Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận môn triết học nội dung của ý thức đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.47 KB, 17 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ý thức xã hội là một mặt tinh thần của đời sống xã hội, nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội, vậy nên ý thức xã hội vô cùng phong phú. Vì
vậy để có thể tiếp cận và nhận thức sự phong phú, đa dạng ấy các nhà khoa học
đã phân tích đời sống tinh thần của xã hội thành các hình thái ý thức xã hội.
Trong số rất nhiều hình thái đa dạng đó, hai hình thái: ý thức chính trị và ý thức
đạo đức nổi bật lên là những hình thái ý thức xã hội quan trọng và chứa đựng
nhiều ý nghĩa với đời sống xã hội của con người.
I. Khái quát về ý thức xã hội
1. Khái niệm
Toàn bộ đời sống xã hội chia thành hai lĩnh vực lớn: lĩnh vực vật chất và
lĩnh vực tinh thần, đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộnhững
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… của những
cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định.
Khi nghiên cứu về khái niệm ý thức xã hội cũng cần thấy rõ sự khác nhau
tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là thế giới tinh
thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Con người bao giờ cũng sống trong
một xã hội cụ thể. Ý thức cá nhân cũng phản ánh tồn tại xã hội ở những mức độ
khác nhau, do đó nó không thể không mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân
không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của
một cộng đồng, một tập thể xã hội, một thời đại nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân cùng phản ánh tồn tại xã hội, chúng tồn tại
trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng, xâm nhập vào nhau và làm phong phú
cho nhau. Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân là mối quan hệ giữa
cái chung và cái riêng.
1


2. Kết cấu của ý thức xã hội


Ý thức xã hội gồm các hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình
thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau. Tuỳ
theo góc độ xem xét, chúng ta có thể tiếp cận kết cấu củaý thức xã hội từ những
phương diện khác nhau.
*Căn cứ vào cấp độ và giới hạn nhận thức, có thể chia ý thức xã hội
thành ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận. Sự phân chia thành ý thức
thông thường và ý thức lý luận dựa vào sự đối lập giữa một bên là nhân sinh
quan trong thực tiễn chưa được hệ thống hóa với bên kia là tập hợp những tư
tưởng đã được nghiên cứu một cách sáng tạo được hệ thống hóa thành lý luận.
Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm của
những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một
cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá,
khái quát hóa.
Ý thức xã hội thông thường tuy trình độ thấp hơn so với ý thức lý luận
nhưng ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc
sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý thức xã
hội thông thường là tiền đề quan trọng cho sự hình thành của học thuyết khoa
học.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái quát
hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm,
phạm trù, qui luật.
Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh khái quát, sâu sắc,
chính xác, nó có khả năng vạch ra mối quan hệ bản chất của sự vật trong tồn tại
xã hội.
*Căn cứ vào nội dung, tính chất của các bộ phận hợp thành, ý thức xã
hội gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

2



Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán,...
của con người, của một bộ phận xã hội hoặc toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh
hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, hình thành khi con người
nhận thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. Hệ tư
tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất sự vật, vào các mối quan hệ xã hội. Hệ tư
tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư
tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo), là kết quả của sự khái
quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự
giác, nghĩa là được tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhấtđịnh và
được truyền bá trong xã hội.
Hệ tư tưởng có thể là hệ tư tưởng khoa học, cũng có thể là hệ tư tưởng
phản khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối
quan hệ vật chất của xã hội. Còn hệ tư tưởng không khoa học cũng phản ánh các
mối quan hệ vật chất của xã hội nhưng đó là sự phản ánh sai lầm, xuyên tạc.
Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối liên hệ tác động lẫn nhau
vì chúng nguồn gốc là tồn tại xã hội và cũng phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý
xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá,
sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định (tâm lý, tình cảm
giai cấp là điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư tưởng
của giai cấp). Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa
học, tiến bộ) với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống hết sức sinh động phong
phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng bớt xơ cứng, giảm sai lầm.
Ngược lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội sẽ làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm
lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học sẽ thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo hướng
đúng đắn, lành mạnh, có lợi cho tiến bộ xã hội.
Rõ ràng, hệ tư tưởng xã hội liên kết hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác
động của tâm lý xã hội, nhưng nó không đơn giản là sự “cô đặc” tâm lý xã hội.

