Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

phân tích các trình độ phát triển của nhận thức khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.64 KB, 10 trang )

I. MỞ ĐẦU
Nhận thức khoa học là hình thức nhận thức phát triển cao của con người.
Phát triển trong khuôn khổ “trực quan sinh động - tư duy trừu tượng - thực tiễn,
nhận thức”, khoa học vạch ra những thuộc tính và mối liên hệ mới của hiện
thực, ghi nhận chúng dưới dạng các dữ kiện khoa học. Để nhận thức khoa học,
chủ thể sử dụng phương pháp nhận thức khoa học khác nhau. Các phương pháp
này cũng chính là các trình độ phát triển của nhận thức khoa học. Chủ thể sử
dụng chúng không tùy tiện, mà phụ thuộc vào đặc điểm của hiện thực được phản
ánh, vào giai đoạn phát triển của nhận thức, vào tính chất của nhiệm vụ được
giải quyết.
Trong phạm vi bài tập này, nhóm 7 sẽ tìm hiểu và “phân tích các trình độ
phát triển của nhận thức khoa học”.
II. NỘI DUNG
1. Khái niệm nhận thức và nhận thức khoa học
1.1. Khái niệm nhận thức
Trong lịch sử triết học, có nhiều quan điểm triết học khác nhau về khái
niệm nhận thức.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những
cảm giác của con người; chủ nghĩa duy tâm khách quan lại coi nhận thức là sự
"hồi tưởng lại" của linh hồn bất tử về "thế giới các ý niệm" mà nó đã từng chiêm
ngưỡng được nhưng đã bị lãng quên, hoặc cho rằng nhận thức là sự "tự ý thức
về mình của ý niệm tuyệt đối".Những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức
là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức
thành một nguyên tắc của nhận thức.
Đối lập với những quan niệm đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng
nhận thức được thế giới của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính
trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức
là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất
động của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
1




Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan niệm
sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa
được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt là chưa thấy được đầy đủ vai trò
của thực tiễn đối với nhận thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã xây dựng nên học thuyết về nhận thức
dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của
con người;
- Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.
- Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác
và sáng tạo;
- Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động
lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Dựa trên những nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định: “Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn”.
1.2. Khái niệm nhận thức khoa học
Nhận thức khoa học là một cấp độ của quá trình nhận thức, được phân biệt
với nhận thức thông thường trên cơ sở tính chất tự phát hay tự giác của quá trình
nhận thức.
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và
gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgic là các khái
niệm, các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu
tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận
dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông
thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối
tượng trong nghiên cứu.

2. Các trình độ phát triển của nhận thức khoa học
2. 1. Quan sát - thực nghiệm
2


a. Quan sát
Quan sát là sự tri giác các sự vật, hiện tượng được nghiên cứu nhằm một
mục đích nhất định. Bất kỳ quan sát nào cũng có một khách thể được quan sát
và chủ thể tiến hành hoạt động quan sát.
Quan sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và quan hệ
của sự vật, hiện tượng riêng lẻ của thế giới xung quanh xét trong điều kiện tự
nhiên vốn có của nó. Khi quan sát có chủ định trước, có chương trình nghiêm
ngặt thì quan sát là để thu thập các thông tin khoa học chính xác. Đây chính là
đặc điểm khác biệt với quan sát thông thường.
Trong quan sát, các giác quan giữ vai trò quan trọng hàng đầu nhưng khả
năng các giác quan con người tri giác đối tượng là khá hạn chế. Vì thế, trong
quan sát phải sử dụng rộng rãi các dụng cụ có khả năng tăng cường hiệu quả
quan sát, mở rộng lớp đối tượng có thể quan sát được, nâng cao độ chính xác và
tính khách quan của các kết quả thu nhận được. Tuy giúp mở rộng khả năng
nhận thức của các giác quan nhưng việc dùng dụng cụ trong nhiều trường hợp
cũng mang những biến đổi nhất định vào đối tượng nghiên cứu. Nhưng tình hình
đó hoàn toàn không là trở ngại để nhận thức các thuộc tính khách quan của đối
tượng mà đặt ra đòi hỏi là chủ thể quan sát phải tính đến tính chất dụng cụ và
những hiệu ứng phụ do nó gây ra và các tính quy luật tương tác của chúng với
đối tượng nghiên cứu.
Như vậy, quan sát là phương pháp nghiên cứu quan trọng, thông qua đó xác
định các thuộc tính và quan hệ của sự vật, hiện tượng riêng lẻ của thế giới xung
quanh xét trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó, tức là cung cấp các thông tin
cơ sở để chủ thể nghiên cứu tiến hành thực nghiệm, phục vụ thu thập các dữ
kiện khoa học.

