Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

khoá luận tốt nghiệp Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần việt nam thịnh vượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.15 KB, 98 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển vô cùng ấn tượng trong
hai thập niên gần đây, chính sự chuyển dịch từ một nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung truyền thống sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa từ năm 1986 đã mang lại những cải thiện sâu sắc về hiệu quả kinh tế và
đời sống nhân dân. Hiện nay, nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ với
sự đồng hành của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, chúng ta đang có rất
nhiều điều kiện thuận lợi để tiến lên một nước công nghiệp tiến tiến. Trong
những năm vừa qua, cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nước, hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những thay đổi sâu sắc, đóng góp một
vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Đứng trước xu thế hội
nhập kinh tế của khu vực và toàn cầu - nhất là sau khi Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì sự cạnh tranh
ngày càng trở lên khốc liệt không chỉ với các ngân hàng trong nước mà còn
với cả các ngân hàng, tổ chức tài chính nước ngoài, đó là sự ra đời của một
loạt các ngân hàng thương mại cổ phần mới và sự hiện diện của các ngân
hàng nước ngoài.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng còn nghèo nàn thì tín dụng được coi là hoạt động sinh lời chủ yếu,
đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ (thu nhập từ tín dụng chiếm từ 1/2 đến 2/3
thu nhập của ngân hàng).
Phát triển hoạt động tín dụng trong đó có tín dụng tiêu dùng đã và đang
là xu hướng chung không chỉ của các ngân hàng trên thế giới mà cả các ngân
hàng thương mại Việt Nam. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam
Thịnh Vượng – VPBank cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Tuy nhiên nói
tới tín dụng là nói tới rủi ro tín dụng, đặc biệt là tín dụng tiêu dùng luôn ẩn



2
chứa nguy cơ rủi ro tín dụng rất cao. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, nhất là đối
với những ngân hàng lớn thì không chỉ có ngân hàng đó gánh chịu hậu quả
mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế
của một quốc gia, thậm chí còn ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu. Có nhiều
khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn chủ, đẩy ngân hàng đến
phá sản. Để tín dụng có hiệu quả là hết sức khó khăn nhưng cũng hết sức
quan trọng đối với ngân hàng thương mại. Chính vì vậy công tác hạn chế rủi
ro tín dụng nói chung và phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng tiêu dùng luôn
được các ngân hàng quan tâm.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa đó, đề tài “Giải pháp
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng” đã được lựa chọn nghiên cứu. Hy
vọng những vấn đề nghiên cứu sẽ giải quyết được các vấn đề còn tồn tại
trong công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tiêu dùng của VPBank.
2.

Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu vào những vấn đề lý luận và thực tiễn

về hoạt động tín dụng tiêu dùng của ngân hàng, phân tích đánh giá, tìm hiểu
các tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác hạn chế và phòng ngừa
rủi ro tín dùng tiêu dùng tại VPBank. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến
nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tiêu dùng tại VPBank.
3.

Phương pháp nghiên cứu
Mang tính khoa học và ứng dụng trong thực tiễn nên trong quá trình

nghiên cứu, luận văn luôn dựa vào phương pháp duy vật biện chứng, cùng các

phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh giữa các
năm, các chỉ tiêu … để thấy được những kết quả đạt được trong công tác
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dùng tiêu dùng tại VPBank. Bên cạnh đó, đề


3
tài còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng phát
triển, rút ra nguyên nhân và tìm hướng giải quyết.
4.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín

dụng tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tiêu dùng
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tiêu dùng
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng tiêu

dùng và rủi ro tín dụng tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Đánh giá
ưu nhược điểm trong hoạt động phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tiêu
dùng tại VPBank và đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm phòng ngừa và
hạn chế rủi ro tín dụng tiêu dùng tại VPBank.