3



* Theo lĩnh vực và phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các
hình thái ý thức xã hội khác nhau: Ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý
thứcđạo đức, ý thức khoa học, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ.
II. Hình thái ý thức chính trị
1. Khái niệm
Để hiểu ý thức chính trị, cần bắt đầu từ việc nghiên cứu khái niệm chính
trị và ý thức. Chính trị, theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc nhà nước
hay công việc xã hội liên quan với nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn liền với
những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của
nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Ý thức là sự phản ánh
thế giới xung quanh vào bộ não của con người, là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
Từ khái niệm về chính trị và ý thức, có thể nhận thấy rằng ý thức chính trị
chính là sự hiểu biết, sự quan tâm đến những vấn đề chính trị. Cụ thể hơn, ý
thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ kinh tế-xã hội, phản ánh những lợi ích
cơ bản và địa vị của các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp đó trong việc
giành hoặc duy trì quyền điều hành nhà nước.
Ý thức chính trị rất phong phú nhưng cái cốt lõi của nó là những hiểu
biết, những nhận thức của một giai cấp về địa vị lịch sử, về đường lối, chiến
lược, sách lược, những nhiệm vụ của giai cấp mình trong sự phát triển của lịch
sử. Ý thức chính trị còn là sự nhận thức về Nhà nước, về mục tiêu, nhiệm vụ
của Nhà nước đó và sự tham gia của chủ thể vào hoạt động của nhà nước đó. Ý
thức chính trị đồng thời với việc nhìn nhận nhà nước, là thái độ đối với hoạt
động của các đảng phái.
Trung tâm của đời sống chính trị là quyền lực chính trị - quyền lực của
một giai cấp hay của liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội, nói lên khả năng của
một giai cấp thực hiện lợi ích của mình. Quyền lực chính trị nói lên hoạt động
4



thực chất của mọi giai cấp, mọi đảng phái trong xã hội có giai cấp. Giai cấp nào,
nhóm xã hội nào cũng muốn nắm, muốn chi phối quyền lực chính trị. Vì nắm
được quyền lực chính trị là nắm được công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết
quan hệ lợi ích với các giai cấp khác, nhóm xã hội khác theo hướng có lợi cho
giai cấp mình, nhóm mình. Do đó, ý thức chính trị còn thể hiện sự nhận thức
được nhu cầu, lợi ích chính trị, hay nói cách khác, là sự nhận thức về quyền lực
chính trị.
Chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa
các giai cấp trở nên gay gắt không thể điều hòa được. Trong xã hội có giai cấp,
mỗi hình thái kinh tế, xã hội đều có một kết cấu giai cấp nhất định, vì vậy, ý
thức chính trị còn thể hiện ở quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích
chính trị mà các giai cấp, tầng lớp xã hội đo sđang theo đuổi, ở sự liên minh giai
cấp, đấu tranh và hợp tác giữa các giai cấp, tầng lớp vì những yêu cầu nhất định.
Như vậy, có thể nhận thấy, ý thức chính trị là hình thái ý thức chỉ xuất
hiện và tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước, nó phản ánh các quan
hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng
như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Đặc trưng của ý thức
chính trị là thể hiện trực tiếp và tập trung nhất lợi ích giai cấp.
2. Kết cấu của ý thức chính trị
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội nên nó cũng có hai cấp độ
chính. Đó là tâm lý chính trị (cấp độ thực tiễn - đời thường) và hệ tư tưởng
chính trị (cấp độ tư tưởng - lý luận).
Tâm lý chính trị là những dạng tâm lý, cảm xúc, mơ ước...nảy sinh tự
phát từ trong hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm, xã hội của con người, từ môi
trường xung quanh trực tiếp phụ thụ thuộc vào hiện thực kinh tế khách quan
trong tính cụ thể hàng ngày. Tâm lý chính trị chưa có tính hệ thống, không có
tầm nhìn lịch sử rộng lớn, không có công thức lý luận, phạm trù triết học.
5



Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là nó tầm thường, ít giá trị mà ngược lại,
nó có nội dung rất phong phú, bao hàm được nhiều mặt của đời sống chính trị,
và ở một mức độ nào đó nó đã phản ánh được bản chất của vấn đề chính trị.
Tâm lý chính trị có điểm mạnh ở chỗ nó gần gũi hơn với hiện thực trực tiếp của
đời sống chính trị, vì vậy, nó thường là kho tàng để ý thức chính trị có tính lý
luận tìm kiếm và khái quát thành nội dung của mình.
Hệ tư tưởng chính trị là những quan điểm, tư tưởng chính trị đã được hệ
thống hóa thành một chỉnh thể mang tính hợp lý, tính khoa học, phản ánh trực
tiếp tập trung lợi ích và địa vị của một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng chính trị
được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng, của các
giai cấp khác nhau cũng như trong pháp luật, chính sách của nhà nước, và được
thể hiện trong các công cụ quản lý khác của nhà nước. Hệ tư tưởng chính trị
được hình thành tự giác, nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và
truyền bá dưới hình thức các học thuyết chính trị cụ thể. Hệ tư tưởng chính trị
luôn gắn liền với các tổ chức chính trị phản ánh trong nội dung cương lĩnh của
các tổ chức này, thông qua các tổ chức chính trị mà một giai cấp nào đó tiến
hành cuộc đấu tranh về ý thức hệ vì lợi ích của giai cấp mình.
Tâm lý chính trị và hệ tư tưởng chính trị có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tâm lý chính trị biểu hiện dưới dạng tâm lý, tính cảm giai cấp sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng chính trị của giai cấp, đồng thời, hệ
tư tưởng chính trị của giai cấp lại củng cố, định hướng cho sự phát triển tâm lý,
tình cảm giai cấp. Vì mối quan hệ đó mà trong hoạt động thực tiễn giáo dục ý
thức chính trị cho mỗi cá nhân, cộng đồng cần khuyến khích, nuôi dưỡng, giáo
dục cả ý thức chính trị thwujc tiễn và ý thức chính trị có tính lý luận.
3. Vai trò của ý thức chính trị.
Ý thức chính trị, đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp nắm chính
quyền có vai trò rất to lớn trong đời sống xã hội. Nó tác động trở lại nền kinh tế
6



thông qua các các tổ chức nhà nước, biểu hiện ở chỗ nó thông qua quyền lực
nhà nước để bảo vệ và phát triển nền tảng kinh tế mà giai cấp cầm quyền là
người đại diện cho quan hệ sản xuất chiếm vị trí thống trị trong xã hội đó. Hệ tư
tưởng chính trị còn giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội nói
chung. Thông qua tổ chức nhà nước sẽ xác lập vị trí chi phối của hệ tư tưởng
chính trị của giai cấp cầm quyền trong văn hóa, nếp sống và mọi lĩnh vực tinh
thân của đời sống xã hội. Bằng cách đó giai cấp cầm quyền hy vọng hình thành
được sự thống nhất về chính trị, tư tưởng tinh thần trong xã hội mà hệ tư tưởng
chính trị của nó đứng vị trí trung tâm, mang tính chi phối.
Các hình thái ý thức xã hội đều chịu sự chi phối của ý thức chính trị, phục
tùng đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Hệ tư tưởng chính trị của một
gia cấp có thể là tiến bộ, cách mạng nhưng cũng có thể là lạc hậu, phản cách
mạng. Điều đó tùy thuộc vào vai trò lịch sử của giai cấp đó quyết định. Khi giai
cấp còn là tiến bộ, cách mạng, tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử
thì hệ tư tưởng chính trị của nó là tiến bộ, phản ánh đúng hiện thực của đời sống
chính trị và có tác động tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó trở
thành lạc hậu, không còn vai trò lịch sử thì hệ tư tưởng chính trị của nó là phản
khoa học, phản ánh xuyên tạc, sai lầm các hiện thực của đời sống chính trị, có
tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Có rất nhiều minh chứng cụ thể cho sự tác động của ý thức chính trị đối
với xã hội. Ví dụ như Hệ tư tưởng Mác - Lênin là hệ tư tưởng triệt để cách
mạng và thật sự khoa học, đã dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động
tiến hành cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã
hội mới hơn, tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, ngược lại, Hitler với tư tưởng chính trị
phản động của mình, tuân theo một hệ tư tưởng nhấn mạnh vào sự trong sạch
chủng tộc của người Đức và xem người Do Thái và người cộng sản là những kẻ
thù lớn nhất của nước Đức, chính quyền đã đi đến chỗ mở đầu một chiến dịch
diệt chủng chống lại chủng tộc Do Thái và các nhóm chủng tộc khác, gây ra cái