b. Thực nghiệm
Thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng bằng cách
sử dụng các phương tiện vật chất để can thiệp vào trạng thái tự nhiên của đối
tượng nhằm làm cho đối tượng bộc lộ các thuộc tính, các mối quan hệ của nó để
nhận thức.
Như vậy, nếu như trong quan sát, chủ thể không can thiệp vào trạng thái tự
nhiên của khách thể thì trong thực nghiệm chủ thể chủ động tác động lên đối
3


tượng, thay đổi những điều kiện tồn tại tự nhiên của đối tượng, buộc đối tượng
phải bộc lộ thuộc tính của mình cho chủ thể nhận thức. Trong thực nghiệm, chủ
thể vẫn tiến hành quan sát nhưng ở mức độ cao hơn. Nhờ có thực nghiệm, người
ta khám phá ra những thuộc tính của hiện tượng mà trong những điều kiện tự
nhiên không thể khám phá được. Thực nghiệm bao gồm thực nghiệm trực tiếp
tức là thực nghiệm trên bản thân đối tượng và đối tượng cùng loại và thực
nghiệm gián tiếp tức là thực nghiệm trên hệ quả suy ra từ đối tượng.
Thực nghiệm bao giờ cũng được tổ chức thực hiện dưới sự chỉ đạo của một
ý tưởng khoa học và trên cơ sở một lý thuyết khoa học nhất định, từ khâu lựa
chọn thí nghiệm, lập kế hoạch, tiến hành thí nghiệm cho đến giải thích kế quả
thực nghiệm. Thực nghiệm không chỉ nhằm thu thập các dữ kiện khoa học để
tạo cơ sở cho sự khái quát lý luận mà còn nhằm bác bỏ hoặc chứng minh (kiểm
chứng) một giả thuyết nào đó. Trong nhận thức khoa học, giả thuyết giữ một vài
trò quan trọng. Có thể nói giả thuyết là một hình thức phát triển của khoa học.
Nhờ thực nghiệm người ta chính xác hóa, chỉnh lý các giả thuyết và lý thuyết
khoa học. Ngày nay, thực nghiệm đã được sử dụng rộng rãi trong khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật và cả trong khoa học xã hội. Thực nghiệm như một
dạng cơ bản của thực tiễn, giữ vai trò là cơ sở nhận thức khoa học và là tiêu
chuẩn để kiểm tra tính chân lý của nhận thức khoa học.
2.2. Dữ kiện và trừu tượng khoa học

a. Dữ kiện
Dữ kiện là những điều kiện đã biết, đã được thừa nhận dựa vào đó để
nghiên cứu.
Để có dữ kiện, công việc đầu tiên của nhận thức khoa học về đối tượng là
thu nhận, xác định các dữ kiện có thể cung cấp thông tin nhất định về thuộc tính
và các mối liên hệ của nó. Tính chân thực kiểm tra được bằng kinh nghiệm là
đặc điểm quan trọng nhất của dữ kiện khoa học. Các dữ kiện tạo thành nền tảng
thực nghiệm của khoa học. Dựa vào các dữ kiện, nhà khoa học thâm nhập vào
bản chất của đối tượng, vạch ra những thuộc tính và mối liên hệ tất yếu vốn có ở
nó, các quy luật vận hành và phát triển của nó. Để thu được các dữ kiện khoa
học, chủ thể nghiên cứu thường sử dụng các kỹ thuật như quan sát, thực nghiệm,
mô hình hóa.
4


