Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 183 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ CÔNG LƯƠNG

ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước
Mã số : 62 31 02 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS Phan Hữu Tích
2. TS Hoàng Mạnh Đoàn

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án


MỤC LỤC
1

MỞ ĐẦU


Chương 1:

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

6
6

1.2. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo và vấn đề
đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2:

21

ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. Trí thức và công tác vận động trí thức ở nước ta

24
24

2.2. Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức - khái niệm, nội dung

41


và phương thức
Chương 3:

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

60

3.1. Thực trạng đội ngũ trí thức và công tác vận động trí thức ở nước
ta hiện nay
3.2.

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm

Chương 4:

60
79

NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025

116

4.1. Những nhân tố tác động và yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức

116


4.2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác vận động trí thức giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN

125
154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

158

PHỤ LỤC

169


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH


Chủ nghĩa xã hội

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

KH&CN

Khoa học và công nghệ

KH&KT

Khoa học và kỹ thuật

KTTT

Kinh tế tri thức

KT-XH

Kinh tế - xã hội

LHH

Liên Hiệp hội

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc


UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trí thức là vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ trí
tuệ của một quốc gia và có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Lịch sử cho thấy rằng: ở thời nào cũng vậy, sự hưng thịnh của đất nước
tùy thuộc phần lớn vào việc coi trọng và sử dụng đội ngũ trí thức như thế nào. Cách
đây hơn năm thế kỷ, trong bài Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu
Đại Bảo năm thứ 3(1942),Thân Nhân Trung đã nêu bật được tầm quan trọng của
giáo dục nhân tài đối với sự hưng thịnh của đất nước:
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà
hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế
vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn
kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết [137].
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn về sự tụt hậu ngày càng
xa so với các nước trong khu vực và quốc tế. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) để từng bước vượt qua thách thức đó. Đội ngũ trí thức với
đặc thù lao động của mình có vai trò quan trọng, có ý nghĩa rất quan trọng. Không có
đội ngũ trí thức đủ mạnh thì không thể tiến hành CNH, HĐH đất nước, không thể xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Trí thức vừa là một bộ phận của nguồn lực con người, vừa là nguồn tiềm năng

khoa học, kỹ thuật, trực tiếp tham gia vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân
lực cho đất nước. Đánh giá về xu thế phát triển này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI đã khẳng định: “Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó, con người và tri thức
càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia” [50, tr.97]. Nối tiếp
truyền thống của dân tộc, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, trong sự nghiệp đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm lãnh đạo công tác vận động đội ngũ trí thức. Đảng đã ban hành nhiều
nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo công tác vận động trí thức, điển hình là Nghị quyết
số 27-NQ/TW, về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH
(2008). Quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng chậm được cụ thể hóa vào tình


2
hình thực tế, chưa tạo ra được những chính sách đồng bộ đủ mạnh để gắn kết khoa
học công nghệ với giáo dục đào tạo và sản xuất kinh doanh, phục vụ sự phát triển
của đời sống xã hội. Đảng bộ, chính quyền các cấp có lúc, có nơi chưa thấy hết vai
trò, vị trí của trí thức trong sự phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), đặc biệt trong
phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa. Trong công tác quy hoạch đào
tạo, bồi dưỡng sử dụng, đãi ngộ đối với trí thức còn thiếu tính chiến lược, chưa
được xem như là một bộ phận cấu thành của chiến lược con người, chiến lược phát
triển KT - XH nên chưa tạo ra được một đội ngũ trí thức có cơ cấu đồng bộ, hợp lý
đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH. Sự quan tâm chỉ đạo đầu tư xây dựng các tổ
chức của trí thức chưa đúng mức, cả về tổ chức cũng như kinh phí hoạt động…
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch với chiến lược “diễn
biến hòa bình” đang tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng nước ta, phá
hoại khối đoàn kết toàn dân, chia rẽ dân với Đảng, đặc biệt chúng tập trung lôi kéo,
lợi dụng trí thức nhằm hạ thấp, làm lu mờ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó
đòi hỏi chúng ta phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận nói chung và công tác vận động trí thức nói riêng. Ngày 03/6/2013, Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đã ra Nghị quyết số 25NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận

trong tình hình mới”. Nghị quyết đã nhấn mạnh mục tiêu lớn nhất của công tác dân
vận trong tình hình mới, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận động trí thức là bộ phận trong công
tác dân vận, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức góp
phần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong
tình hình mới là yêu cầu bức thiết. Do đó, tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đang đặt ra
những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu, làm sang tỏ thêm.
Xuất phát từ cách nhìn nhận, tiếp cận đó; từ yêu cầu nhiệm vụ, thực tiễn
công tác của bản thân, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ


3
chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức, đề xuất phương hướng, mục tiêu và giải pháp tiếp tục
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án, làm rõ kết quả
nghiên cứu về trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức;
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức;
- Đánh giá thực trạng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức, nêu nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm;

- Xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là một vấn
đề rất rộng và phức tạp. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về
trí thức và công tác vận động trí thức; nghiên cứu thực trạng đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức từ năm 1986 đến
nay, trong đó tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2000 đến 2013. Luận án cũng đề cập
đến những nhân tố tác động và những yêu cầu đặt ra đối với đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức, từ đó đề ra những giải pháp để tiếp tục
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn từ
nay đến năm 2025.


