Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sự đấu tranh, thống nhất và kết hợp giữa các mặt đối lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.52 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Đề Tài:

LÝ LUẬN VỀ SỰ KẾT HỢP CỦA CÁC
MẶT ĐỐI LẬP VÀ SỰ VẬN ĐỘNG TƯ
TƯỞNG NÀY TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH

GVHD: Ts. Trần Nguyên Ký
SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh
Lớp: 68 – Khóa 39

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 10 năm 2013



MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I - QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ VẤN ĐỀ MÂU THUẪN............................1


LỜI NÓI ĐẦU

Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối
lập tạo thành những mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là
nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời thay
thế. Điều đó đã được Lê-nin khẳng định rằng:”Sự phát triển là một cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập”.


Mâu thuẫn là cái tất yếu trong đời sống,nó có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên,
xã hội và tư duy con người. Nhất là các hoạt động kinh tế, lĩnh vực mang tính phổ
biến, như cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch của từng xi nghiệp. Mâu
thuẫn tồn tại song hành cùng sự vật hiện sự việc từ lúc sự vật sự việc bắt đầu cho tới
khi sự vật sự việc đó kết thúc
Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập là ‘‘hạt nhân’’ của phép
biện chứng duy vật vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển
của thế giới quan và vì nó là chìa khóa, là cơ sở giúp chúng ta nắm vững thực chất
của tất cả các quy luật và phạm trù phép biện chứng duy vật.
Vì vậy việc kết hợp các mặt đối lập một cách biện chứng theo tinh thần của
V.I.Lênin mang một vấn đề quan trọng. Và đó cũng chính là đề tài của bài tiểu luận:
Sự kết hợp các mặt đối lập và vận dụng tư tưởng này trong hoạt động các kinh
doanh.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Nguyên Ký và cuốn sách “ SỰ
KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY” do thầy làm tác giả đã giúp ích em rất nhiều trong quá
trình làm tiểu luận.

Người thực hiện
Nguyễn Thị Phương Linh
Lớp 68 -Khóa 39
Hồ Chí Minh 10/2013



CHƯƠNG I - QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ VẤN
ĐỀ MÂU THUẪN

1. Sự Ra Đời Quy Luật Về Sự Thống Nhất Và Đấu Tranh Giữa Các Mặt Đối
Lập.

Trong lý luận biện chứng mácxít, vấn đề mâu thuẫn nói chung, vấn đề kết hợp
biện chứng các mặt đối lập nói riêng luôn được chú ý xem xét giải quyết. C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin một mặt khẳng định vai trò cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập, mặt khác cũng khẳng định vai trò của sự thống nhất giữa chúng. Từ cơ sở đó các
ông đã đi đến tư tưởng biện chứng về sự kết hợp các mặt đối lập trong thực tiễn.nói
một cách khác, trong tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn, các ông luôn chú trọng giải
quyết những vấn đề liên quan đến mâu thuẫn, đó là các vấn đề thống nhất, vấn đề đấu
tranh và vấn đề kết hợp các mặt đối lập. trong đó vấn đề kết hợp các mặt đối lập được
các ông xem xét với tính cách là một biểu hiện hoạt động của chủ thể con người trong
việc giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể nhất định, trên cơ sở đấu tranh và
thống nhất các mặt đối lập.
2.

Quy Luật Về Sự Thống Nhất Và Đấu Tranh Giữa Các Mặt Đối Lập.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc ,
động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật
này,nguồn gốc, và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển
là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật hiện tượng.
2.1. Một số khái niệm.
 Mâu thuẫn :
Theo quan niệm biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống
nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hay
giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Trái với quan niệm biện chứng, theo quan niệm siêu hình mâu thuẫn là
những cái đối lập, loại trừ nhau, tức không có sự thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau.
Ví dụ: Giữa sản xuất và tiêu dùng là 2 mặt đối lập nhau, nhưng giữa chúng có sự
thống nhất, đấu tranh giữa nhau. Nhà sản xuất cần những người tiêu dùng để tiêu thụ
những sản phẩm mình tạo ra còn đối với người tiêu dùng họ luôn cần những nhà sản
xuất để tạo ra được những sản phẩm phục vụ trong đời sống, sinh hoạt.
Phương pháp giải quyết mâu thuẫn bằng cách khai thác sự thống nhất của các

mặt đối lập. Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập tồn tại phổ biến trong mỗi sinh vật. Chỉ

SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh

Page 1


khi nào các mâu thuẫn này được giải quyết thì sinh vật mới phát triển. Bản chất của
phương pháp này là : chủ thể hoạt động tích cực tìm ra điểm chung về mặt lợi ích của
2 bên, từ đó chủ động thực hiện kết hợp 2 mặt đối lập đó nhằm đem lại lợi ích cao
nhất cho mình. Nhưng phương pháp chỉ được thực hiện khi điều kiện cho phép.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.
 Mặt đối lập:
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là những mặt có
những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi
trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy .
Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong thế giới. Theo
triết học duy vật biện chứng của Engels thì tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới
đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau.
Ví dụ:
Trong xã hội, khi coi con người là 1 sự vật thì giữa biến dị và di truyền, giữa hấp
thụ và bài tiết là những mặt đối lập. Còn trong tư duy, giữa biết và chưa biết, giữa
chân lý và sai lầm, giữa biết nông cạn và biết sâu sắc là những mặt đối lập.
Trong sinh vật, hai mặt đối lập là đồng hóa và dị hóa thống nhất với nhau, nếu
chỉ là một quá trình thì sinh vật sẽ chết.
2.2. Tính chất của mâu thuẫn.
2.2.1. Tính khách quan phổ biến của mâu thuẫn.
Mọi sự vật hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực hiện thực trong thế giới đều chứa đựng
trong mình sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa các mặt đối lập.
Theo Ph.Ăngghen: “ Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã

chứa nhiều mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và
đặc biệt là sự sống hữu cơ đó lại lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn…sự sống trước
hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại vừa là một cái khác.
Như vậy sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá
trình, một mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết. Ví như trong lĩnh vực tư
duy, ta cũng có sự mâu thuẫn. như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên
trong con người và sự tồn tại thực tế của năng lực ấy bị hạn chế bởi những hoàn cảnh
bên ngoài. Mâu thuẫn này được giải quyết nối tiếp các thế hệ, đây là sự giải quyết đi
lên trong vô tận.”
2.2.2.

Tính đa dạng, phong phú của mâu thuẫn.

Biểu hiện ở chỗ mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại
mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác

SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh

Page 2


nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của
sự vật.
Trong các lĩnh vực khác nhau tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác
nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn
2.3. Quá trình vận động của mâu thuẫn.
Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú và đa dạng tùy
thuộc tính chất từng mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ
thể. Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển
hóa giữa chúng.

2.4. Sự đấu tranh, thống nhất và kết hợp giữa các mặt đối lập.
Khái niệm Đấu tranh giữa các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động
qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Về vấn đề đấu tranh, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, sở dĩ các mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau bắt nguồn từ bản
chất của các mặt đối lập. Chính sự đối lập, trái ngược căn bản giữa những mặt, yếu tố,
khuynh hướng vận động trong một sự vật, hiện tượng tạo nên sự đấu tranh giữa chúng.
Cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập sẽ dẫn tới sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân
sự vật, hiện tượng. Trong quá trình đấu tranh, chuyển hóa giữa chúng, mặt đối lập này
sẽ thắng mặt đối lập kia, từ đó thúc đẩy sự phát triển của sự vật.
Tiếp thu tư tưởng biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen, VI.Lênin cũng đã nhấn
mạnh đến vấn đề đấu tranh của các mặt đối lập. Theo VI.Lênin thì sự phát triển chẳng
qua “là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Chính các cuộc đấu tranh giữa
các mặt đối lập đã dẫn tới việc giải quyết mâu thuẫn và qua đó làm sự vật phát triển.
Trong lý luận biện chứng mácxít, vấn đề thống nhất giữa các mặt đối lập trong
mâu thuẫn cũng được chú ý xem xét. Trong mỗi mâu thuẫn các mặt đối lập vừa thống
nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập thể hiện tính
ràng buộc, quy định lẫn nhau, làm điều kiện cho sự tồn tại của nhau. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã di tới sự phân tích, nhận thuwacs giữa các mặt đối lập trong mối quan
hệ hữu cơ, thống nhất chặt chẽ giữa chúng.
Đối với V.I.Lênin thì vấn đề thống nhất được xem xét cụ thể hơn cả. Thậm chí
V.I.Lênin đã khẳng định rõ ràng: Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học
thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự thống nhất của các mặt đối lập biện
chứng là 1 thực tế khách quan không phải do suy nghĩ chủ quan của con người. Chúng
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự đấu tranh, sự bài trừ lẫn nhau của các
mặt đối lập này và qua đó có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của sự vật.

SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh

Page 3



Thống nhất là điều kiện đấu tranh, muốn đấu tranh thì phải thống nhất, đồng thới
thống nhất để dẫn tới đấu tranh. Đấu tranh là nội dung bên trong của thống nhất, còn
thống nhất là hình thức chuyển tải đấu tranh. Trên cơ sở gắn bó giữa thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập thì mâu thuẫn đó mới có điều kiện giải quyết, từ đó làm
cho sự vật phát triển.Chính sự nhận thức về mối quan hệ giữa đấu tranh và thống nhất
giữa các mặt đối lập giúp người ta tránh rơi vào trạng thái cực đoan trong đời sống
thực tiễn.Xã hội muốn phát triển thì phải có sự thống nhất.
Vấn đề kết hợp của các mặt dối lập cũng được đặt ra và giải quyết. Đây là biểu
hiện hoạt động tích cực, chủ động của chủ thể trên cơ sở nhận thức mâu thuẫn khách
quan. Chính xuất phát từ việc nhận thức sự thống nhất khách quan, từ những điểm
chung vốn có của các mặt đối lập, từ những nhu cầu thực tiễn, con người có thể tiến
hành kết hợp các yếu tố, hơn nữa là cả các măt đối lập nhằm giải quyết nhưng mâu
thuẫn xã hội.
Có 3 góc độ tiếp cận:
Thứ nhất: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ bản thể luận, tức
sự thống nhất khách quan vốn có của chúng.ở đây đó không phải là sự thống nhất
tuyệt đối , mà là sự thống nhất tương đối, thống nhất trong sự khác biệt, kể cả sự đối
lập.
Thứ hai: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ nhận thức luận.
Điều này còn phụ thuộc vào chính bản thân mâu thuẫn bởi vì mâu thuẫn không tự bộc
lộ ra mà nó tồn tại ẩn giấu bên trong cái “ vỏ bọc” của sự thống nhất. Cố nhiên sự
phân đôi ở đây không phải là hoạt động chủ quan, tùy tiện mà phải dựa trên cơ sở tôn
trọng tính khách quan của mâu thuẫn biện chứng.
Thứ ba: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ thực tiễn.Trên cơ
sở nhận thức sự thống nhất (bao hàm cả sự đấu tranh) chủ thể có thể thực hiện việc kết
hợp các mặt đối lập để từ đó tạo điền kiện giải quyết tốt các mâu thuẫn. Việc kết hợp
các mặt đối lập cũng xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của chủ thể.
Việc kết hợp các mặt đối lập trong kinh tế xã hội không phải là hành động được
tiến hành với bất kì yếu tố, mặt đối lập nào, trong bất kì điều kiện nào. Càng không

nên hiểu đây là việc làm mang tính chủ quan thuần túy, tùy tiện, vô nguyên tắc của
chủ thể hành động. việc kết hợp này phải dựa cơ sở khách quan cụ thể, đó là những
đòi hỏi tất yếu của việc kết hợp và cả ở những điều kiện khách quan cho phép để tiến
hành việc kết hợp này. Đồng thời việc kết hợp các mặt đối lập trong đời sống cũng
cần phải được định hướng rõ ràng.
Theo tinh thần biện chứng mác xít, khi đề cập đến việc giải quyết mâu thuẫn nói
chung đương nhiên phải nhận thức được rằng đó là quy trình tự giải quyết. Ở đây
thuật ngữ tự giải quyết có nghĩa là quá trình giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể

SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh

Page 4


nào đó đã diễn ra một cách khách quan đối với con người, đối với một lực lượng xã
hội nhất định. Phương pháp giải quyết mâu thuẫn bằng cách khai thác sự thống nhất
của các mặt đối lập. Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập tồn tại phổ biến trong mỗi sinh
vật. Chỉ khi nào các mâu thuẫn này được giải quyết thì sinh vật mới phát triển. Bản
chất của phương pháp này là : chủ thể hoạt động tích cực tìm ra điểm chung về mặt lợi
ích của 2 bên, từ đó chủ động thực hiện kết hợp 2 mặt đối lập đó nhằm đem lại lợi ích
cao nhất cho mình. Nhưng phương pháp chỉ được thực hiện khi điều kiện cho phép.
Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn xã hội, thực chất lại là biểu hiện hoạt động của
chủ thể con người. Chính trong quá trình hoạt động như vậy, trong điều kiện cho
phép, chủ thể có thể sử dụng phương pháp kết hợp các mặt đối lập, coi đó như hình
thức cụ thể để các mặt đối lập thực hiện sự đấu tranh của chúng dẫn tới việc giải
quyết mâu thuẫn cụ thể.
Cũng chính vì thế, việc tiến hành kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu
thuẫn xã hội, rõ ràng không thể là một giải pháp duy nhất và cũng không là giải pháp
có thể áp dụng với mọi trường hợp. Chẳng hạn, đối với loại mâu thuẫn đối kháng,
phương pháp giải quyết nhìn chung là sử dụng bạo lực, thực hiện loại trừ một mặt đối

lập nào đó.Tuy vậy, trong điều kiện nào đó, khi giữa hai mặt đối lập nhau,mặc dù về
bản chất vẫn có sự đối kháng về lợi ích, song lại có một số điểm chung về lợi ích; thì
khi đó có thể thực hiện hình thức “kết hợp các mặt đối lập”. Điều đó cho phép việc
giải quyết mâu thuẫn giữa chúng được thực hiện tốt hơn, đem lại lợi ích cho chủ thể
nhiều hơn. Dĩ nhiên, cần phải có khả năng cần thiết ( trí tuệ và bản lĩnh chính trị) thì
chủ thể mới có thể thực hiện việc kết hợp này. Ở đây về cơ bản mâu thuẫn vẫn là mâu
thuẫn đối kháng; nhưng ở khía cạnh nào đó, vẫn có thể cho phép kết hợp các mặt đối
lập.
Tóm lại, việc kết hợp các mặt đối lập trong quá trình giải quyết một mâu thuẫn
xã hội cụ thể chỉ có thể tiến hành được khj có đầy đủ những điều kiện khách quan và
chủ quan cho phép. Tuyệt đối đây không phải là giải pháp có tính phổ biến, có thể
thực hiện trong mọi trường hợp với mọi điều kiện.
Thứ nhất, về mặt khách quan: việc kết hợp các mặt đối lập chỉ có thể tiến hành
trong các trường hợp cụ thể:
Giữa các nhân tố, lực lượng xã hội tồn tại với tư cách là những mặt đối lập của
nhau phải có những điểm chung, tương đồng có thể đi tới sự điều hòa , thỏa hiệp
trong giới hạn nhất định.Trường hợp các mặt đối lập hoàn toàn không có điểm chung,
tương đồng, mâu thuẫn hay hoàn toàn đối kháng thì việc kết hợp không thể thực hiện
một cách đúng dắn và mang lại hiệu quả mong muốn.

SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh

Page 5


Việc kết hợp chỉ có thể thực hiện trong điều kiện hoàn cảnh thuận lợi. Hay là
điều kiện hoàn cảnh khách quan buộc chủ thể phải sử dụng phương thức kết hợp này.
Thứ hai, về mặt chủ quan: đòi hỏi ở chủ thể thực hiện cần có năng lực, bản lĩnh
chính trị để đáp ứng được nhu cầu của sự kết hợp này. Trong chừng mực nào đó vai
trò của chủ thể trong việc kết hợp các mặt đối lập là vai trò có ý nghĩa quyết định.