b. Trừu tượng khoa học
Cái trừu tượng là kết quả sự trừu tượng hóa một mặt, một mối liên hệ nào
đó trong tổng thể phong phú của sự vật. Do đó, cái trừu tượng là một bộ phận
của cái cụ thể, biểu hiện một mặt nào đó của cái cụ thể, là bậc thang của sự xem
xét cái cụ thể từ nhiều cái trừu tượng, tổng hợp thành cái cụ thể trong tư duy. Từ
nhiều cái trừu tượng, tư duy tổng hợp lại thành cái cụ thể trong tư duy.
So với cái cụ thể, cái trừu tượng là cái nghèo nàn hơn về tính quy định và
quan hệ. Tuy nhiên, ranh giới giữa cái trừu tượng và cái cụ thể cũng chỉ là tương
đối, tùy thuộc vào mối quan hệ xác định.
Nhận thức là sự thống nhất của hai quá trình đối lập: Từ cụ thể đến trừu
tượng và từ trừu tượng đến cụ thể. Theo quá trình thứ nhất, nhận thức xuất phát
từ những tài liệu cảm tính, qua phân tích rút ra những khai niệm đơn giản,
những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật.
Trong quá trình này, toàn bộ biểu tượng đã biến hành một sự quy định trừu
tượng. Quá trình từ cụ thể đến trừu tượng tạo tiền đề cho quá trình thứ hai - quá

trình từ trừu tượng đến cụ thể. Trong quá trình thứ hai này nhận thức phải từ
những định nghĩa trừu tượng thông qua tổng hợp biện chứng chứ không phải với
tư cách là điểm xuất phát trong hiện thực. Trong quá trình này, những sự quy
định trừu tượng lại dẫn tới sự mô tả lại cái cụ thể bằng con đường tư duy. C.Mác
coi đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp nhận thức khoa học quan trọng.
Phương pháp này được C.Mác xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy vật, có vai trò
đặc biệ trong việc xây dựng lý thuyết khoa học, nó cho phép thâm nhập vào bản
chất của đối tượng nghiên cứu, hình dung được tất cả các mặt và quan hệ tất yếu
của đối tượng trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Theo phương
pháp này, việc nghiên cứu phải bắt đầu từ cái trừu tượng, từ các khái niệm phản
ánh những mối liên hệ phổ biến, đơn giản của khách thể nhận thức. Tuy nhiên,
không phải lấy bất kỳ cái trừu tượng nào làm khâu xuất phát, mà cái trừu tượng
xuất phát phải là cái phản ánh những mối liên hệ phổ biến nhất, đơn giản nhất
nhưng có vai trò quyết định trong cái cụ thể cần nghiên cứu. Từ cái trừu tượng
xuất phát đó, tư duy theo dõi những vòng khâu, những trạng thái quá độ trong sự
phát triển của sự vật được thể hiện bằng các khái niệm ngày càng cụ thể hơn.
5


Bằng cách đó, tư duy tái hiện quá trình hình thành và phát triển của khách thể
nghiên cứu với toàn bộ các mặt và các quan hệ tất yếu, bản chất, những quy luật
vận động, phát triển của nó.
2.3. Mô tả và giải thích
a. Mô tả
Mô tả là sự ghi chép các kết quả quan sát, thông tin về đối tượng thu nhận
được nhờ quan sát. Việc mô tả sử dụng các phương tiện diễn đạt cả tự nhiên lẫn
nhân tạo: các khái niệm khoa học, dấu, sơ đồ, biểu đồ… Tính chính xác, tính
chặt chẽ logic và tính giản đơn là những đòi hỏi quan trọng nhất đối với mô tả
khoa học. Trong giai đoạn khoa học xã hội phát triển như ngày nay, các đòi hỏi
đó được hiện thực hóa bằng cách sử dụng rộng rãi ngôn ngữ nhân tạo. trong quá

