Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

luận văn thạc sĩ kinh tế thực trạng năng lực cạnh tranh công ty vietel campuchia bài học kinh nghiệm công ty viễn thông đầu tư ra nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
------------------------Một bài học lớn của Viettel khi đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông nói chung và đầu tư tại thị trường Campuchia nói riêng là bài học về việc lựa chọn đối
tác cung cấp thiết bị. Nhờ có kiến
thức, kinh nghiệm sâu sắc về đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông, cũng như hiểu rằng sự thay đổi về công nghệ trên thị trường viễn thông là vô cùng nhanh
chóng, Viettel luôn tự tin khi lựa chọn các đối tác cung cấp thiết bị từ Trung Quốc bởi lẽ Viettel hiểu rõ điểm mạnh yếu của các thiết bị Trung Quốc so với
thiết bị các hãng lớn khác trên thế giới và từ đó tận dụng được lợi thếvề giá thiết bị khi lựa chọn các nhà cung cấp Trung Quốc. Biết được rằng hai nhà sản xuất
Huawei và ZTE của Trung Quốc đang cạnh tranh, tranh giành thị phần khốc liệt trên thị trường Đông Dương, Viettel đã khôn khéo tận dụng điều này khi thương
thảo, đàm phán chọn đối tác cung cấp thiết bị, thực hiện phương pháp đàm phán song song với cả hai nhà cung cấp để từ đó lấy giá nhà cung cấp này để ép
được nhà cung cấp kia. Kết quả là Viettel Campuchia đã chọn mua được các thiết bị với giá rẻ nhất, với các điều kiện thương mại tốt nhất, đạt được cả mong
muốn về giảm chi phí đầu tư thiết bị, tốc độ cung ứng hàng nhanh để sớm đua thiết bị vào triển khai và có được cả các chính sách tín dụng, cho phép mua
chịu thiết bị tốt nhất từ phía các nhà cung cấp. Tìm hiểu kỹ
lưỡng để biết rõ về năng lực cũng như tính cách của từng nhà cung cấp, nắm được tình hình, tương quan cạnh tranh giữa các nhà cung cấp, thực hiện sách
lược đàm phán đồng thời với nhiều nhà cung cấp cho cùng một thương vụ, sử dụng nhà cung cấp này để ép giá nhà cung cấp kia chính là bí quyết để Viettel luôn
thành công trong các thương vụ đàm phán lựa chọn nhà cung cấp đầu vào, mang lại lợi ích lớn nhất cho hoạt động đầu tư kinh doanh của mình.

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CÔNG TY VIETTEL CAMPUCHIA
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CÔNG TY VIỄN
THÔNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
MÃ SỐ:

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ BỘ LĨNH
Một bài học lớn của Viettel khi đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông nói chung và đầu tư tại thị trường Campuchia nói riêng là bài học về việc lựa chọn đối tác
cung cấp thiết bị. Nhờ có kiến
thức, kinh nghiệm sâu sắc về đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông, cũng như hiểu rằng sự thay đổi về công nghệ trên thị trường viễn thông là vô cùng nhanh
chóng, Viettel luôn tự tin khi lựa chọn
các đối tác cung cấp thiết bị từ Trung Quốc bởi lẽ Viettel hiểu rõ điểm mạnh yếu của các thiết bị Trung Quốc so với thiết bị các hãng lớn khác trên thế giới và từ


đó tận dụng được lợi thế về giá
thiết bị khi lựa chọn các nhà cung cấp Trung Quốc. Biết được rằng hai nhà sản xuất Huawei và ZTE của Trung Quốc đang cạnh tranh, tranh giành thị phần khốc liệt trên thị
trường Đông Dương, Viettel đã khôn khéo tận dụng điều này khi thương thảo, đàm phán chọn đối tác cung cấp thiết bị, thực hiện phương pháp đàm phán song song với
cả hai nhà cung cấp để từ đó lấy giá nhà cung cấp này
để ép được nhà cung cấp kia. Kết quả là Viettel Campuchia đã chọn mua được các thiết bị với giá rẻ nhất, với các điều kiện thương mại tốt nhất, đạt được cả mong
muốn về giảm chi phí đầu tư
thiết bị, tốc độ cung ứng hàng nhanh để sớm đua thiết bị vào triển khai và có được cả các chính sách tín dụng, cho phép mua chịu thiết bị tốt nhất từ phía các nhà
cung cấp. Tìm hiểu kỹ lưỡng để
biết rõ về năng lực cũng như tính cách của từng nhà cung cấp, nắm được tình hình, tương quan cạnh tranh giữa các nhà cung cấp, thực hiện sách lược đàm phán
đồng thời với nhiều nhà cung
cấp cho cùng một thương vụ, sử dụng nhà cung cấp này để ép giá nhà cung cấp kia chính là bí quyết để Viettel luôn thành công trong các thương vụ đàm phán lựa chọn
nhà cung cấp đầu vào, mang lại
lợi ích lớn nhất cho hoạt động đầu tư kinh doanh của mình.

Hà Nội - 2014


Một bài học lớn của Viettel khi đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông nói chung và đầu tư tại thị trường Campuchia nói riêng là bài học về việc lựa chọn đối tác cung cấp thiết bị. Nhờ có kiến thức, kinh nghiệm sâu sắc về
đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông, cũng như hiểu rằng sự thay đổi về công nghệ trên thị trường viễn thông là vô cùng nhanh chóng, Viettel luôn tự tin khi lựa chọn các đối tác cung cấp thiết bị từ Trung Quốc bởi lẽ
Viettel hiểu rõ điểm mạnh yếu của các thiết bị Trung Quốc so với thiết bị các hãng lớn khác trên thế giới và từ đó tận dụng được lợi thế về giá thiết bị khi lựa chọn các nhà cung cấp Trung Quốc. Biết được rằng hai nhà sản
xuất Huawei và ZTE của Trung Quốc đang cạnh tranh, tranh giành thị phần khốc liệt trên thị trường Đông Dương, Viettel đã khôn khéo tận dụng điều này khi thương thảo, đàm phán chọn đối tác cung cấp thiết bị, thực hiện
phương pháp đàm phán song song với cả hai nhà cung cấp để từ đó lấy giá nhà cung cấp này để ép được nhà cung cấp kia. Kết quả là Viettel Campuchia đã chọn mua được các thiết bị với giá rẻ nhất, với các điều kiện
thương mại tốt nhất, đạt được cả mong muốn về giảm chi phí đầu tư thiết bị, tốc độ cung ứng hàng nhanh để sớm đua thiết bị vào triển khai và có được cả các chính sách tín dụng, cho phép mua chịu thiết bị tốt nhất từ
phía các nhà cung cấp. Tìm hiểu kỹ lưỡng để biết rõ về năng lực cũng như tính cách của từng nhà cung cấp, nắm được tình hình, tương quan cạnh tranh giữa các nhà cung cấp, thực hiện sách lược đàm phán đồng thời
với nhiều nhà cung cấp cho cùng một thương vụ, sử dụng nhà cung cấp này để ép giá nhà cung cấp kia chính là bí quyết để Viettel luôn thành công trong các thương vụ đàm phán lựa chọn nhà cung cấp đầu vào, mang lại lợi ích lớn
nhất cho hoạt động đầu tư kinh doanh của mình.