4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về trí thức và công tác vận động trí thức.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin đồng thời sử dụng
các phương pháp nghiên cứu lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, điều
tra, khảo sát thực tiễn, phương pháp chuyên gia và phương pháp điều tra xã hội học.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học
- Nghiên cứu và đưa ra khái niệm về trí thức và công tác vận động trí thức;

nội dung, phương thức lãnh đạo trí thức và xây dựng luận cứ khoa học khẳng định
tính tất yếu phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và rút ra những
kinh nghiệm lãnh đạo công tác vận động trí thức làm cơ sở thực tiễn cho việc đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.
- Dự báo thuận lợi, khó khăn, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất các
giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
đến năm 2025.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần tiếp tục nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
trong tình hình hiện nay. Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong tình hình hiện nay
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, các cơ quan, tổ chức và cá
nhân quan tâm.
7. Kết cấu của luận án
Gồm phần mở đầu, 4 chương với 8 tiết, kết luận, danh mục công trình nghiên
cứu đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN


1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Trí thức và công tác vận động trí thức có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự
phát triển của đất nước. Chính vì vậy, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về đội ngũ trí thức và công tác vận động trí thức với nhiều khía cạnh,
quy mô khác nhau, trong đó có một số công trình khoa học đã đề cập đến các nội
dung mà luận án cần nghiên cứu nghiên cứu tham khảo và kế thừa.
1.1.1.1. Sách
- Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, (1995) do Phạm Tất Dong (chủ
biên) [22]: Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí
thức Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm hiện
đại về “trí thức”, trên cơ sở đó nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử của thế kỷ XX. Từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu… đến
tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị
nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay.
- Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, do Phạm Tất Dong (chủ biên) [24]: Trên cơ sở nghiên cứu khái quát
tình hình CNH, HĐH đất nước và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ; tác giả
đã khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trong CNH, HĐH, trong phát triển lực
lượng sản xuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo,
quản lý và điều hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với thái độ tôn trọng trí thức,
tác giả khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, “sản phẩm lao động của trí thức là
một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bị chiếm đoạt mà không ai biết,
song nó cũng có thể được lưu thông và trả giá xứng đáng như bao thứ hàng quý
hiếm khác” [24, tr.330]. Đây chính là khởi nguồn cho sự đổi mới tư duy khi xem


6
tiền lương và các loại phụ cấp của trí thức như những chính sách đầu tư có lợi nhất
để mua lại “chất xám” - một loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
- Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước (1995) của

Đỗ Mười [117]. Tác phẩm tập hợp những bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư
Đỗ Mười về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước do Nguyễn Quốc Bảo, Đoàn Thị
Lịch (đồng chủ biên) [7]: Tác phẩm đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt
Nam trong công cuộc đổi mới, phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt
Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
- Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo tư tưởng Hồ Chí Minh do Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (đồng chủ
biên), [8]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc
độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước
ta trong công tác xây dựng trí thức; đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế
của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có sở đó, đi sâu phân tích, đề xuất
những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta thời kỳ 2011- 2020 đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn [138]. Tác giả
đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói chung đối với tiến bộ xã hội;
làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử và dự báo xu
hướng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những phương
hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách KT - XH đối với đội ngũ trí thức
Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, của Nguyễn Đắc
Hưng [67]. Trong tác phẩm này, tác giả đã làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai
trò của trí thức; những phương hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất


7

rộng của khái niệm trí thức, tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có
trình độ học vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có
tính sáng tạo, có những cống hiến nhất định, hữu ích cho xã hội và phải được xã hội
kiểm định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn. Đây là sự đổi mới tư duy về trí
thức, từ chỗ chỉ coi trọng bằng cấp đến chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động
thực tế thông qua sự đánh giá khách quan của xã hội.
- Cộng đồng và đội ngũ trí thức người Việt Nam ở một số nước Đông Âu
những năm đầu thế kỷ XXI, do Nguyễn An Hà chủ biên [58]. Cuốn sách gồm ba
phần đã trình bày khái quát thực trạng, những nhân tố tác động và quan điểm chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đối với cộng đồng người Việt và đội ngũ trí thức
người Việt ở một số nước Đông Âu những năm đầu thế kỷ XXI.
- Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, của Bùi Thị Ngọc
Lan [84]. Trong công trình này, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một cách khá công
phu về vị trí, vai trò và thực trạng nguồn lực trí tuệ của đất nước, tác giả đã tập
trung xây dựng hệ thống các giải pháp thiết thực, cấp bách nhằm phát huy có hiệu
quả nguồn lực này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
1.1.1.2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, Luận án
phó tiến sĩ Triết học của Phan Thanh Khôi [81]. Luận án tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức, từ đó đề ra
phương hướng và giải pháp để phát huy tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ trí
thức trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đất
nước nhiều vấn đề liên quan đến động lực của trí thức trong lao động sáng tạo cũng
có những biến đổi.
- Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Xuân Phương [124]. Luận
án đã phân tích thực trạng và vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức thủ đô Hà Nội
từ đó đưa ra được những nhiệm vụ và giải pháp để phát huy tiềm năng trí tuệ của
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.



8
- Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007, Luận án tiến sĩ Lịch sử của Lương Quang
Hiển [63]. Luận án đã đánh giá khái quát công tác xây dựng đội ngũ trí thức của
Đảng bộ thành phố Hà Nội trong 10 năm 1997 - 2007, từ đó xác định phương
hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Thủ đô trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.
- Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới, Luận
án tiến sĩ Triết học của Trịnh Quang Cảnh [9]. Luận án đã khái quát được thực trạng
đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số (chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc), chỉ ra được
những hạn chế của trí thức và công tác xây dựng trí thức người dân tộc thiểu số của
Đảng, từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số trong giai đoạn đổi mới, xây dựng đất nước.
- Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Giáng Hương [69]. Luận án đã làm rõ sự
cần thiết và những điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan cơ bản tác động đến việc
phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực
trạng nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học của Lương Công Lý [95]. Luận án đã
làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng vai trò của giáo dục - đào tạo với
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đề xuất một số phương hướng và
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ 1991 đến
2005¸ Luận án tiến sĩ Lịch sử của Nguyễn Thắng Lợi [93]. Luận án đã đánh giá quá
trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay.

Dưới góc nhìn của lịch sử, tác giả đã phân tích rõ những thành công cùng như
những khuyết điểm, hạn chế của Đảng trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức,


9
một lực lượng quan trong trong liên minh công - nông - trí. Trên cơ sở phân tích
nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm, tác giả đã đưa ra những giải pháp
để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với trí thức nhằm phát huy cao nhất tiềm
năng trí tuệ của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Xây dựng đội ngũ tri thức tại Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học của Trương Văn
Tuấn [140]. Luận án phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò của trí thức
đối với sự phát triển xã hội; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH;
Tính tất yếu của việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở Thành phố Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Những thành tựu, hạn chế và
những yếu tố tác động đến trí thức và công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức; Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức
Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH, HĐH. Luận án xác định mục tiêu,
phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
- Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930
đến năm 1945, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của Đặng Thị
Minh Phượng [125]. Luận án đã đề cập đến quá trình chuyển biến, phát triển nhận
thức trong tư duy về vận động trí thức và một số kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn và cũng là yếu tố tạo nên sự thành công của công tác vận động trí thức của
Đảng từ năm 1930 đến năm 1945. Luận án khẳng định: Đường lối cứu nước đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của công tác vận động trí thức và
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức, Luận án tiến sĩ Triết học
của Nguyễn Công Trí [135]. Từ cách tiếp cận tổng hợp, luận án nêu ra những đặc
trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện
phát triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và
thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Giá trị quan trọng


10
nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin
và ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao với
các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội.
- Phát triển đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa , Luận văn thạc sĩ Triết học của Trần Văn Thành [129]. Luận văn
góp phần làm rõ một số quan điểm của Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam về trí thức. Luận văn đã cơ bản xây dựng được khái niệm về đội ngũ
trí thức; Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi để xây dựng và phát triển
đội ngũ trí thức Hà Tĩnh hiện nay; Luận văn góp phần làm luận cứ khoa học cho
việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh và làm tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức và
sự vận dụng trong thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Thuận [133]. Luận
văn đã làm rõ cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng,
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức: Những giá trị tư tưởng, truyền thống dân tộc;
tinh hoa văn hóa nhân loại; kinh nghiệm cách mạng thực tiễn Việt Nam và thế giới
mà Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển trong xây dựng tư tưởng của mình; Luận văn
cũng đưa ra một số kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước, bản thân đội ngũ trí thức
nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức trong thời kì đổi mới.
Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đây đã làm rõ cơ sở lý luận, tổng kết
thực tiễn và đề xuất một số kiến nghị giải pháp về xây dựng đội ngũ trí thức ở nhiều

góc độ khác nhau.
1.1.1.3. Đề tài khoa học
- Đề cương báo cáo tình hình đội ngũ trí thức và công tác trí thức của Đảng
của Nguyễn Đình Tứ [142] đã đánh giá một cách tổng quát tình hình đội ngũ trí
thức Việt Nam sau 10 năm đổi mới và trình bày những quan điểm của Đảng ta về trí
thức và những giải pháp để xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai
đoạn 2011 -2020”, Mã số KX.04/06-10, do Đàm Đức Vượng làm Chủ nhiệm [146].