trình quan sát chủ thể nắm bắt và ghi nhận các đặc trưng chất và lượng của đối
tượng, do vậy sự mô tả cũng theo hai dạng là chất và lượng. Mô tả chất đòi hỏi
phải ghi nhận các thuộc tính xác nhận đối tượng là gì, những đặc trưng của nó
như thế nào. Mô tả lượng đòi hỏi phải diễn đạt chính xác mặt lượng của đối
tượng, các độ đo của nó. Như vậy mô tả lượng thể hiện bằng các thông số đo
đạc.
Đo đạc là thao tác nhận thức đảm bảo sự diễn đạt số của các đại lượng
được đo. Nó được thực hiện thông qua mối tương quan, sự so sánh thuộc tính
hoặc mặt được đo của đối tượng với chuẩn đơn vị đo được chọn. Vì thế, nó cho
phép ghi nhận không chỉ các thuộc tính, mà cả những quan hệ xác định của đối
tượng. Chủ thể thực hiện đo đạc cả trực tiếp lẫn gián tiếp, do vậy, đo đạc cũng
có hai dạng: trực tiếp và gián tiếp. Đo trực tiếp là sự so sánh ngay đối tượng,
thuộc tính được đo đạc với chuẩn tương ứng; gián tiếp là sự xác định đại lượng
đo đạc trên cơ sở tính đến sự phụ thuộc vafod đại lượng khác. Đo đạc gián tiếp
giúp xác định đại lượng đo khi sự đo trực tiếp là quá phức tạp hay không thể.
Như vậy mô tả là bắt buộc để có thể tái hiện những gì đã quan sát được
thành những dữ liệu, số liệu cụ thể, phục vụ cho việc làm rõ bản chất sự vật,
hiện tượng.
b. Giải thích
6


Giải thích là sự lí giải nhằm làm sáng tỏ để người khác có thể hiểu được rõ
về sự vật, sự việc. Trên cơ sở các thông tin thu nhận được từ việc quan sát, thực
nghiệm, đến các dữ kiện và mô tả, chủ thể nghiên cứu thực hiện việc giải thích
về sự vật, hiện tượng, các đối tượng đang nghiên cứu. Việc giải thích là đầy đủ,
chính xác nếu như các thông tin sử dụng để giải thích có căn cứ là chính xác,
khoa học, khách quan. Ngược lại, nếu các thông tin sử dụng để giải thích thiếu
cơ sở, thiếu khách quan, chưa đầy đủ thì dẫn đến việc giải thích sai bản chất của
sự vật, sự việc. Lập luận được sử dụng để giải thích cũng vô cùng quan trọng,

làm sao để người khác hiểu được những gì chủ thể nghiên cứu muốn truyền tải.
Việc giải thích đóng vai trò quan trọng để từ việc làm rõ bản chất của sự vật, sự
việc, chủ thể nghiên cứu khiến người khác hiểu và tin tưởng vào những kết luận
của mình, từ đó tiếp tục xây dựng những giả thuyết.
2.4. Giả thuyết và lí thuyết
a. Giả thuyết
Giả thuyết là phán đoán về nguyên nhân, bản chất của đối tượng. Tuy
nhiên, không phải mọi phán đoán về nguyên nhân hay bản chất của đối tượng
đều là giả thuyết.
Giả thuyết khoa học cần thỏa mãn các yêu cầu sau: 1) phải dựa trên mọi dữ
kiện liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu; 2) phải tính đến mọi luận điểm do khoa
học xác lập và đã được kiểm chứng bởi thực tiễn; 3)giải thích được các dữ kiện
đã biết; 4) có khả năng dự báo được các dữ kiện mới; 5) có thể kiểm tra được
bằng thực nghiệm.
Khi nêu giả thuyết về liên hệ nhân quả, khoa học sử dụng rộng rãi các
phương thức nghiên cứu quy nạp như loại suy, đồng nhất, khác biệt, phần dư và
biến đổi kèm theo. Trong khi được định hình với tư cách là phán đoán về
nguyên nhân, về mối liên hệ tất yếu của các đối tượng, giả thuyết còn đòi hỏi
phải suy ra được các hệ quả, mà phần nào trong số chúng giải thích được các
hiện tượng đã biết, phần khác dự báo được hiện tượng còn chưa biết.
Việc kiểm tra giả thuyết bằng cách giải thích các dữ kiện khoa học đã thu
nhận giữ vai trò quan trọng trong việc biến nó thành tri thức chân thực, tuy
7