Xét về hình thức có thể chia hoạt động kết hợp các mặt đối lập thành ba loại:
Thứ nhất,là sự kết hợp khoa học, biện chứng, đúng đắn : kết hợp có nguyên tắc,
đảm bảo nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Thứ hai là : sự kết hợp mang tính triết trung: tùy tiện, vô nguyên tắc
Thứ ba là: sự kết hợp mang tính cải lương: không đảm bảo nguyên tắc đấu tranh
giữa chúng với nhau
Ta có thể rút ra kết luận sau: “ Kết hợp các mặt đối lập là một hoạt động tự giác, tích
cực của chủ thể thực tiễn trong quá trình giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể
thực tiễn trong quá trình giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể trong những điều
kiện khách quan và chủ quan cụ thể nhằm đem lại lợi ích nhất định cho chủ thể. Đó
chính là hoạt động kết hợp những nhân tố, lực lượng xã hội tồn tại với tư cách là
những mặt đối lập của nhau, dựa trên cơ sở nhận thức về tính thống nhất vốn có giữa
những nhân tố, lực lượng xã hội này, đồng thời tôn trọng sự đấu tranh khách quan của
chúng.”
3.

Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật.

- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự
vận động, phát triển.Do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu
thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất,
nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của
sự vận động, phát triển.Do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu
thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất,
nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
=> Quy luật này chỉ rõ nguồn gốc, động lực vận động, phát triển của mọi sự vật,
hiện tượng.

SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh


Page 6


SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh

Page 7


CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG VÀO HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP
HIỆN NAY.
Theo triết học Mac-lênin trong quá trình giải quyết một mâu thuẫn cụ thể, tùy
vào nội dung, tính chất của mối quan hệ giữa các mặt đối lập, cũng như tùy thuộc vào
hoàn cảnh khách quan, năng lực của chủ thể hoạt động… có thể tiến hành việc kết hợp
các mặt đối lập nhằm để giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể hơn một cách tốt
nhất, đem lại lợi ích cao nhất cho chủ thể.
Trong đổi mới kinh tế, gắn liền với việc xây dựng một nền
kinh tế đa dạng hóa về sở hữu, đa thành phần kinh tế, là vấn đề xây dựng cơ
chế thị trường. Với tư cách là cơ chế kinh tế khách quan tồn tại tất yếu trong
nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường thể hiện những giá trị tích cực
của nó. Do đó sự kết hợp cơ chế thị trường và kế hoạch của doanh nghiệp
nghĩa là xóa bỏ kế hoạch hóa cao độ, tiến hành cơ chế quản lý kinh doanh, thực
hiện tự chủ, độc lập của doanh nghiệp.
Ở thời kì kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp nhất là doanh
nghiệp nhà nước cần nắm bắt rõ mối liên hệ giữa kế hoạch và cơ chế thị
trường. Từ đó ứng dụng tư tưởng kết hợp mặt đối lập vào thực tế để nâng cao
khả năng cạnh tranh và quản lý doanh nghiệp. ví như khi nhu cầu thị trường
thay đổi nhanh chóng khiến cho kế hoạch ban đầu đã trở nên sai lầm. Đây là
lúc xảy ra sự đấu tranh giữa hai mặt đối lặp. Cần có sự kết hợp hoàn hảo giữa
hai mặt đối lập.Chủ thể quyết định ở đây cần có bản lĩnh trính trị và khả năng

điều chỉnh hợp lý để qua sự kết hợp này phát triển doanh nghiệp một cách hợp
lý.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. “ Sự Kết Hợp Các Mặt Đối Lập Trong Thời Kì Quá Độ Lên Xã Hội Chủ Nghĩa
Ở Việt Nam Hiện Nay” tác giả T.S Trần Nguyên Ký
2. “Tài liệu ôn hướng dẫn ôn tập môn Những Nguyên Lý Cơ Bản Của Chủ Nghĩa
Mác – Lênin “ Học phần 1 – Khoa Lý Luận Chính Trị Trường Đại Học Kinh Tế
TPHCM

SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh

Page 8


3. ”Giáo Trình Những Nguyên Lý Cơ Bản Của Chủ Nghĩa Mác- Lênin” Bộ Giáo
Dục Và Đào Tạo

SVTH: Nguyễn Thị Phương Linh

Page 9



×