7


chết của khoảng 12 triệu người trong cái được gọi là Holocaust. Khái niệm của
Hitler về "không gian sống"và sự theo đuổi quan niệm này của ông ta đã dẫn
đến các cuộc xâm lược của Đức đối với các nước khác tại Châu Âu, đưa đến thế
chiến thứ hai mà trong đó có hơn 60 triệu người thiệt mạng. Một ví dụ khác
trong lịch sử như chế độ độc tài Kherme đỏ ở Campuchia do Pol pot cầm đầu.
Pol pot vouws hệ tư tưởng phản động đã thi hành chính sách diệt chủng đối với
trí thức, người thành thị, người dân tộc thiểu số, và kể cả nhiều đảng viên, công
chức và binh lính của chế độ. Người dân Campuchia dễ dàng bị hành quyết vì
những lý do rất nhỏ nhặt. Khmer Đỏ vừa dìm nhân dân Campuchia trong bể
máu vừa tiến hành thanh trừng nội bộ một cách tàn bạo. Chế độ Pol Pot đã giết
hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8
triệu.
Hiện tại thì Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS đang có hệ tư tưởng chính trị vô cùng
cực đoan, họ thực hiện những cuộc khủng bố quy mô toàn cầu để đe doạ đến
nền hòa bình thế giới. Như vậy, hệ tư tưởng chính trị cực đoan, phản động sẽ
gây ảnh hưởng cực kì xấu đến xã hội không chỉ ở một đất nước mà có thể là
toàn thế giới. Điều đó đòi hỏi tất cả các nước trên thế giới trên thế giới phải
đoàn kết để chống lại các hệ tư tưởng chính trị cực đoan này.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, hệ tư tưởng chính trị thống trị trong
xã hội bao giờ cũng là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế
-giai cấp nắm chính quyền. Ý thức chính trị của giai cấp bị trị khác thường chịu
ảnh hưởng ý thức chính trị của giai cấp thống trị. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này
chỉ là tương đối; cùng với cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực kinh tế, cuộc
đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng cũng diễn ra quyết liệt giữa giai cấp
thống trị và bị trị, làm cho hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị bị suy
yếu. Trong xã hội không có đối kháng giai cấp – xã hội XHCN, hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân giữ vị trí thống trị. Nhưng hệ tư tưởng này là tiến bộ, cách

8


mạng, nó phản ánh được những nhu cầu, lợi ích chính trị cơ bản của toàn thể
nhân dân lao động nên có vai trò chủ đạo, định hướng đúng đắn cho ý thức
chính trị của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội nhằm mục đích giải quyết
tốt những quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong quá trình xây dựng
CNXH.
III. Hình thái ý thức đạo đức
1. Định nghĩa ý thức đạo đức.
Hình thái ý thức đạo đức là một trong những hình thái ý thức ra đời từ rất
sớm, ngay từ xã hội nguyên thuỷ. Khi xã hội xuất hiện các giai cấp, ý thức đạo
đức được hình thành như một hình thái ý thức xã hội riêng. Ý thức đạo đức và
đạo đức nói chung không phát triển tách rời mà gắn liền với sự phát triển của xã
hội. Ý thức đạo đức phản ánh sự tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh
(bằng dư luận xã hội) hành vi của con người.
Ở Trung Quốc các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về đạo và đức của họ. Đạo là
một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo
có nghĩa là con đường, đường đi về sau, khái niệm đạo được vận dụng trong
triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đường sống
của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn
chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có
thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ngày nay ý thức đạo đức được định nghĩa như sau: ý thức đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng
thái xúc cảm tâm lý chung của cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng…và về những quy tắc đánh giá, chuẩn
mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá

9


nhân với cá nhân trong xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội
2. Nội dung của ý thức đạo đức
* Ý thức đạo đức về mặt cấu trúc gồm tri thức đạo đức, tình cảm và ý
chí đạo đức.
Trong quan hệ giữa người với người đều có những ranh giới của hành vi
và giá trị đạo đức. Những giá trị phổ biến nhất của ý thức đạo đức xuyên qua
lịch sử toàn thế giới, tất cả các dân tộc và các kiểu văn hóa là khái niệm thiện và
ác, và các khái niệm liên quan như ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc, công bằng,
lương tâm, danh dự lòng tự trọng, giữa chủ nghĩa cá nhân ích kỉ và tinh thần tập
thể. Về mặt giá trị của hành vi đạo đức cũng có ranh giới: lao động là hành vi
thiện, ăn bám bóc lột là vô nhân đạo. Ngay cả trong một hành vi thiện mức độ
giá trị của nó không phải lúc nào cũng ngang nhau, mà nó còn có những thang
bậc nhất định(cao cả, tốt, được).
Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành
vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những qui
tắc xã hội đặt ra, nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành
một cách tự giác tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức.
Trong ý thức đạo đức còn bao hàm cảm xúc, tình cảm đạo đức con
người. Đây cũng được coi là yếu tố đặc biệt quan trọng để những khái niệm,
phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý tính
có thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Mỗi người khác nhau có những cảm
xúc, những tình cảm đạo đức khác nhau, vì thế suy nghĩ và hành động của mỗi
người trong từng trường hợp cụ thể là khác nhau. Trong tiến trình phá triển của
xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại
trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc đơn
giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người, cần thiết cho việc giữ gìn trật tự

xã hội và sinh hoạt thường ngày của mọi người.
10


* Ý thức đạo đức có tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp.
- Tính thời đại: ý thức đạo đức luôn thay đổi từ thời đại này qua thời đại
khác. Có thể minh chứng qua ví dụ: ý thức đạo đức ngày nay thì phải tôn trọng
nhân phẩm con người, nhưng vào thời kì chủ nô(4000 năm trước Công nguyên)
người nộ lệ đã bị coi như một “công cụ biết nói” có thể chuyển nhượng, mua
bán như một đồ vật trên thị trường.
- Tính dân tộc: ý thức đạo đức cũng khác nhau từ dân tộc này qua dân tộc
khác. Ý thức đạo đức qui định bởi sự tồn tại xã hội và chịu ảnh hưởng của tổng
thể các ý thức xã hội khác nhau như triết học, nghệ thuật… tạo thành bản sắc
dân tộc cho từng vùng dân cư nên mỗi dân tộc lại có phong tục, đạo đức riêng
của mình. Bởi vậy mới có câu châm ngôn nhập gia tuỳ tục. Ví dụ quan hệ đạo
đức gia đình ngày nay là một vợ một chồng nhưng vẫn nhiều nơi còn chế độ đa
thê.
- Tính giai cấp: Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì nội
dung chủ yếu của đạo đức là phản ánh quan hệ giai cấp và nó có tính giai cấp.
Trong các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp.
Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều
có những quan niệm đạo đức của riêng mình. Giai cấp tiêu biểu cho sự đi lên
của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ, còn các giai cấp phản động
thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Ph.Ăngghen đã viết: “Xét cho đến
cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của
tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động
trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn là đạo đức của giai
cấp; hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc là,
khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại


11


sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp
bức”.
Tuy nhiên, suy cho cùng, tính giai cấp của đạo đức là sự phản ánh và thể
hiện lợi ích của các giai cấp và hệ thống đạo đức áp đặt cho toàn xã hội bao giờ
cũng là đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù trong cuộc sống đời thường mỗi
giai cấp vẫn ứng xử theo lợi ích trực tiếp của mình. Chẳng hạn như thời phong
kiến quan niện trung quân ái quốc, yêu vua là yêu nước đã trở thành phổ biến,
nhưng ở các làng quê “phép vua vẫn thua lệ làng”, người dân vẫn giữ gìn bản
sắc dân tộc truyền thống của mình. Ngoài tính giai cấp, đạo đức vẫn mang tính
nhân loại chung. Tính nhân loại của đạo đức ở mức thấp là những qui tắc đơn
giản, thông thường, cần thiết để đảm bảo cho trật tự an sinh đời thường. Tính
nhân loại ở mức cao biểu hiện ở những giá trị đạo đức tiến bộ tiêu biểu nhất của
từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội trong lịch sử.
3. Vai trò của ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội. Đạo đức là vấn
đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng
đồng tồn tại, phát triển. Sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về
những vấn đề đạo đức để tìm ra con đường, cách thức và phương tiện hoạt động
nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó đảm bảo cho sù tồn tại, phát
triển của chính mình và cộng đồng.
Trong sự vận động, phát triển của xã hội loài người, suy cho cùng nhân
tố kinh tế là cái chủ yếu quyết định. Sự tiến bộ, phát triển của xã hội không thể
thiếu vai trò của đạo đức. Và khi xã hội phân chia thành giai cấp, có áp bức bất
công thì ý thức đạo đức giúp con người tự điều chỉnh hành vi của mình, biết đấu
tranh cho cái thiện, đẩy lùi cái ác. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng
là động lực để phát triển xã hội.
Ngoài vai trò chung mang tính khái quát ở trên thì vai trò của ý thức đạo

đức được thể hiện ở các chức năng cụ thể sau
12


-

Chức năng điều chỉnh hành vi:
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi
làm cá nhân và xó hội phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có
chính trị, pháp quyền và đạo đức…
Nếu như chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các
quốc gia bằng các biện pháp đặc trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo
lực… thì pháp quyền và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá
nhân với cộng đồng bằng các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xã
hội, lương tâm. Sự điều chỉnh này, có thể thuận chiều, có thể ngược chiều.
Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi
hỏi và phương thức pháp quyền thể hiện ra ở pháp luật, là ý chí của giai cấp
thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Những chuẩn mực của pháp luật được
thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực công cộng cùng với đội vũ
trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, toà án, …). Pháp quyền là đạo đức tối thiểu
của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng. Trong khi đó, đạo đức đòi hỏi từ tối
thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư
luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực
ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích. Chức năng điều chỉnh hành vi của
đạo đức bằng dư luận xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi
con người đã trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý
thức khác, các hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của
đạo đức. Mục đích điều chỉnh là để bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội tạo
nên quan hệ theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng đồng và cá nhân. Đối tượng

điều chỉnh: hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với
cộng đồng (gián tiếp). Cách thức điều chỉnh được biểu hiện: lựa chọn giá trị đạo
đức; xác định chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương
án cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm
tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi dư luận xã
13


hội. Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình thức chủ yếu: xó
hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái thiện, phê phán mạnh
mẽ cái ác; bản thân chủ thể đạo đức tự giỏc điều chỉnh hành vi cơ sở những
chuẩn mực đạo đức xã hội.
-

Chức năng giáo dục:
Mục tiêu mà con người hướng đến là vướn tới cái “chân - thiện - mỹ”. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo
ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy. Con
người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động đến
con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người
tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá
tác động, chi phối con người. Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ
thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức tác
động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận
thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực
tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành
vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá
nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán
đạo đức. Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội,
cách thức tổ chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục

trong quá trình giáo dục. Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức: nhân đạo
hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ xã hội; sự
hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó…sẽ giúp chủ thể
lựa chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người
khác hay của cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu
cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức.

-

Chức năng nhận thức:
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức có chức năng nhận
thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh của ý thức đạo đức với
14


hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác. Nếu xét dưới
góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xã
hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo
không tách rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, ý thức đạo đức là
hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.
Sự nhận thức của ý thức đạo đức có đặc điểm: Hành động đạo đức tiếp
liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp có sự hòa quyện ý thức
đạo đức với hành động đạo đức. Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng
ngoại (hướng ra ngoài) và hướng nội (tự nhận thức – hương vào chính mình,
chính chủ thể). Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức
của xã hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và
nghĩa vụ, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phương tiện”
tạo ra các giá trị đạo đức. Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân
mình – chủ thể đạo đức – làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá,
tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với