4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO
TÍN DỤNG TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm của tín dụng tiêu dùng
Hoạt động tín dụng tiêu dùng đã có một lịch sử phát triển lâu dài, nó
xuất hiện từ thời phong kiến, tại nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, nó chỉ
thực sự có những bước tiến đáng kể và mạnh mẽ trong khoảng thời gian gần
đây và ngày càng trở thành một mảng kinh doanh khá hấp dẫn đối với các
ngân hàng thương mại.
Vào những năm 80 của thế kỷ 20, hệ thống ngân hàng thương mại của
Mỹ phải tiến hành cải cách trước sự cạnh tranh gay gắt ảnh hưởng đến việc
thực hiện các nghiệp vụ của các NHTM. Trong thực tế, sự cạnh tranh mạnh
mẽ đã tạo ra những thay đổi to lớn trong lĩnh vực công nghệ, luật pháp..., và
chính sự thay đổi đó đã tạo ra sự thay đổi về các dịch vụ mà ngân hàng cung
ứng, đồng thời vai trò của NHTM trong hệ thống tài chính cũng không còn
duy trì được như trước, từ đó đã dẫn đến sự thay đổi cơ cấu trong các NHTM.
Môi trường cạnh tranh thay đổi một cách nhanh chóng và mạnh mẽ khiến các
ngân hàng thương mại nếu không tiến hành đổi mới thì không thể tham gia
cạnh tranh trong hệ thống tài chính được.
Các NHTM không chỉ phải cạnh tranh với chính các ngân hàng trong
cùng hệ thống, mà bên cạnh đó nó còn phải đối đầu với các tổ chức tài chính
như: Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Công ty thuê mua v.v... đã ra đời
và đang cùng tham gia chia sẻ thị phần thị trường với nó. Cuộc cạnh tranh
giữa các tổ chức tài chính càng diễn ra mạnh mẽ khi vào những năm 1970,
các nhà môi giới đã tạo lập lên “thị trường tiền tệ bán lẻ”. Do đó, đến đầu
những năm 1980, trước đòi hỏi của các ngân hàng về một “lĩnh vực tham gia



5
ở mức độ cao hơn”, Quốc hội Mỹ đã cho phép các ngân hàng cung ứng “tài
khoản thị trường tiền tệ” và dịch vụ môi giới.
Cũng trong giai đoạn này, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã
tạo ra nhiều phương tiện máy móc hiện đại như: máy tính nối mạng, máy rút
tiền tự động v.v..., đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh không chỉ giữa
các ngân hàng mà còn với các tổ chức tài chính khác. Cùng với các tiến bộ
đó, hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM đã có sự thay đổi. Nếu như trước
đây, các ngân hàng chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động tín dụng thương
mại, thì đến giai đoạn này họ đã mở rộng lĩnh vực hoạt động bằng việc triển
khai hoạt động tín dụng tiêu dùng, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng vào
những năm 1980.
Một yếu tố khách quan thúc đẩy hoạt động tín dụng tiêu dùng phát triển
mạnh đó là xuất phát từ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thông
qua mối quan hệ này, ngân hàng thấy được nhu cầu tín dụng theo hình thức
này từ cả phía người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Các nhà sản xuất cần có sự
hỗ trợ để gia tăng tiêu thụ hàng hoá, còn người tiêu dùng cần tìm nguồn tài trợ
cho các nhu cầu mà hiện tại sự tích luỹ của họ chưa đáp ứng được.
Ngày nay, lĩnh vực tín dụng tiêu dùng đang phát triển mạnh mẽ. Nhiều
công ty chuyên môn hoá đã tìm kiếm nhiều dạng dịch vụ khác nhau và hiện
đang mở rộng dần ra, phù hợp với việc cung cấp đa dạng các loại hình dịch
vụ. Lĩnh vực này cũng không còn chỉ do các ngân hàng và công ty tài chính
thực hiện nữa mà các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, ngân hàng tiết
kiệm bưu điện...cùng tham gia cung cấp dịch vụ này.
Tại Việt Nam, hoạt động tín dụng tiêu dùng của NHTM đã phát triển
vào những năm 1993 – 1994, trong thời gian đầu này tập trung nhiều vào cho
vay trả góp, các sản phẩm cung ứng còn rất đơn điệu. Tuy nhiên, do chưa có