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Những bước tiến vượt bậc về viễn thông và công nghệ thông tin song hành với

sự tăng trưởng mạnh mẽ của các nền kinh tế đang phát triển đã kéo theo sự bùng nổ
của thị trường dịch vụ viễn thông vào thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ mới. Nhu
cầu ngày càng tăng về dịch vụ viễn thông phục vụ đời sống và hoạt động sản xuất
kinh doanh tại nhiều nước đang phát triển tạo nên các cơ hội kinh doanh đầy hứa
hẹn đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông.
Hiện nay, đã có một số doanh nghiệp tại Việt Nam thực hiện đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhưng số lượng doanh nghiệp thành công trên thị trường quốc tế còn ít
ỏi. Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến nhiều doanh nghiệp có tiềm năng
lớn tại Việt Nam chưa thể mở rộng kinh doanh ra thị trường ngoài nước là năng lực
cạnh tranh chưa đủ mạnh để khẳng định vị trí trên thị trường.
Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel đã và đang gặt hái được những thành
công vang dội tại Việt Nam và hiện nay đang hướng ra chinh phục thị truờng viễn
thông nước ngoài. Mục tiêu trước mắt của Viettel là chiếm lĩnh thị trường viễn
thông tại các nước đang phát triển, không chỉ dừng lại ở thị trường các nước láng
giềng của Việt Nam như Campuchia, Lào… mà còn vươn tới các thị trường xa hơn
như Myanmar, Bắc Triều Tiên, Mông Cổ, Cu Ba, Haiti…
Công ty Viễn thông Viettel Campuchia – Thành viên của Tổng Công ty Viễn
thông Quân đội Viettel - được thành lập tháng 5 năm 2006 – hiện đang cung cấp
dịch vụ viễn thông Metfone tại Campuchia. Chỉ sau một thời gian ngắn kỷ lục
(chính thức khai trương ngày 19 tháng 2 năm 2009), Metfone đã trở thành mạng
viễn thông có chất lượng mạng và số thuê bao hàng đầu tại Campuchia. Những
nhân tố nào đã tạo nên sự thành công của Công ty Viễn thông Viettel Campuchia?
Từ sự thành công này có thể rút ra những bài học kinh nghiệm gì?
Là một người làm việc trực tiếp tại một công ty thành viên của Viettel, tác giả
lựa chọn nghiên cứu trường hợp thành công của Viettel Campuchia, tận dụng lợi thế

1


trong việc tiếp cận, thu thập thông tin từ đối tượng nghiên cứu nhằm trả lời các câu

hỏi trên với mong muốn có được những đóng góp nhất định đối với hoạt động kinh
doanh của Viettel nói riêng và đối với hoạt động kinh doanh ra thị trường nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
Những luận điểm nêu trên chính là căn cứ để tác giả lựa chọn đề tài: “Năng
lực cạnh tranh của Công ty Viettel Campuchia – Những bài học kinh nghiệm” cho
luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
Về các công trình nghiên cứu của nước ngoài:
- Porter, M.E. (1979) “How competitive forces shape strategy”, Harvard
business Review, March/April 1979 [30]. Theo Porter, sự cạnh tranh trong ngành
phụ thuộc vào năm lực lượng cơ bản (mô hình viên kim cương 5 góc của Porter).
Sức mạnh tổng hợp của năm lực lượng này quyết định tiềm năng lợi nhuận của
ngành. Sự nhận thức rõ ràng về năm lực lượng này sẽ giúp công ty xác định rõ vị trí
của nó trong ngành, xây dựng thành công chiến lược kinh doanh và tránh được
những ảnh hưởng từ sức mạnh tổng hợp của năm lực lượng cạnh tranh.
- Porter, M.E. (1985), “Competitive Advantage” [31]. Công trình đưa ra một
khung khổ giúp hiểu được các nguồn tạo nên lợi thế so sánh của các công ty và cách
thức giúp nâng cao lợi thế so sánh của các công ty
- Porter, M.E. (1990) “The Competitive Advantage of Nations” [32]. Trong tác
phẩm được đánh giá là một trong những cuốn sách có ảnh hưởng mạnh nhất trong
mọi thời đại về kinh doanh và quản trị, Porter đã nhận dạng những yếu tố căn bản
tạo nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia trong một ngành công nghiệp và chỉ rõ các
yếu tố này đã kết hợp với nhau tạo nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia như thế nào.
Các phát hiện của ông có ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động quản trị của các công ty,
tới các nhà hoạch định chính sách và giới học giả trên toàn thế giới.

2



Porter đã xây dựng nên các mô hình có tính khuôn mẫu và khá hữu ích có thể
ứng dụng trong phân tích về cạnh tranh nói chung và đặc biệt là năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp nói riêng.
- Ajitabh Ambastha, K. Momaya (2004), “Competitivenes of firms: review of
theory, frameworks, and models”, Singapore Management Review, January 1 [20] .
Bài viết khẳng định, thế kỷ XXI mang đến những thách thức mới cho các doanh
nghiệp, các ngành cũng như các quốc gia. Qua khảo sát các bài viết liên quan tới
cạnh tranh, tác giả đi đến kết luận rằng trong ba cấp độ cạnh tranh (doanh nghiệp,
ngành, quốc gia), cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt. Tác
giả cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có những mô hình, khung khổ phân tích
năng lực cạnh tranh doanh nghiệp phù hợp.
- Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu của nước ngoài về năng
lực cạnh tranh như sau: Bambarger B (1989) “Developing Competitive Advantage
in Small and Medium-sized Firms”, Long Range Planning, 22 (5) [23]; Barney J
(1991) “Firm Resources and Sustained Competitive Advantage”, Journal of
Management N17(1) [24]; Buckley PJ, (1998) “Measures of International
Competitiveness: A Critical Survey”, Journal of Marketing Management N 4(2),
[25]; Các báo cáo về năng lực cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế thế giới -World
Economic Forum [34-36].
Về các công trình nghiên cứu của Việt Nam:
- Bài viết của PGS.TS Vũ Văn Phúc trên tạp chí Cộng sản điện tử ngày
11/12/2007 “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp” [38]. Tác giả bài
viết cho rằng, phân tích sức cạnh tranh là một công việc phức tạp, mỗi góc độ xem
xét cạnh tranh khác nhau đòi hỏi các phương pháp luận phân tích các yếu tố cấu
thành sức cạnh tranh và nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh khác nhau. Các chủ
thể tác động đan xen nhau, gây ảnh hưởng đến sức cạnh tranh bao gồm: người lao
động với ý nghĩa khởi nguồn của sức sáng tạo làm nên năng lực cạnh tranh; cơ cấu
tổ chức của doanh nghiệp kết dính các nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp của

