo vệ sở hữu và tinh thần yêu lao động nhờ
luật pháp và đạo đức, việc đạt tới đồng thuận và ôn hòa trong chính trị, khoan dung
tôn giáo, các quyền công dân và các quyền tự do. Ngoài ra, D.Hume còn có đóng góp
đặc biệt trong lĩnh vực tôn giáo học đó là chỉ ra quan điểm về lịch sử tự nhiên của tôn
giáo và giải quyết mối quan hệ giữa triết học và tôn giáo.

11



×