11
Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí
thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới và trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
trong đó, có tham khảo kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ trí thức ở một số
nước phát triển; Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam và chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức qua hơn 20 năm đổi mới và hiện
nay; Dự báo xu hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam đến năm 2020. Đề xuất
mục tiêu, quan điểm, phương hướng, giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức
giai đoạn 2011-2020; Kiến nghị những nội dung cụ thể về xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam đến năm 2020, phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng chiến lược phát triển
KT - XH Việt Nam giai đoạn 2011-2020; chiến lược phát triển và trọng dụng nhân
tài quốc gia Việt Nam; trình Trung ương xem xét để bổ sung, phát triển Cương lĩnh
năm 1991 và dự thảo các văn kiện Đại hội XI của Đảng.
- Đề tài cấp bộ “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức
nước ta hiện nay” do Ngô Huy Tiếp làm Chủ nhiệm đề tài [134]. Nhóm tác giả làm
rõ những vấn đề lý luận về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng; khái quát
được về thực trạng, mục tiêu, phương hướng và giải pháp đổi mới đối với đội ngũ
trí thức Việt Nam, từ đó làm rõ được một số vấn đề về đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong điều kiện
mới”, mã số KX. 04-02/11/15 thuộc chương trình khoa học xã hội và công nghệ
trọng điểm cấp Nhà nước “Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 20112015” do PGS, TS Trần Khắc Việt làm chủ nhiệm [144]. Đề tài đã phân tích lý luận
và tổng kết thực tiễn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong gần 30 năm thực hiện đường
lối đổi mới. Đề tài đã khẳng định những thành quả đạt được, chỉ ra những hạn chế,
thiếu sót trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở đó, đề tài đã đề xuất hệ
thống quan điểm, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong điều kiện mới.


12
1.1.1.4. Các bài viết đăng tạp chí
Trí thức là một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều đối tượng,
nhiều lĩnh vực, vì thế có khá nhiều bài viết , đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này.
Trong những năm gần đây ở Việt Nam đã có một số bài viết và đề tài nghiên cứu,
tiêu biểu là:
- Cơ cấu xã hội của giới trí thức Việt Nam thời xưa; Cơ cấu xã hội và sứ
mệnh lịch sử của người trí thức Việt Nam hiện nay của Vũ Khiêu [79,80]. Trong hai
bài viết này đã đề cập đến vai trò, vị trí của trí thức dưới chế độ phong kiến Việt
Nam và vai trò, vị trí của người trí thức hiện nay, từ đó giúp người đọc hiểu thêm về
quá trình hình thành phát triển và sứ mệnh lịch sử của đội ngũ trí thức Việt Nam
xưa và nay.
- Quá trình vận động và biến đổi cơ cấu xã hội tầng lớp trí thức Việt Nam
của Nguyễn Duy Quý [126]. Bài viết đã đề cập đến quá trình vận động và biến đổi
cơ cấu của tầng lớp trí thức dưới góc nhìn của xã hội học, từ đó tác giả đưa ra
những dự báo, khuyến nghị về công tác vận động trí thức
- Đảng,nhà nước và nhân dân tin tưởng, đặt kỳ vọng vào những đóng góp
tích cực,to lớn,hiệu quả của đội ngũ trí thức của Trương Tấn Sang [127]. Bài viết

tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng đối với trí thức, mong muốn trí thức phát
huy hơn nữa tinh thần yêu nước, thi đua lao động sáng tạo, góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát
huy tài năng trí tuệ (1995) và nhận thức về vấn đề trí thức [2,3] của Nguyễn Đức
Bách. Bài viết đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về trí thức, sự cần thiết phải đổi
mới tư duy, tạo điều kiện để trí thức phát huy vai trò của mình trong quá trình CNH,
HĐH, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức.
- Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Nguyễn
Văn Khánh [75]. Dưới góc độ sử học, tác giả đã phân tích những cống hiến đóng góp
to lớn của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Phùng Hữu Phú [123]. Trong bài viết tác giả đã đưa ra khái niệm chung về trí