3



doanh nghiệp; hệ thống luật pháp, bộ máy quản lý nhà nước và các giá trị xã hội
làm nên sức mạnh của một quốc gia.
- Bài viết của Nguyễn Vĩnh Thanh trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế No8 năm
2005 [14] “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay” Tác giả bài viết đã phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của các hạn chế đó và
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong tương lai: Tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp; Giảm chi phí sản xuất,
hạ giá thành sản phẩm; Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp; Đổi mới
cơ cấu tổ chức quản lý, hoàn thiện kỹ năng quản lý hiện đại của đội ngũ lãnh đạo,
quản trị trong các doanh nghiệp; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các
doanh nghiệp; Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử
trong điều hành kinh doanh; Xây dựng văn hóa của doanh nghiệp.
- Bài nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2008)
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của những sản phẩm chủ lực của nền kinh tế Việt
Nam”. Sau khi phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực,
bài viết đề xuất bẩy giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm
chủ lực của Việt Nam.
- Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về kinh doanh trong
lĩnh vực viễn thông và hội nhập kinh tế quốc tế như: Mai Thế Nhượng (2001),
“Cạnh tranh trong viễn thông” [8]; Bùi Xuân Phong (2002), “Chiến lược kinh
doanh bưu chính viễn thông” [9] ; Hà Văn Hội (2003) “Các vấn đề đặt ra đối với
lĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin Việt Nam trong tiến trình gia nhập
WTO” [4]; Đỗ Trung Tá (2004), “Ngành Bưu chính- Viễn thông trong tiến trình chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế” [12]; Mai Liêm Trực, Nguyễn Ngô Hồng (2005)
“Viễn thông Việt Nam trong quá trình đổi mới” [16],…
Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu tập
trung vào trường hợp đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông của doanh nghiệp Việt

Nam ra nước ngoài và đặc biệt là nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của doanh

4


nghiệp viễn thông của Việt Nam (như Viettel Campuchia với mạng viễn thông
Metfone) khi kinh doanh trên thị trường nước ngoài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là phân tích năng lực cạnh tranh của Công ty Viễn
thông Viettel Campuchia, qua đó làm rõ các nguyên nhân thành công của Công ty
này tại Campuchia, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh
trong lĩnh vực viễn thông nói riêng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích một số vấn đề chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Áp dụng các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh và một số mô hình về
phân tích năng lực cạnh tranh doanh nghiệp để phân tích, làm rõ năng lực cạnh
tranh của Viettel Campuchia.
- Từ trường hợp Viettel Campuchia rút ra một số bài học kinh nghiệm cho các
doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp
Việt Nam kinh doanh dịch vụ viễn thông nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng lực cạnh tranh của Công ty Viettel
Campuchia.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Viettel Campuchia trên thị trường viễn
thông tại Campuchia từ khi thành lập tháng 05/2006 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh. Để phân tích và làm rõ năng lực cạnh tranh của
Viettel Campuchia, luận văn có sử dụng các mô hình phân tích năng lực cạnh tranh
như mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michal Porter, mô hình SWOT. Ngoài ra,

5


luận văn còn sử dụng phương pháp phỏng vấn xin ý kiến các chuyên gia làm việc
trực tiếp tại doanh nghiệp.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh giữa Viettel Campuchia và
Công ty Star Telecom là doanh nghiệp do Viettel góp vốn kinh doanh dịch vụ viễn
thông tại Lào để làm nổi bật bài học thành công của Viettel Campuchia.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Làm rõ năng lực cạnh tranh của Viettel Campuchia tại thị trường viễn thông
Campuchia.
- Gợi ý một số bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung
và các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông nói riêng khi
mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị trường nước ngoài.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 03 chương.
 Chương 1: Một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
 Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Viettel Campuchia
 Chương 3: Các bài học kinh nghiệm đối với Viettel Campuchia cũng như các
doanh nghiệp viễn thông đầu tư ra nước ngoài

6



CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM NĂNG LỰC CẠNH TRANH DOANH NGHIỆP
1.1.1. Cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực như chính trị,
kinh tế, xã hội, quân sự,…Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, thuật ngữ
cạnh tranh được tiếp cận dưới góc độ kinh tế. Có khá nhiều quan niệm khác nhau về
cạnh tranh kinh tế, dưới đây là một số quan niệm tiêu biểu:
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê nin (2002): “Cạnh tranh là sự ganh
đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất – kinh doanh với
nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất – kinh doanh, tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh
tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ
thể tham gia cạnh tranh” [3, tr.20].
Theo P.Samuelson “cạnh tranh là sự đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh tranh
với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần” [2, tr.35].
Theo Michael Porter (1980) “cạnh tranh hiểu theo cấp độ doanh nghiệp, là
việc đấu tranh hoặc giành giật từ một số đối thủ về khách hàng, thị phần hay nguồn
lực của các doanh nghiệp”. Tuy nhiên, bản chất của cạnh tranh trong khái niệm này
không phải tiêu diệt đối thủ mà chính là doanh nghiệp phải tạo ra và mang lại cho
khách hàng những giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn đối thủ để họ có thể lựa
chọn mình mà không đến với đối thủ cạnh tranh [31, tr.28].
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động
ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi các quan hệ cung - cầu, nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất”.