nhiên điều đó còn chưa đủ để có kết luận cuối cùng, bởi lẽ có thể giải thích cũng
những hiện tượng đó bằng cách khác, từ các cơ sở khác. Vì thế, để có lời giải
thích cuối cùng cho vấn đề tính chân thực của giả thuyết thì cần phải dựa trên nó
mà dự báo được những hiện tượng mới (chưa biết) và gây ra chúng khi tạo lập
những điều kiện tương ứng.

Để luận chứng cho giả thuyết, biến nó thành tri thức chân thực, khoa học
thường sử dụng thực nghiệm tư tưởng, mà thực chất là tạo ra các tổ hợp những
mô hình tư tưởng cho phép tách ra quá trình dưới dạng thuần túy và giải thích
bản chất của đối tượng. Tình huống được tạo ra nhờ thực nghiệm tư tưởng đúng
là không thực hiện được trên thực tế, tuy nhiên nó phản ánh (dưới dạng lí tưởng)
những thuộc tính và mối liên hệ của đối tượng.
uy nhiên, trong số các phương pháp kiểm tra giả thuyết, các phương thức
biến nó thành tri thức chân thực, thì thực tiễn, sự thực hiện thực tiễn những hệ
quả rút ra từ nó là chủ yếu nhất.
b. Lí thuyết
Khi tri thức được tích lũy nhiều hơn thì cũng xuất hiện nhu cầu kết hợp
chúng thành một hệ thống logic chặt chẽ. Nhiệm vụ đó được giải quyết bằng
việc xây dựng lí thuyết.
Lí thuyết là hệ thống các mô hình tư tưởng phản ánh tổng thể các thuộc
tính và mối liên hệ tất yếu của đối tượng trong quan hệ lẫn nhau của chúng.
Trong lí thuyết mỗi luận điểm đều giữ một vị trí xác định và liên hệ một cách tất
yếu với các luận điểm khác. Những đặc trưng quan trọng nhất của lí thuyết là sự
bao quát đầy đủ các mặt và các mối liên hệ của lĩnh vực hiện thực được phản
ánh, tính kiểm tra được, sự giải thích các thuộc tính và các mối liên hệ đang có
của đối tượng và dự báo sự thay đổi của chúng trong tương lai, sự xuất hiện của
thuộc tính và các mối liên hệ, các hiện tượng, các trạng thái chất mới.
Trong xây dựng lí thuyết, khoa học thường sử dụng rộng rãi phương pháp
tiên đề - là phương pháp xác lập một bộ các luận điểm xuất phát (tiên đề, định
đề), sau đó theo những quy tắc suy diễn để rút ra những luận điểm khác, rồi từ
chúng lại rút ra những luận điểm lớp thứ ba, thứ tư… cho đến khi xây dựng
8


được hệ thống tri thức chỉnh thể, gắn kết logic với nhau (ví dụ như hệ hình học
Euclid được xây dựng trên năm tiên đề…).