13
thức, đánh giá tình hình đội ngũ trí thức nước ta và công tác xây dựng đội ngũ trí thức
của Đảng và Nhà nước ta. xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải
pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới của Trường Lưu [94]. Trong bài viết tác giả
đã đề cập đến vai trò vị trí của trí thức trong lịch sử nhân loại; Trí thức Việt Nam và sứ
mệnh của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức nước ta hiện nay và đề ra
một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam đáp ứng đòi hỏi
cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Phạm Tất Dong, Tác động của KTTT và sự phát triển đội ngũ trí thức Việt
Nam [25]. Dưới góc độ của một người nhiều năm làm công tác khoa giáo tác giả đã
thể hiện một tầm nhìn sâu sắc về những tác động, những thuận lợi, thời cơ và thách
thức của kinh tế trí thức, từ đó chỉ ra sự cấp thiết cần phải xây dựng và phát huy vai

trò của trí thức trong thời kỳ hội nhập quốc tế và KTTT.
- Hoàng Tụy, Những bài học về chính sách với trí thức [141]. Tác giả đã
tổng kết, khái quát hóa những bài học, những khuyết điểm, hạn chế trong việc sử
dụng nhân tài, đãi ngộ đối với trí thức, nhất là trí thức bậc cao trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.
Ngoài các bài viết về công tác vận động trí thức, còn có rất nhiều bài viết đề
cập đến vấn đề đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị nói chung và đối với Nhà nước, Quốc hội, MTTQ và các đoàn thể…
trong tiến trình đổi mới, CNH, HĐH đất nước, tiêu biểu là:
- Công tác vận động nhân dân của Đảng qua gần 30 năm đổi mới: Những
kết quả chủ yếu, bài học kinh nghiệm và vấn đề đặt ra của Hà Thị Khiết [77]. Tác
giả đã đánh giá kết quả công tác vận động nhân dân của Đảng; rút ra những kinh
nghiệm về công tác vận động nhân dân và những vấn đề đang đặt ra với công tác
vận động nhân dân của Đảng.
- Tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới của Hà Thị Khiết [78]. Với tư cách là Trưởng Ban Dân


14
vận của Đảng, tác giả khẳng định: Tiếp tục đổi mới công tác dân vận, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế là vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước ta trong tình hình hiện nay. Thực chất của
công tác dân vận trong thời kỳ mới là xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, thực hiện
thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
- Lê Hữu Nghĩa, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị ở nước ta [120]. Trong bài viết tác giả đã khẳng định để nâng cao hiệu quả
lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào đổi mới nội dung lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào
đổi mới phương thức lãnh đạo.Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam

ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của phương thức lãnh đạo và
yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống
chính trị về hệ thống những hình thức, biện pháp, cách thức lãnh đạo và đã mang lại
những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng
thời phát huy tốt hơn vai trò của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Tác giả
cũng chỉ rõ những thành tựu và hạn chế trong đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, từ đó đề ra những giải
pháp để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Lưu Văn An, Đổi mới nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng trong
điều kiện hiện nay [1]. Theo tác giả, trong mỗi giai đoạn cách mạng, năng lực cầm
quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là vấn đề luôn mới bởi những
điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi. Nâng cao năng lực cầm
quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng
củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của CNXH.
- Nhị Lê, Đổi mới và tiếp tục giải quyết những vấn đề đặt ra, không ngừng
hoàn thiện phương thức lãnh đạo trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay [87].
Tác giả nhận định, thực tiễn phát triển phong phú và phức tạp về quy mô, tốc độ và
chiều sâu sau 70 năm cầm quyền, nhất là gần 30 năm của công cuộc đổi mới cấp


15
bách đòi hỏi phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ. Một trong những nhiệm vụ
bảo đảm cho Đảng hoàn thành trọng trách đó là phải tiếp tục đổi mới, từng bước
hoàn thiện phương thức lãnh đạo phù hợp với sự vận động của thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện Đảng cầm quyền. Để thực hiện
thành công những quyết sách mới, nhiều nhiệm vụ rất nặng nề, Đảng phải Đổi mới
và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của Nhà

nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, và người đứng đầu; khắc phục khuynh
hướng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chính trị, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Trần Ngọc Đường, Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Quốc hội ở nước ta hiện nay [57]. Trong bài viết tác giả khẳng định: Tổ chức và
hoạt động của Quốc hội có những đặc trưng khác so với các cơ quan trong bộ máy
Nhà nước nên nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội có
những nét đặc thù riêng biệt. Không thể rập khuôn, máy móc sử dụng một phương
thức lãnh đạo giống nhau cho các cơ quan Nhà nước khác nhau. Đảng lãnh đạo, chứ
Đảng không chỉ đạo công việc cụ thể của Quốc hội. Đảng lãnh đạo nhưng phải thực
sự tôn trọng Quốc hội với tư cách là cơ quan dân cử, cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất. Phải thừa nhận về phương diện chính trị và pháp lý rằng, Quốc hội chính
là cơ quan được nhân dân chính thức giao quyền lực Nhà nước và nhân dân thực
hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội. Đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội phải bảo đảm cho nền tảng chính trị - pháp lý
của quốc gia phát triển bền vững, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
Quốc hội và nhân dân.
- Nguyễn Thế Trung, Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội [136]. Theo tác
giả: Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó “máu thịt” giữa Đảng - Dân. Ở thời kỳ nào,
công tác vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghĩa chiến
lược. Quần chúng được thu hút, tập hợp trong các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ


16
chức chính trị - xã hội vừa là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, vừa là chỗ dựa
của chính quyền. Vì thế, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và
các tổ chức chính trị - xã hội trong tình hình mới là một đòi hỏi cấp thiết.
- Trương Tấn Sang, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH [127]. Theo đồng chí Trương Tấn Sang

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH không chỉ là yêu cầu khách quan của tình hình thanh niên và yêu cầu
phát triển của đất nước, mà còn là yêu cầu chủ quan tự thân của Đảng với vai trò là
lực lượng lãnh đạo xã hội; góp phần quan trọng bảo đảm phát huy tốt nhất mọi
nguồn lực và trí tuệ cho việc bồi dưỡng, đào tạo, hình thành thế hệ thanh niên cách
mạng “vừa hồng, vừa chuyên” của Đảng, phục vụ tốt nhất sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
1.1.2.1. Sách
- Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước,
do hai tác giả người Trung Quốc Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diện (chủ biên) [72].
Đây là cuốn sách có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam trong công cuộc đổi mới,
CNH, HĐH đất nước hiện nay. Nội dung cuốn sách là một công trình phân tích một
cách có hệ thống tư tưởng Đặng Tiểu Bình về trí thức, nhân tài, về tôn trọng và phát
triển nhân tài, về giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
quá trình cải cách, mở cửa. Đặng Tiểu Bình là người đã kết hợp những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn Trung Quốc, sáng lập ra lý luận xây
dựng mô hình CNXH đặc sắc Trung Quốc.
- Chiến lược quốc gia nhân tài biến đổi thế giới của Vương Huy Diệu [20].
Tác giả đã trình bày chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Trung
Quốc, phân tích những vấn đề cơ bản về nhân tài, đánh giá tình hình nhân tài Trung
Quốc hiện nay; đề xuất những chủ trương, nội dung, chính sách, đặc biệt là giáo dục
và đào tạo (GD&ĐT) phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong
thời kỳ phát triển mới.


17
- Trí thức, lịch sử và cách mạng - Bút ký về cuộc sống của nước Nga hiện
nay của Vladimir Alexanderovits Mau,do Ngân Xuyên dịch [143]. Trong tác phẩm
này tác giả khẳng định: Giới trí thức đã đưa lại cho đất nước một khối lượng cơ bản

các nhà lý thuyết và thủ lĩnh của cách mạng, chính xác hơn, của các cuộc cách
mạng; Các cuộc tranh luận về trí thức là gì, về sự khác biệt giữa giới có học và giới
trí thức, rất là lý thú, nhưng cũng rất là bất tận. Chúng ta chỉ cần hiểu “trí thức” theo
nghĩa Nga của từ này là đủ: đó là người xuất thân quý tộc có học, tách khỏi giai
tầng hay giai cấp của mình, không có các gốc rễ xã hội, thế nhưng lại có khả năng
và thị hiếu suy luận dài dòng về ý nghĩa cuộc sống và vai trò của mình trong lịch sử
toàn thế giới; Có ba dấu hiệu của giới trí thức về mặt nguyên tắc phân biệt nó với
các nhóm xã hội khác: thái độ đối với sự giàu có, với lịch sử và với nhà nước.
- Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh tầng lớp trí thức của N. A. Berdaev [118].
Một trong những vấn đề tác giả đặt ra là những người trí thức, những người sáng
tạo văn hóa tinh thần hiện nay cần phải thực hiện các đơn đặt hàng của đời sống,
phải phụng sự các quyền lợi của xã hội.
- Chính trị và kinh tế Nhật Bản của Okuhina Yasuhiro [122] đã nêu rõ những
vấn đề cơ bản về nhân tài; chính sách trong công tác cán bộ, phát triển nhân tài;
phân tích những kinh nghiệm trong việc đánh giá và luân chuyển cán bộ, phát huy
người tài của Nhật Bản trên cơ sở đặc điểm xã hội Nhật Bản; nhấn mạnh việc cố
gắng bảo tồn và phát huy yếu tố truyền thống dân tộc; thực hiện chế độ đào tạo,
quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền, chú trọng xây dựng các
phẩm chất, đặc biệt là phẩm chất trung thành của cán bộ; bảo đảm chế độ chính
sách và tiền lương cho cán bộ yên tâm cống hiến.
- Tuyển 40 năm chính luận của Lý Quang Diệu [20] đã thể hiện rõ những tư
tưởng của Lý Quang Diệu về trọng dụng nhân tài đất nước, về tầm quan trọng của
nhân tài, vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển nguồn nhân lực, đào tạo
nhân tài; nhấn mạnh “chế độ Singapore thực hành là chế độ trọng dụng nhân tài”,
coi việc biết đào tạo và dùng người tài là bí quyết thành công của Singapore trong
phát triển nhân lực bậc cao, phát triển nhân tài của Singapore