7


Theo Từ điển Kinh tế kinh doanh Anh - Việt: “Cạnh tranh là sự đối địch giữa
các hãng kinh doanh trên cùng một thị trường để giành được nhiều khách hàng, do
đó nhiều lợi nhuận hơn cho bản thân, thường là bằng cách bán theo giá cả thấp nhất
hay cung cấp một chất lượng hàng hoá tốt nhất”.
Các quan niệm trên tuy có sự khác biệt trong diễn đạt và phạm vi, nhưng tựu
chung lại thống nhất ở quan điểm cho rằng, mục đích cuối cùng của các bên tham
gia cạnh tranh là nhằm thoả mãn tối đa lợi ích kinh tế, tức lợi nhuận trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Cạnh tranh biểu hiện thông qua các hoạt động kinh
tế của con người, lợi nhuận là mục đích, động lực thúc đẩy hoạt động đó. Trong hầu
hết trường hợp, cạnh tranh sẽ không xuất hiện khi lợi nhuận không phải mục đích
cuối cùng. Cạnh tranh theo các quan niệm trên có các đặc trưng cơ bản sau:


Cạnh tranh là mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau.

Chính sự tham gia nhiều chủ thể có cùng mục tiêu tạo lên môi trường, sức ép
cạnh tranh đối với doanh nghiệp vì mục tiêu tồn tại, phát triển, tối đa lợi nhuận,
gia tăng thị phần,…


Các chủ thể cạnh tranh phải tuân thủ những quy định ràng buộc chung. Đó

có thể là hệ thống luật pháp quốc gia và thông lệ quốc tế; tập quán kinh doanh trên
thị trường;…


Phương pháp cạnh tranh rất đa dạng và ngày càng được mở rộng. Cạnh


tranh không chỉ ở việc bán giá thấp, sản phẩm đáp ứng nhu cầu khách hàng, mà còn
ở dịch vụ chăm sóc khách hàng, chất lượng sản phẩm và có khi chỉ là sự khác biệt
riêng trong sản phẩm của doanh nghiệp. Việc lựa chọn phương pháp cạnh tranh như
thế nào tuỳ thuộc vào sự đánh giá, lựa chọn của doanh nghiệp.


Cạnh tranh diễn ra trong khoảng thời gian và không gian không cố định.

Trong môi trường kinh doanh sôi động và biến đổi nhanh như hiện nay cạnh tranh
ngoài mục đích gia tăng thị phần trên thị trường hiện tại thì còn hướng tới mục tiêu
phát triển thị trường mới.
Cạnh tranh được sản sinh từ nhu cầu tối đa hoá lợi nhuận, thoả mãn lợi ích
kinh tế của con người. Tuy nhiên, cạnh tranh chỉ vận hành khi có môi trường cạnh

Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh
8


tranh và môi trường cạnh tranh đó được hình thành trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, luật pháp cho phép tồn tại nhiều dạng sở hữu, thành
phần kinh tế khác nhau cùng hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chủ thể kinh tế
khác nhau có khả năng về tổ chức sản xuất, quản lý, các yếu tố đầu vào sản xuất
khác nhau và trong điều kiện nguồn lực khan hiếm, mọi chủ thể kinh tế đều tiến tới
tối đa hoá lợi ích và lợi nhuận thì cạnh tranh là điều tất yếu nếu doanh nghiệp không
muốn bị đào thải khỏi thị trường. Theo Krugman “Cạnh tranh ở cấp độ doanh
nghiệp có ranh giới cận dưới rất rõ ràng, nếu công ty không bù đắp nổi chi phí thì
không trước thì sau sẽ phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản” [2, tr. 35].
Các quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật giá cả tạo môi trường tốt cho cạnh tranh xuất

hiện, tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cơ chế cạnh tranh
trong những điều kiện của kinh tế thị trường chưa thực sự vận hành hiệu quả, thậm
chí có thể bị tắc nghẽn do những thất bại của chính thị trường, đòi hỏi sự can thiệp
của nhà nước. Điều tiết của nhà nước nhằm khắc phục những thất bại của thị
trường, tạo điều kiện cho cơ chế cạnh tranh vận hành hiệu quả là cần thiết. Các
chính sách điều tiết của nhà nước phải thực hiện, xây dựng trên nguyên tắc tạo môi
trường cạnh tranh thông thoáng, bình đẳng, lành mạnh nhằm tránh thất bại của thị
trường gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh
tế nói chung.
1.2.1.2. Phân loại cạnh tranh
- Căn cứ theo hình thái cạnh tranh có cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh
không hoàn hảo. Cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh trong đó giá cả một hàng hoá
của doanh nghiệp không có khả năng chi phối thay đổi giá cả hàng hoá đó trên thị
trường. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trong đó một số nhà sản xuất có
đủ sức mạnh chi phối giá cả sản phẩm trên thị trường. Trong cạnh tranh không hoàn
hảo phân ra hai loại độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền.
- Căn cứ theo loại thị trường nơi hoạt động cạnh tranh diễn ra, có cạnh tranh
trên các thị trường đầu vào nhằm giành được các nguồn lực sản xuất có chất lượng

9


tốt và chi phí thấp nhất; cạnh tranh trên thị trường sản phẩm nhằm chiếm lĩnh thị
trường, tăng thị phần, giành khách hàng.
- Căn cứ theo phương thức cạnh tranh, có cạnh tranh bằng giá cả và cạnh
tranh phi giá (cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoá, thời gian giao hàng, dịch vụ
khách hàng, cạnh tranh bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế,...).
- Căn cứ vào loại chủ thể tham gia cạnh tranh, có cạnh tranh giữa người mua
và người bán, cạnh tranh giữa những người bán với nhau và cạnh tranh giữa những
người mua với nhau.

- Theo phạm vi cạnh tranh, có cạnh tranh nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các
ngành, cạnh tranh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và cạnh tranh quốc tế.
- Theo cấp độ cạnh tranh, có cạnh tranh giữa các quốc gia, cạnh tranh giữa các
ngành, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và cạnh tranh sản phẩm. Giữa các cấp độ
cạnh tranh đó có mối quan hệ tương hỗ và suy cho cùng vẫn là cạnh tranh sản
phẩm. Thông qua cung cấp sản phẩm mà chủ thể là doanh nghiệp, ngành, nhà nước
mong giành thắng lợi trong cạnh tranh để đạt mục tiêu của mình [2, tr.40-41].
1.1.2. Năng lực cạnh tranh
1.1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Hiện nay bên cạnh khái niệm năng lực cạnh tranh, người ta còn sử dụng các
khái niệm sức cạnh tranh, tính cạnh tranh và khả năng cạnh tranh. Mặc dù thuật ngữ
này có thể mang sắc thái khác nhau và không đồng nhất trong những trường hợp cụ
thể nào đó, nhưng cả bốn thuật ngữ đó đều được dịch từ một thuật ngữ tiếng Anh là
“competitiveness”. Do vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, tác giả tiếp
cận khái niệm năng lực cạnh tranh dưới góc độ đồng nhất các khái niệm sức cạnh
tranh, năng lực cạnh tranh, tính cạnh tranh và khả năng cạnh tranh.
Theo Từ điển thuật ngữ chính sách thương mại “Năng lực cạnh tranh là năng
lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, thậm chí một quốc gia không bị doanh
nghiệp khác, ngành khác hoặc nước khác đánh bại” [27, tr.112].
Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới-World Economic Forum (WEF) trong Báo cáo
về năng lực cạnh tranh năm 1991: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả

10


năng thiết kế, sản xuất và bán sản phẩm tốt hơn sản phẩm của đối thủ xét về mặt giá
cả cũng như các chất lượng phi giá cả khác” [35, p.8].
Theo UNCTAD, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được định nghĩa
là năng lực của doanh nghiệp trong việc giữ vững hoặc tăng thị phần của mình một
cách vững chắc, hoặc cũng có thể được định nghĩa là năng lực hạ giá thành hoặc

cung cấp sản phẩm bền, đẹp, rẻ của doanh nghiệp; hoặc nó còn được định nghĩa như
định nghĩa thông thường là năng lực cạnh tranh bắt nguồn từ tỷ suất lợi nhuận.
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD) đã đưa ra định nghĩa về cạnh tranh kết hợp cả các doanh nghiệp,
ngành, và quốc gia: “Năng lực cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành,
quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế”.
Theo từ điển Đại từ điển Tiếng Việt “Năng lực cạnh tranh là khả năng giành
thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hoá cùng loại, trên cùng một thị
trường tiêu thụ”. Một ngành có năng lực cạnh tranh khi ngành đó có năng lực duy
trì được lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước.
Để hiểu rõ hơn khái niệm năng lực cạnh tranh, cần phân biệt sự khác nhau
trong khái niệm giữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp. Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện một hay nhiều ưu
thế của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh nhằm đạt được thắng lợi trong
cạnh tranh. Ưu thế này có thể dẫn đến chi phí thấp hơn hoặc sự khác biệt trong sản
phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp so với sản phẩm/dịch vụ của đối thủ cạnh tranh và
được thể hiện thành tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Tuy nhiên, để doanh
nghiệp có thể vượt trội so với đối thủ cạnh tranh và duy trì vị thế đó chính là dựa
vào năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa lợi thế cạnh tranh,
năng lực cạnh tranh có thể hình tượng như sau: Lợi thế cạnh tranh là xuất phát
điểm, là điều kiện cần, năng lực cạnh tranh là điều kiện đủ để doanh nghiệp có vị
thế cạnh tranh mạnh trên thương trường. Để xây dựng được năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp thì nhất thiết phải có cơ sở từ các lợi thế cạnh tranh nhưng điều ngược

11


lại chưa chắc đã đúng. Bởi lẽ, nếu doanh nghiệp không biết phát huy những lợi
thế vốn có của mình, duy trì và xây dựng lợi thế đó trở thành năng lực cạnh tranh

vượt trội của mình so với đối thủ thì chính bản thân doanh nghiệp đã làm mất đi
lợi thế cạnh tranh của mình và không xây dựng được năng lực cạnh tranh cho
doanh nghiệp.
1.1.2.2. Các cấp độ năng lực cạnh tranh
a) Năng lực cạnh tranh quốc gia: Theo Báo cáo mới nhất (2010-2011) về
năng lực cạnh tranh toàn cầu của WEF “Năng lực cạnh tranh quốc gia là tập hợp các
thể chế, các chính sách và các nhân tố quyết định mức năng suất của quốc gia. Đến
lượt mình, trình độ năng suất của quốc gia quyết định mức độ thành công (thịnh
vượng) bền vững của nền kinh tế. Nói một cách khác, một nền kinh tế có năng lực
cạnh tranh cao hơn có khả năng mang lại mức thu nhập cao hơn cho công dân của
mình. Trình độ năng suất còn quyết định tỷ lệ sinh lời của đầu tư (vật chất, con
người, công nghệ) trong nền kinh tế. Do tỷ lệ sinh lời là động lực cơ bản của tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế nên nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao hơn là nền
kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong trung và dài hạn ” [37, p.4]. Cấu thành nên
năng lực cạnh tranh quốc gia bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng bao
gồm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước.
Các tổ chức quốc tế tiến hành điều tra, so sánh theo cùng một hệ thống tiêu chí
đối với các nền kinh tế trên thế giới để từ đó xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia
của các nước. WEF thực hiện báo cáo về năng lực cạnh tranh từ năm 1979 và tiến
hành xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia theo chỉ số năng lực cạnh tranh toàn
cầu (GCI), một chỉ số toàn diện bao gồm các chỉ số vĩ mô và vi mô để đo lường
năng lực cạnh tranh của các quốc gia, từ năm 2005. Theo báo cáo về năng lực cạnh
tranh toàn cầu 2010-2011, năng lực cạnh tranh kinh tế của quốc gia được xác định
bởi 12 trụ cột (12 yếu tố cấu thành - với hơn 100 chỉ số) cơ bản sau: các thể chế, kết
cấu hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục tiểu học, đào tạo đại học và
dạy nghề, tính hiệu quả của thị trường hàng hóa, tính hiệu quả của thị trường lao
động, sự phát triển của thị trường tài chính, sự sẵn sàng về công nghệ, quy mô thị

12



trường, sự phức tạp trong kinh doanh và năng lực đổi mới. Báo cáo cho thấy bức
tranh tổng quan và toàn diện về điểm mạnh và điểm yếu của nền kinh tế các nước
và cung cấp cơ sở cho việc so sánh năng lực cạnh tranh quốc tế giữa các nền kinh tế.
b) Năng lực cạnh tranh ngành/doanh nghiệp: Năng lực cạnh tranh ngành đã
được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu của Porter M. Đặc biệt, ông đã
nghiên cứu sâu và làm rõ các nhân tố hình thành năng lực cạnh tranh của ngành, của
quốc gia (mô hình 5 lực lượng và mô hình kim cương của Porter). Theo báo cáo về
năng lực cạnh tranh thế giới năm 1991, năng lực cạnh tranh của ngành thể hiện ở
mức độ tăng trưởng lợi nhuận tiềm năng và mức hấp dẫn của tỷ lệ sinh lời trên vốn
đầu tư của ngành đó. [35, p.8]. Theo K. Momaya, GS Viện Công nghệ Ấn Độ,
năng lực cạnh tranh ngành thể hiện ở “mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu
dùng về giá cả, chất lượng, sự đổi mới của sản phẩm/dịch vụ; mức độ thỏa mãn nhu
cầu của những bộ phận hợp thành ngành, chẳng hạn như nhu cầu của công nhân về
các chương trình phúc lợi, về đào tạo, về an ninh việc làm; tỷ lệ sinh lời trên vốn
đầu tư hấp dẫn; tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận”. [30, p.40]. Ông nhấn mạnh, năng
lực cạnh tranh doanh nghiệp là thành tố quan trọng của năng lực cạnh tranh ngành.
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong
nước và ngoài nước” [17,19]. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực
lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt
nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp trên các tiêu chí về
công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp…, song cần đánh giá,
so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị
trường. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh
nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối thủ của mình. Nhờ lợi thế này,
doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng
như lôi kéo được khách hàng của đối thủ cạnh tranh.


