1
Văn hóa tộc người Nùng
Người Nùng trong công cuộc đổi mới Đất nước
3.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và thực tiễn
lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cũng như
dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta ngay từ
khi thành lập cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, đồng bào các dân tộc đều là anh em
ruột thịt, là con cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng
liêng của các dân tộc. Người còn khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công". Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và
Nhà nước coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến
lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng riêng của từng dân tộc
trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã nêu rõ: "Vấn
đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách
mạng"
1
. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp
nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất
hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đi đôi với "giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực
hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 121-122.
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
1
2
Văn hóa tộc người Nùng
biên giới, vùng căn cứ cách mạng"
2
, kiên quyết "Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc;
chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng
tự ti, mặc cảm dân tộc"
2
.
Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta được biểu hiện cụ
thể như sau:
Có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp
với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân
tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng để khắc
phục sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá, bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa các dân
tộc. Đi đôi với phát huy tiềm lực kinh tế của các vùng dân tộc cần chú trọng bảo vệ
môi trường thiên nhiên, ổn định đời sống của đồng bào, phát huy mối quan hệ tốt
đẹp, gắn bó giữa đồng bào tại chỗ và đồng bào từ nơi khác đến, chống tư tưởng dân
tộc hẹp hòi.
Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của
đồng bào các dân tộc; từng bước nâng cao dân trí đồng bào các dân tộc, nhất là các
dân tộc thiểu số ở vùng núi cao, hải đảo. Đây là vấn đề quan trọng và rất tế nhị, cần
lắng nghe ý kiến của đồng bào và có chính sách thật cụ thể nhằm làm cho nền văn
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 121-122.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 128
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
2
3
Văn hóa tộc người Nùng
hoá chung vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc, ngày càng phong phú và rực
rỡ.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân
tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp
hòi, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời giáo
dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. Bởi vì, chỉ tinh thần đó mới
phù hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc phát triển dân tộc và xây dựng đất
nước. Trong công cuộc đó, không dân tộc nào có thể chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ
xuất thân từ dân tộc mình, ngược lại, cần sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các đội ngũ cán
bộ thuộc mọi dân tộc trong cả nước.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính toàn diện, tổng
hợp, quán xuyến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc
và quan hệ giữa các dân tộc trong cả cộng đồng quốc gia. Phát triển kinh tế - xã hội
của các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng
dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các dân tộc. Do đó, chính sách dân tộc còn mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng
thời còn mang tính nhân đạo, bởi vì, nó không bỏ sót bất cứ dân tộc nào, không cho
phép bất cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ dân tộc; nó tôn trọng quyền làm
chủcủa mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác, nó còn nhằm
phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân
tộc anh em trong cả nước. Nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung, tính chất của
chính sách dân tộc có ý nghĩa quyết định tới việc định hướng và đổi mới các biện
pháp thực hiện chính sách dân tộc, làm cho chính sách dân tộc đi vào cuộc sống.
3.2. Những vấn đề đặt ra cho việc bảo tồn và phát huy các hình thức văn
hóa, tín ngưỡng trong đời sống của người Nùng hiện nay
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
3
4
Văn hóa tộc người Nùng
Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết dân tộc,
hoà hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống, thành
sức mạnh và đã được thử thách trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ
Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay. Do
những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu công xã nông
thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải qua lịch sử liên tục chống ngoại xâm, dân tộc ta
đã hình thành rất sớm và trở thành một quốc gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế
độ phong kiến. Đoàn kết là xu hướng khách quan cố kết các dân tộc trên cơ sở có
chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, chung một tương lai, tiền đồ.
Người Nùng cũng là một bộ phận trong cộng đồng dân tộc thống nhất Việt
Nam. Cùng với quá trình hình thành và phát triển dân tộc Nùng nói riêng cũng như
các dân tộc anh em khác, mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn
ngữ khác nhau, song do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc
thường biết tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau,
giao lưu văn hoá với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá
riêng của dân tộc mình. Đó cũng là cơ sở và căn cứ để các dân tộc có thể bảo tồn và
phát huy vốn tinh hoa văn hóa của dân tộc mình. Trải qua quá trình phát triển lâu
cùng các dân tộc anh em khác trên lãnh thổ Việt Nam, người Nùng trong thời buổi
ngày nay đang cùng với 53 dân tộc khác cùng nhau xây dựng đất nước, cùng chung
sống hòa bình giúp đỡ lẫn nhau, cùng đó là hạn chế dần một số quan niệm cổ hũ,
lạc hậu mang tính mê tính dị đoan và tránh bị kẻ gian lợi dụng làm dao động lòng
người.
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vấn đề bảo tồn và phát
huy các lễ hội truyền thống của dân tộc Nùng là một trong những vấn đề cần phải
được quan tâm chú ý để có thể bảo tồn bản sắc dân tộc vốn có. Để có thể bảo tồn
một cách phù hợp các lễ hội của người Nùng, chúng ta cần phải lưu ý tới:
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
4
5
Văn hóa tộc người Nùng
Về trang phục trong lễ hội: mọi người, đặc biệt nữ giới phải ăn mặc trang phục
dân tộc. Muốn vậy cần khôi phục nghề dệt truyền thống, dệt thổ cẩm. Cần cung cấp
đầy đủ các loại chỉ màu, các loại thuốc nhuộm cho đồ màu. Nguyên vật liệu để chế
tạo trang sức cổ truyền cũng cần phải cung ứng kịp thời. Hiện nay, nam giới phần
lớn chuyển sang mặc âu phục theo người Kinh. Trong lễ hội nam giới cần mặc
trang phục cổ truyền của dân tộc mình. Các vị bô lão cũng cần phải mặc trang phục
truyền thống.
Văn hóa ẩm thực Việt Bắc, vùng dân tộc Nùng có nhiều món ăn đặc sắc, cần
bảo tồn các loại ẩm thực đặc sắc này trong các lễ hội như: Bánh chưng, bánh giò,
bánh ngũ vị, chè lam…Một số món ăn kể trên có loại gần như bị mai một, ví dụ:
phở chua. Chất lượng một số món ăn không ngon bằng trước đây.
Trong lễ hội, cần chú ý giữ gìn cái gì độc đáo của riêng mình, làm cho lễ hội của
bản mình, dân tộc mình khác với dân tộc, bản khác. Như vậy, mới góp phần làm
giàu cho văn hóa Việt Nam, đặc biệt là lễ hội diễn ra trên đám nà lồng tồng. Trong
các trò chơi, tiêu biểu nhất của lễ hội là ném còn. Hiện nay ở nước ta, miền xuôi
cũng như miền núi người ta tổ chức rất nhiều lễ hội. Có tình trạng là học tập nhau,
mang trò chơi của lễ hội bạn, hay các nơi khác, về làm giàu cho các trò chơi lễ hội
mình. Điều này tác hại ở chỗ cào bằng các lễ hội, các lễ hội ở đâu cũng giống nhau,
mất tính đặc thù không còn hấp dẫn nữa.
Để lễ hội được lành mạnh, cần có sự quản lí chặt chẽ của nhà nước, các làng
bản. Nên có quy ước, hương ước trong khuôn khổ pháp luật. Cần đề phòng các hiện
tượng mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, bói toán, lên đồng phát sinh và lây lan.
Cũng cần tránh xu hướng thương mại hóa lễ hội, làm mất ý nghĩa tốt đẹp của lễ hội.
Trong khi duy trì các lễ hội truyền thống, cần suy nghĩ để xây dựng các lễ hội
mới.
Hd: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thực hiện: Lê Quảng Tuấn Mssv: 0764174
5