18
1.1.2.2. Luận án

- Thực trạng và xu hướng biến đổi của nhóm xã hội trí thức trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Khoa
học Chính trị của In pon nhôt xa vông [73]. Luận án đã nghiên cứu thực trạng đội
ngũ trí thức nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, chỉ ra được những mặt mạnh.
Mặt tồn tại hạn chế và những đóng góp của nhóm trí thức trong quá trình phát triển
của đất nước Lào, đồng thời đưa ra những dự báo về xu hướng biến đổi và vai trò
của đội ngũ trí thức trong phát triển kinh tế xã hội.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị của Khăm Phăn
Vông Pha Chăn [76]. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị ở nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào, luận án xác định quan điểm, phương hướng và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống
chính trị đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào hiện nay.
1.1.2.3. Bài viết về xây dựng đội ngũ trí thức, đào tạo thu hút nhân tài
Ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển cao trên thế giới hiện nay như: Anh,
Pháp, Đức, Hoa Kì, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore... đều khẳng định
vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức, nguồn lực trí tuệ đối với sự phát triển KT XH và tiến bộ xã hội. Vì thế, khi xây dựng chiến lược phát triển khoa học - công
nghệ, giáo dục - đào tạo, các quốc gia này đều gắn với chiến lược xây dựng, phát
triển nguồn nhân lực tài năng. Nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục - đào tạo là
động lực, là chìa khóa cho sự phát triển KT - XH , các quốc gia nói trên đều rất
quan tâm việc đầu tư trọng điểm vào chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo gắn
với chiến lược trí thức, nhân tài. Sau đây là một số tài liệu nghiên cứu về xây dựng
đội ngũ trí thức, phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ (KH&CN) qua các
chuyến đi nghiên cứu thực tế ở nước ngoài.


19
- “Về tình hình đội ngũ trí thức Trung Quốc và hoạt động của CAST” của

Hiệp Hội Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc tại phiên làm việc với Đoàn Cán bộ
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, sáng ngày 01-11-2011 [12]. Báo
cáo đã khái quát công tác trí thức của Đảng Cộng sản Trung quốc và quá trình xây
dựng phát triển của CAST. Báo cáo cho biết Đảng và Chính phủ Trung Quốc
thường xuyên coi trọng công tác đội ngũ trí thức, tiến hành nghiên cứu phân tích rất
sâu sắc tình hình biến động qua từng thời kỳ đối với đội ngũ trí thức, phát hiện và
giải quyết những vấn đề như nạn chảy máu chất xám, trí thức quay lưng với chính
trị... Trong công tác trí thức, Trung Quốc chia làm hai loại đối tượng là trí thức
trong Đảng và trí thức ngoài Đảng. Về cơ cấu bộ máy của Đảng, có một Ban của
Đảng là Ban công tác Mặt trận thống nhất (gọi tắt Ban Thống chiến), tương đương
Ban Dân vận của ta làm công tác trí thức, trong đó chủ yếu là đối với trí thức ngoài
Đảng. Công tác trí thức luôn được khẳng định là công tác chung của toàn Đảng,
nhiều bộ, ban, ngành của Đảng và Nhà nước có chức trách trong công tác này. Báo
cáo cho biết Hiệp hội Khoa học và Kỹ thuật Trung Quốc có 198 Hội ngành toàn
quốc, mỗi tỉnh có một hiệp hội khoa học và kỹ thuật (quan hệ giữa Liên hiệp hội
(LHH) trung ương và LHH địa phương chỉ là quan hệ hướng dẫn, định hướng chứ
không phải quan hệ lãnh đạo, độc lập hoàn toàn về kinh phí). Cơ quan trung ương
CAST có 160 người, 14 ban/ phòng (Ban Hợp tác Quốc tế có 18 người, trong đó có
02 người tham gia đi sứ nước ngoài). Khi cao nhất có đến 10.000 người làm việc
trong tổ chức CAST. Hàng năm, kinh phí bình quân, chính phủ Trung Quốc cấp cho
CAST 150 triệu USD.
- “Về chính sách đào tạo và sử dụng trí thức ở Trung Quốc” của Dương Tú
Cầm [10]. Theo báo cáo đến ngày 28-4-2011, tổng số dân của nước này hiện vào
khoảng 1,3 tỉ người, trong đó nguồn nhân lực dành cho ngành khoa học công nghệ
chiếm khoảng 36 triệu người và trở thành đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ với
quy mô hùng hậu đứng đầu thế giới. Trung Quốc chi ra hàng tỷ USD cho nghiên
cứu khoa học, hầu như mỗi bộ ngành của nước này đều có hàng loạt chương trình
nghiên cứu với mong muốn có được thành tựu vượt bậc trong tất cả các lĩnh vực, từ
tên lửa đạn đạo đến y khoa.