13


c) Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ: Năng lực cạnh tranh của
hàng hóa và dịch vụ là cơ sở tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành và
tổng thể của nó tạo nên sức cạnh tranh của một quốc gia và thể hiện tập trung ở bốn
yếu tố là giá cả, chất lượng, tổ chức tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp. Năng lực
cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ được đo bằng thị phần của sản phẩm, dịch vụ đó
trên thị trường. Phân tích cạnh tranh sản phẩm, dịch vụ thường được lồng ghép với
phân tích năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp.
1.1.3. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Khái niệm năng lực cạnh tranh doanh nghiệp được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào
đầu những năm 1980. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng
cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt
trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh
đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm
thu nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp” [21]. Năm 1998, Bộ Thương
mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh
tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và vào đúng thời
điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu quả
hơn các doanh nghiệp khác”
Theo Buckley (1988), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần được gắn
kết với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp với 3 yếu tố: các giá trị chủ yếu
của doanh nghiệp, mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp các
doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình [25] .
Căn cứ trên các tài liệu trong và ngoài nước, có thể nêu ra ở đây một số quan
niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đáng chú ý sau:
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ biến
hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với

các đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp.

14


Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước
sự tấn công của doanh nghiệp khác, là năng lực của một doanh nghiệp “không bị
doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”. [27]
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức
sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu
quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế. Theo M. Porter (1998), năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng lực
cạnh tranh. [34, p.xv].Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc thực hiện
các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm (2006) cho rằng, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp [5], tác giả Trần Sửu (2005) cũng có ý kiến tương tự:
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả
năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần
lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững” [11].
Ngoài ra, không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
với năng lực kinh doanh.
Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu
thống nhất. Để có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù
hợp, cần lưu ý những đặc thù của khái niệm này như Henricsson và các cộng sự
(2004) chỉ ra: đó là tính đa nghĩa (có nhiều định nghĩa), đa trị (có nhiều cách đo
lường), đa cấp (với các cấp độ khác nhau), phụ thuộc, có tính quan hệ qua lại, tính

chất động và là một quá trình [28, p.58]. Ngoài ra, khi đưa ra khái niệm năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau đây:
Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện, bối cảnh
và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trường tự
do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và năng lực cạnh tranh

15


đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ cạnh tranh; trong điều
kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh trên cơ sở tối đa hóa số lượng hàng
hóa nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị phần; còn trong điều kiện kinh tế tri thức
hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa với mở rộng “không gian sinh tồn”, doanh nghiệp
phải cạnh tranh không gian, cạnh tranh thị trường, cạnh tranh tư bản và do vậy quan
niệm về năng lực cạnh tranh cũng phải phù hợp với điều kiện mới [17, tr.54-57].
Đối với Việt Nam hiện nay, với trình độ phát triển kinh tế còn thấp, nhưng
lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - cạnh tranh gay gắt, việc đưa ra khái
niệm năng lực cạnh tranh cho phù hợp với bối cảnh hiện nay là không đơn giản.
Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành
giữa các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các yếu tố sản
xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa, mà cả khả năng mở rộng không gian sinh tồn của
sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được phương thức
cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền thống và các phương
thức hiện đại – không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà dựa vào lợi thế cạnh tranh,
dựa vào quy chế.
Từ những yêu cầu trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp như sau:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử

dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
Như vậy, năng lực cạnh tranh không phải là chỉ tiêu đơn nhất mà mang tính
tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định được cho nhóm
doanh nghiệp (ngành) và từng doanh nghiệp.
1.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH DOANH NGHIỆP
1.2.1. Các tiêu chí định lượng đánh giá tổng thể năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
1.2.1.1. Sản lượng, doanh thu
Doanh thu bán hàng phản ánh quy mô của quá trình sản xuất, phản ánh trình
độ tổ chức chỉ đạo sản xuất kinh doanh của DN. Có được doanh thu chứng tỏ DN đã

16


sản xuất sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận về mặt khối lượng, giá trị sử
dụng, chất lượng và giá cả phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Doanh thu là
một tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi lẽ, các
nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu gồm có:
- Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ hoặc dịch vụ cung ứng.
- Kết cấu mặt hàng, mẫu mã càng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì
doanh thu càng cao.
- Chất lượng sản phẩm : sản phẩm có chất lượng cao giá bán sẽ cao. Nâng cao
chất lượng sản phẩm và chất lượng cung cấp dịch vụ sẽ tăng thêm giá trị sản phẩm
và giá trị dịch vụ tạo điều kiện tiêu thụ được dễ dàng, nhanh chóng thu được tiền
bán hàng, và tăng doanh thu bán hàng.
- Giá bán sản phẩm: Doanh nghiệp khi định giá bán sản phẩm hoặc giá cung
ứng dịch vụ phải cân nhắc sao cho giá bán phải bù được phần tư liệu vật chất tiêu
hao, đủ trả lương cho người lao động và có lợi nhuận để thực hiện tái đầu tư.
1.2.1.2. Thị phần
Thị phần là phần thị trường mà sản phẩm của doanh nghiệp chiếm lĩnh trên thị
trường. Chỉ tiêu thị phần phản ánh khả năng khai phá, thâm nhập, chiếm lĩnh thị

trường, mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là tiêu chí rất quan
trọng đánh giá triển vọng tăng trưởng, phát triển của doanh nghiệp.
Đối với đánh giá năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, thị phần là một tiêu chí đo
lường khá cụ thể năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi lẽ nó thể hiện sự khả
năng giành được thị trường, mức độ chấp nhận của khách hàng đối với các sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh.
1.2.1.3. Tỷ suất lợi nhuận
Các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận phản ánh ảnh hưởng của các yếu tố giá
thành, hiệu quả sử dụng vốn đối với kết quả hoạt động kinh doanh và phản ánh lợi
nhuận đạt được của doanh nghiệp trên cơ sở hoạt động kinh doanh, từ đó thể hiện
hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp.