những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ
thể hình thành phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay
chủ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái
ác…Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư
luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn lương
tâm là sự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình –
giá trị mà xã hội mong muốn.
* Mối quan hệ giữa hình thái ý thức chính trị và hình thái ý thức đạo đức
Hình thái ý thức chính trị và hình thái ý thức đạo đức đều là những dạng
khác nhau của ý thức xã hội. Tuy có nội dung khác nhau, song giữa chúng luôn
có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau.
Xét một cách chung nhất, vì hình thái ý thức đạo đức xuất hiện trước hình
thái ý thức chính trị, gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người nên trong
nội dung của ý thức đạo đức luôn có những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân
15


loại, tồn tại ở mọi xã hội và các hệ thống đạo đức khác nhau. Nói cách khác đó
là những quy tắc vừa đơn giản nhưng cũng vừa quan trọng nhất. Vì vậy, ý thức
chính trị - với vị trí là hình thái xuất hiện sau, trước hết phải tôn trọng, tuân thủ
và xây dựng những nội dung của mình trên những giá trị đạo đức cơ bản nhất.
Bởi nếu hình thái ý thức chính trị không tôn trọng những giá trị đó thì có nghĩa
nó không tôn trọng những giá trị cơ bản của con người và tất yếu, không sớm
thì muộn sẽ không thể tồn tại trong xã hội loài người.
Còn xét trong xã hội có giai cấp, đạo đức cũng như chính trị đều là sản
phẩm của một cơ sở kinh tế xã hội nhất định, đều biểu hiện cho lợi ích của giai
cấp nhất định. Ở đó, nhiều khi các quan hệ đạo đức thường lẫn vào chính trị,
ngược lại có những quan điểm chính trị phản ánh những giá trị đạo đức.Trong
đó, hình thái ý thức chính trị là hình thái thể hiện mối quan hệ giữa các giai cấp,
dân tộc, quốc gia, thể hiện thái độ của các giai cấp với quyền lực nhà nước, là

hình thái thể hiện trực tiếp và tập trung nhất lợi ích giai cấp. Đặc biệt là đối với
giai cấp cầm quyền, hệ tư tưởng của họ sẽ tác động hoặc điều chỉnh, định hình
đến những vấn đề khác trong xã hội. Vậy nên, trong một chừng mực nào đó, vì
lợi ích giai cấp, ý thức chính trị sẽ tác động, điều chỉnh, giới hạn ý thức đạo đức
để phù hợp với ý thức chính trị của mình. Chính vì vậy nên trong xã hội có giai
cấp, ý thức đạo đức cũng mang tính giai cấp, đạo đức thường lẫn vào chính trị.
Còn ý thức chính trị dù có phục vụ lợi ích của giai cấp nào thì trước hết
vẫn phải có nền tảng xã hội, vì vậy như đã phân tích ở trên, nó sẽ bao gồm cả
những giá trị đạo đức cơ bản nhất và phản ánh những giá trị đạo đức. Đối với
giai cấp và nhà nước tiên tiến thì nó thường gắn liền với những quan điểm đạo
đức tiến bộ, ngược lại giai cấp suy tàn thì gắn liền với quan điểm đạo đức lạc
hậu, bảo thủ kiềm hãm sự phát triển của xã hội.
Ngoài ra, sự thống nhất biện chứng giữa chính trị và đạo đức còn được
thể hiện cụ thể trong việc xây dựng con người mới, trong đó tài và đức phải kết
hợp chặt chẽ với nhau và lấy đức làm gốc đúng như Hồ Chủ tịch đã nói: “Có
Tài mà không có Đức là người vô dụng, có Đức mà không có Tài thì làm việc gì
16


cũng khó”. Chỉ một câu nói ngắn gọn vậy thôi nhưng đã thể hiện được mối quan
hệ biện chứng giữa hai hình thái ý thức xã hội nêu trên.

KẾT LUẬN
Ý thức chính trị và ý thức đạo đức là những hình thái ý thức xã hội vô
cùng quan trọng. Nhưng nó không tồn tại độc lập mà luôn tồn tại trong mối
quan hệ với những hình thái ý thức xã hội khác. Cùng với nhau, các hình thái
luôn vừa tự vận động vừa tác động tới những hình thái khác để thúc đẩy ý thức
xã hội phát triển và từ đó, tác động vào sự phát triển của tồn tại xã hội.

17




×