20
1.2. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LUẬN ÁN CẦN THAM
KHẢO VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.2.1. Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và quốc tế về trí thức với
nhiều công trình nghiên cứu công phu, cho thấy tính chất đặc biệt quan trọng của vấn
đề này đối với tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Giá trị khoa học của khối lượng
lớn những tài liệu, công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về trí thức và vận động
trí thức đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả luận án nghiên cứu về vấn đề đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức ở nước ta hiện nay. Tổng quan
các công trình nghiên cứu đó, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu của các tác
giả trong nước và nước ngoài đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về trí
thức và công tác trí thức của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam, cụ thể là:
Một là, các công trình khoa học kể trên đã đề cập đến những vấn đề về lý
luận, vạch ra một hệ thống các phương pháp tiếp cận về về trí thức và công tác vận
động trí thức. Đáng chú ý là những quan điểm xem trí thức như một lực lượng xã
hội, một nhóm xã hội - nghề nghiệp được nhận diện và phân định bởi phương thức,
tính chất lao động trí óc, sáng tạo và phức tạp. Trong những năm gần đây, các công
trình nghiên cứu khi quan niệm về trí thức thường chú trọng nhấn mạnh tiêu chí
trách nhiệm và hiệu quả đóng góp cho sự phát triển xã hội từ từ đặc thù lao động trí
tuệ, lao động sáng tạo và tư duy phản biện xã hội của trí thức.
Hai là, các công trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu về vai trò, đặc điểm,
tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong xây dựng và phát triển đất nước nói chung
và trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước.
Ba là, một số công trình khoa học đã nghiên cứu thực trạng đội ngũ trí thức
và vấn đề xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, đặc biệt là các ngành khoa
học, các chuyên gia đầu ngành trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, một số công trình khoa học cũng đã tập trung nghiên cứu công tác vận

động trí thức của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong khi nghiên cứu
về trí thức và công tác vận động trí thức, các công trình khoa học nêu trên đều khẳng
định vai trò quan trọng của trí thức và công tác vận động trí thức; khẳng định việc xây
dựng đội ngũ trí thức là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và hệ thống chính trị.


21
Năm là, có một số công trình đề cập chừng mực nhất định về nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức và công tác vận động trí thức. Các
công trình này bước đầu đề cập đến nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của
Đảng, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ trí thức và đổi mới
công tác vận động trí thức. Đây chính là sự bổ sung vào cách tiếp cận mới về trí
thức, nó được thai nghén và dần trở thành hướng nghiên cứu trọng tâm trong quá
trình đổi mới tư duy về trí thức và công tác vận động trí thức, nhất là trong bối cảnh
phát triển kinh tế tri thức, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan
đến luận án đều có giá trị tham khảo về phương pháp tiếp cận, cung cấp tư liệu, giải
quyết vấn đề nghiên cứu. Những đề xuất các nhà khoa học về đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng trong xây dựng đội ngũ trí thức và đổi mới công tác vận động trí thức đều
có giá trị tham khảo trong quá trình triển khai thực hiện luận án.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án có mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu và cách thức tiếp cận khác nhau nên những công trình này nghiên cứu,
giải quyết ở góc độ, hay khía cạnh nhất định về lãnh đạo, tập hợp trí thức.. Những
nghiên cứu lý luận về trí thức và công tác vận động trí thức là khá phong phú nhưng
nghiên cứu về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
chưa được đề cập nhiều. Một số công trình đã giải quyết được một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về trí thức, đặc điểm của trí thức, thực trạng đội ngũ trí thức và công tác
vận động trí thức. Tuy nhiên, các công trình đã công bố đã lâu, nhiều cách tiếp cận
và tư duy chưa cập nhật, các số liệu tiêu chí đánh giá đã cũ, cần được bổ sung. Chưa

có công trình nào trực tiếp đi sâu luận giải sâu về vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua việc khai thác, kế thừa kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa
học trong và ngoài nước có liên quan, với phương pháp tiếp cận liên ngành triết học
- chính trị - xã hội - xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, luận án bổ sung nhận
thức, quan niệm có tính hệ thống về trí thức và công tác vận động trí thức, xây dựng
luận cứ khoa học đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức


×