17


Phân tích chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận, ta có thể đánh giá được hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, so sánh với tỷ lệ tương ứng của các
doanh nghiệp đối thủ, kết hợp với các nhân tố khác như nguồn vốn, cơ cấu tổ chức,
nhân sự, công nghệ để so sánh được hiệu quả sử dụng các nguồn lực, năng lực sản
xuất cũng như năng lực quản lý đối với các doanh nghiệp cùng ngành.
1.2.2. Các tiêu chí định tính đánh giá tổng thể năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
1.2.2.1. Chất lượng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp so với đối thủ
cạnh tranh
Để đánh giá tổng thể năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần so sánh tiêu
chí chất lượng hàng hóa, dịch vụ với các đối thủ cạnh tranh. Chất lượng hàng hóa,
dịch vụ tốt hơn, thống nhất và ổn định hơn so với đối thủ cạnh tranh cho thấy năng
lực cung ứng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp có sự nổi trội hơn. Sản phẩm
dịch vụ có chất lượng cao và ổn định sẽ cho phép doanh nghiệp giữ chân được các
khách hàng hiện có và có khả năng thu hút thêm các khách hàng mới sử dụng sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp mình. Đối với các sản phẩm và dịch vụ mà khách

hàng có sự nhạy cảm cao về chất lượng hàng hóa, dịch vụ và ít có nhạy cảm về giá,
nếu sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp có chất lượng kém hơn hoặc không đồng
đều so với các doanh nghiệp đối thủ thì khách hàng có thể sẽ có xu hướng chuyển
sang sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp khác. Như vậy, phân tích tiêu chí chất
lượng hàng hóa, dịch vụ là một nội dung quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh
Khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng là tiêu chí đánh giá khả năng
của doanh nghiệp không chỉ trong việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với
nhu cầu của khách hàng, thỏa mãn được các yêu cầu cơ bản của khách hàng mà còn
thỏa mãn được các yêu cầu mang tính đặc thù khác. Việc doanh nghiệp có chính
sách cung cấp sản phẩm, dịch vụ và các dịch vụ hậu mãi mềm dẻo, đáp ứng được
các nhu cầu phong phú từ phía khách hàng sẽ tăng thêm khả năng giữ các khách
hàng hiện tại và tạo điều kiện để phát triển, mở rộng thị phần của doanh nghiệp.

18


Đây là một tiêu chí rất quan trọng để so sánh năng lực cạnh tranh giữa doanh nghiệp
này với doanh nghiệp khác, đặc biệt là trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ.
1.2.2.3. Thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh
Một tiêu chí định lượng quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là thương hiệu. Khi một sản phẩm, dịch vụ cụ thể với chất lượng được cam
kết thể hiện đúng (giữ lời hứa) và được "người mua" tin tưởng, khi đó hình thành
thương hiệu, tức sản phẩm trở thành thương hiệu. Đánh giá về thương hiệu là đánh
giá về mức độ nhận biết sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, về uy tín, hình ảnh
của doanh nghiệp trong nhận thức của người tiêu dùng. Uy tín, hình ảnh của doanh
nghiệp càng tốt đẹp trong con mắt của người tiêu dùng thì năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác càng cao hơn. Ngoài ra, thương hiệu,
uy tín của một doanh nghiệp còn đóng vai trò quan trọng trong năng lực sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp khi nói đến các yếu tố đầu vào. Một doanh nghiệp có
thương hiệu mạnh luôn có ưu thế trong việc tìm kiếm và duy trì các nhà cung cấp
đầu vào, có lợi thế trong việc đàm phán về giá cả hoặc các yêu cầu về chất lượng
hàng hóa, dịch vụ đầu vào. Doanh nghiệp có thương hiệu mạnh hơn cũng dễ dàng
thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao. Do vậy, yếu tố thương hiệu, uy tín,
hình ảnh của doanh nghiệp có vai trò rất lớn trong khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH
DOANH NGHIỆP
Cũng như bản thân doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu
tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau. Có thể chia các nhân tố tác động đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp làm hai nhóm: các nhân tố bên trong doanh nghiệp
và các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Các nhân tố bên ngoài là những nhân tố
không thuộc quyền kiểm sóat trực tiếp của doanh nghiệp. Mặc dù doanh nghiệp có
thể tác động đến sự thay đổi trong một số trường hợp (vận động hành lang và thay
đổi chính sách…), về cơ bản doanh nghiệp phải nhận biết và điều chỉnh để thích
ứng với sự thay đổi của các nhân tố bên ngoài. Các nhân tố bên trong là những nhân

19


tố mà doanh nghiệp có thể kiểm sóat được và có thể điều chỉnh nhằm thích ứng với
sự thay đổi các nhân tố bên ngoài [22, p.16].
1.3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Có nhiều nhân tố bên trong doanh nghiệp tác động tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. WEF sử dụng các chỉ tiêu thuộc 5 nhóm nhân tố bên trong doanh
nghiệp trong việc xác định năng lực cạnh tranh gồm: năng lực quản lý (triết lý kinh
doanh, sự tin tưởng vào quản lý nghiệp vụ, sự hiện diện chuỗi giá trị), chất lượng
nhân lực (mở rộng đào tạo nhân viên), năng lực marketing (định hướng khách hàng,
đổi mới mẫu mã, tăng cường tiếp thị, mở rộng thị trường quốc tế, kiểm soát hoạt

động phân phối ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới bán lẻ), khả năng đổi mới, năng
lực nghiên cứu và phát triển (chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển) [36].
Theo cách tiếp cận truyền thống, các nhân tố bên trong của doanh nghiệp ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh gồm: năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp,
trình độ công nghệ, năng lực tài chính, trình độ tay nghề của người lao động…
Dưới đây là một số nhân tố chủ yếu tác động tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp:
1.3.1.1. Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố quyết định sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở các mặt sau:
Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý: Trình độ của đội ngũ này không chỉ đơn
thuần là trình độ học vấn mà còn thể hiện những kiến thức rộng lớn và phức tạp
thuộc rất nhiều lĩnh vực liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ
pháp luật trong nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng, … đến kiến thức về xã hội,
nhân văn.
Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp: thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu
tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận. Việc
hình thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh, gọn, nhẹ và hiệu
quả cao có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý cao, ra quyết