Ở những giai đoạn phát triển đầu tiên của khoa học, phương pháp tiên đề
đã từng mang tính nội dung, nó làm việc với các khái niệm và luận điểm là sự
khái quát kinh nghiệm thực tế được tích lũy. Nhưng về sau theo đà lớn mạnh của
toán học và logic học thì mặt nội dung của phương pháp tiên đề dần bị thay thế
bởi những kết cấu thuần túy hình thức. Giờ đây, các tiên đề được rút ra như là
những mô tả hệ thống trừu tượng các quan hệ không có sự gắn bó chặt chẽ với
lĩnh vực hiện thực nào nữa. Các mệnh đề thu được nhờ suy diễn từ các tiên đề
đó là những mắt khâu của lí thuyết thống nhất. Sau khi xây dựng lí thuyết mới
đó lại nảy sinh vấn đề luận giải – áp nó vào lĩnh vực đối tượng cụ thể. Sự luận
giải một lí luận hình thức đòi hỏi làm rõ các quy tắc cho phép gắn kết các thuật
ngữ tham gia vào các tiên đề khởi điểm, với các đặc trưng của lĩnh vực hiện
thực, còn bản thân các tiên đề với các quan hệ giữa các đặc trưng đó. Khác với
các lí thuyết nội dung vốn giải thích lĩnh vực hiện thực xác định, lí thuyết hình
thức có thể được dùng giải thích cho một số lĩnh vực hiện thực khác nhau, nếu
bổ sung thêm vài định nghĩa cho phù hợp với sự luận giải này hay khác.
Việc xây dựng lí thuyết khoa học thường được thực hiện bằng phương
pháp diễn dịch – giả thuyết, mà thực chất là tạo ra hệ thống các giả thuyết logic
gắn bó với nhau, từ chúng rút ra dưới dạng các hệ quả có thể kiểm tra bằng thực
nghiệm. Có 2 kiểu phương pháp diễn dịch – giả thuyết. Thứ nhất là xây dựng và
đưa các các giả thuyết nội dung vào mối liên hệ logic tương ứng. Thứ hai là xây
dựng hệ thống hình thức đòi hỏi sự luận giải tương ứng. Kiểu thứ nhất yêu cầu
đưa vào những khái niệm nội dung xuất phát mà sau này có thể mô tả toán học
được, kiểu thứ hai – tạo ra bộ máy toán học, để rồi sau đó trong quá trình xây
dựng lí thuyết sẽ được luận giải.
Trong xây dựng lí thuyết, khoa học còn hay sử dụng những phương pháp
nghiên cứu như mô hình hóa tư tưởng và dấu hiệu, tách quá trình nghiên cứu về
dạng thuần túy, đưa thêm các khách thể lí tưởng… Tất cả các thủ thuật nhận
thức đó đều giúp tách cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên, và cho phép thể hiên
9



trong hệ thống các mô hình tư tưởng những thuộc tính và mối liên hệ tất yếu của
đối tượng nghiên cứu.
Như vậy, việc xây dựng lí thuyết vô cùng quan trọng và cần thiết. Giả
thuyết khoa học khi được chứng minh sẽ trở thành lí thuyết khoa học. Lí thuyết
có tính khái quát cao, mang lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất hoặc tính quy
luật của các sự vật, hiện tượng khách quan.
III. KẾT LUẬN
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và
gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt
động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại hiện nay.
Các trình độ phát triển của nhận thức khoa học là các phương pháp nhận thức
khác nhau. Các trình độ phát triển của nhận thức khoa học bao gồm:quan sát –
thực nghiệm; dữ kiện và trừu tượng khoa học; mô tả và giải thích; giả thuyết và
lý thuyết.
Trong quá trình nhận thức khoa học, chủ thể nhận thức phải tùy vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể để vận dụng các phương pháp này một cách linh hoạt,
hợp lý, không nên quá coi trọng một phương pháp nào mà xem nhẹ các phương
pháp còn lại./.

10



×