20


định nhanh chóng, chính xác, mà còn làm giảm tương đối chi phí quản lý của doanh
nghiệp. Nhờ đó mà nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trình độ, năng lực quản lý của doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch
định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp… Điều này có ý
nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn
và dài hạn và do đó có tác động mạnh tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp.
1.3.1.2. Trình độ thiết bị, công nghệ
Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời gian
sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm của doanh
nghiệp. Công nghệ còn tác động đến tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, nâng cao
trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh nghiệp.
1.3.1.3. Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào vừa là lực lượng trực tiếp
sử dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Lao
động còn là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa
quá trình sản xuất và thậm chí góp sức vào những phát kiến và sáng chế… Do vậy,
trình độ của lực lượng lao động tác động rất lớn đến chất lượng và độ tinh xảo của
sản phẩm, ảnh hưởng lớn đến năng suất và chi phí của doanh nghiệp. Đây là một
yếu tố tác động trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao sức
cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú trọng bảo đảm cả chất lượng và số lượng lao
động, nâng cao tay nghề của người lao động dưới nhiều hình thức, đầu tư kinh phí
thỏa đáng, khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình quản lý, sáng chế,
cải tiến…
1.3.1.4. Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng
huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính… trong doanh

21


nghiệp. Trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn – là một yếu tố sản xuất cơ bản và
là một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn
nhanh… có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản

phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác.
Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân
công, mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ chức hệ thống bán lẻ… Như vậy, năng lực tài
chính phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc
phải có nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao năng lực
cạnh tranh.
Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải củng cố và phát triển nguồn
vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng thời, điều quan
trọng là doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động kinh
doanh có hiệu quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và những người
cho vay vốn.
1.3.1.5. Năng lực marketing của doanh nghiệp
Năng lực marketing của doanh nghiệp là khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường,
khả năng thực hiện chiến lược 4P (Product, Place, Price, Promotion) trong hoạt
động marketing. Khả năng marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần tiêu
thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố rất quan
trọng tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa phát triển, văn minh tiêu dùng ngày càng
cao, thì người tiêu dùng càng hướng tới tiêu dùng những hàng hóa có thương hiệu
uy tín. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là một tất yếu đối với những
doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường.
Mặt khác, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều khâu như
tiêu thụ, khuyến mãi, nghiên cứu thị trường… do đó dịch vụ bán hàng và sau bán
hàng đóng vai trò quan trọng đến doanh số tiêu thụ - vấn đề sống còn của mỗi
doanh nghiệp.

22



1.3.1.6. Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp
Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp là yếu tố tổng hợp gồm
nhiều yếu tố cấu thành như nhân lực nghiên cứu, thiết bị, tài chính cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển (R&D), khả năng đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp.
Năng lực nghiên cứu và phát triển có vai trò quan trọng trong cải tiến công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất, hợp lý hóa
sản xuất.
1.3.1.7. Yếu tố liên quan đến mức độ cạnh tranh lĩnh vực kinh doanh của doanh
nghiệp, vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh
Vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp cùng loại khẳng định mức độ
cạnh tranh của nó trên thị trường. Doanh nghiệp nào lựa chọn lĩnh vực có mức độ
cạnh tranh càng thấp thì càng thuận lợi, vì vậy, hiểu biết thị trường để quyết định
kinh doanh ở lĩnh vực có mức độ cạnh tranh thấp là yếu tố quan trọng dẫn đến sự
thành công và mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong môi
trường cạnh tranh lành mạnh sẽ có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp nhiều hơn là
môi trường độc quyền.
Vị thế của doanh nghiệp được thể hiện qua thị phần sản phẩm so với sản phẩm
cùng loại, uy tín thương hiệu sản phẩm đối với người tiêu dùng, sự hoàn hảo của
các dịch vụ và được đo bằng thị phần của các sản phẩm dịch vụ đó trên thị trường.
Ngoài ra, một số yếu tố khác nhau như lợi thế về vị trí địa lý, ngành nghề kinh
doanh của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp… có ảnh hưởng tới năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Các nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có
thể chia thành hai nhóm: các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô và các nhân tố thuộc
môi trường vi mô.
1.3.2.1.

Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô


Nhóm này bao gồm các nhân tố chủ yếu sau đây:

23


Điều kiện tự nhiên và kết cấu hạ tầng: Các điều kiện tự nhiên bao gồm diện
tích đất đai, địa hình, khí hậu, tài nguyên,... và kết cấu hạ tầng (hạ tầng vật chất – kỹ
thuật và hạ tầng xã hội) bao gồm hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống
thông tin, hệ thống giáo dục – đào tạo… Các nhân tố này có ảnh hưởng rất lớn đến
các yếu tố đầu vào, ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả của sản phẩm, tác động đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và qua đó tác động đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Để bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động bình thường và nâng cao năng lực
cạnh tranh, cần có hệ thống kết cấu hạ tầng đa dạng, có chất lượng tốt. Điều đó đòi
hỏi có sự đầu tư đúng mức để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Kinh tế: GDP, tốc độ tăng trưởng và sự ổn định của nền kinh tế, sự ổn định
của giá cả, tiền tệ, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hối đoái... Tất cả các yếu tố này
đều ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh và qua đó ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Kỹ thuật-công nghệ: Đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh và trực tiếp đến doanh
nghiệp. Các yếu tố công nghệ bao gồm phương pháp sản xuất mới, kỹ thuật mới,
vật liệu mới, thiết bị sản xuất, các bí quyết, các phát minh, phần mềm ứng
dụng…Các doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu của công nghệ để tạo
ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao hơn nhằm phát triển kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh. Tuy vậy, nó cũng mang lại cho doanh nghiệp nguy cơ tụt hậu,
giảm năng lực cạnh tranh nếu doanh nghiệp không đổi mới công nghệ kịp thời.
Chính trị - luật pháp - chính sách: gồm các yếu tố chính phủ, hệ thống luật
pháp, xu hướng chính trị, thể chế, chính sách,… nghĩa là các yếu tố có ảnh hưởng
và liên quan đến các biện pháp điều tiết cả đầu vào và đầu ra cũng như toàn bộ quá
trình hoạt động của doanh nghiệp. Đây là nhóm yếu tố rất quan trọng và bao quát

rất nhiều vấn đề liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp nói chung và nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng. Một đất nước có nền chính trị ổn
định, hệ thống luật pháp phát triển hoàn thiện, các chủ trương chính sách, cơ chế
điều tiết rõ ràng minh bạch sẽ là môi trường hấp dẫn đối với các nhà kinh doanh. Ổn

24


×