6
hành lang pháp lý rõ ràng nên hoạt động được một thời gian các ngân hàng tỏ
ra rất lúng túng trong việc cấp tín dụng theo hình thức này.
Hiện nay, khi mà một số văn bản pháp luật hướng dẫn đã ra đời thì lĩnh
vực tín dụng tiêu dùng ở nước ta lại đang trong xu thế rộ lên, nó đang được
xem là thị trường tiềm năng lớn và có nhiều điều kiện phát triển mạnh cho các
NHTM tại Việt Nam.
Ta có thể định nghĩa TDTD như sau:
Tín dụng tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm các nhân và hộ gia đình. Đây là một
nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng trang trải nhu cầu nhà ở,
mua sắm đồ dùng gia đình, xe cộ, giáo dục, y tế và các dịch vụ lớn.
Tuy nhiên, một khái niệm mang tính đầy đủ về tín dụng tiêu dùng tại
NHTM là: “tín dụng tiêu dùng là một hình thức qua đó ngân hàng chuyển
cho khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình) quyền sử dụng một lượng giá trị
(tiền) trong một khoảng thời gian nhất định, với những thoả thuận mà hai bên
đã ký kết (về số tiền cấp, thời gian cấp, lãi suất phải trả...) nhằm giúp cho
khách hàng có thể sử dụng những hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả
năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một cuộc sống cao hơn.”
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng tiêu dùng
 Lãi suất các khoản TDTD phần lớn đều cao hơn các khoản cho vay
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Bởi vì so với tín dụng sản xuất, kinh doanh và
dich vụ thì TDTD có tỷ lệ rủi ro tương đối cao. Hơn thế TDTD cũng có đặc
điểm là quy mô của từng hợp đồng vay thường nhỏ và số lượng khoản vay
lớn dẫn đến chi phí giao dịch bình quân cao (bao gồm những chi phí về thẩm
định, các thủ tục cho vay, giám sát vốn vay) dẫn đến chi phí tín dụng cao nhất
trong các loại cho vay của ngân hàng.
 TDTD thường nhạy cảm theo chu kì kinh tế, tăng lên khi nền kinh tế



7
mở rộng và giảm đi khi kinh tế suy thoái. Nói một cách chi tiết, khi nền kinh
tế tăng trưởng làm thu nhập của người tiêu dùng tăng lên, nhu cầu tiêu dùng
cũng tăng lên theo, vì vậy số người đi vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cũng
tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, đầu tư giảm dẫn đến lạm phát
và thất nghiệp tăng theo, nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm dẫn đến nhu
cầu tín dụng tiêu dùng cũng giảm theo.
 Mặt khác, người tiêu dùng thường ít nhạy cảm với lãi suất, họ quan
tâm đến khoản tiền phải trả và việc làm sao để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
của họ một cách tốt nhất hơn là mức lãi suất ghi trong hợp đồng.
 Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng có quan hệ mật thiết tới thu
nhập và trình độ văn hóa của họ. Nếu thu nhập của khách hàng càng cao, họ
sẽ có xu hướng tăng tiêu dùng và ngược lại. Cũng như vậy, nếu trình độ học
vấn cao, khách hàng sẽ hướng nhu cầu của họ đến những hàng hóa cao cấp,
do vậy nhu cầu vay tiêu dùng cũng tăng lên.
 Về thẩm định tín dụng: Việc thẩm định tín dụng của ngân hàng
thường gặp nhiều khó khăn do đặc điểm của TDTD như:
Chất lượng thông tin mà khách hàng vay tiêu dùng cung cấp thường
không cao, nhất là những thông tin về tài chính.
Nguồn trả nợ cho ngân hàng thường là từ thu nhập của người vay.
Nguồn thu nhập này thường không ổn định và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
chu kì kinh tế, cơ cấu kinh tế, thu nhập của khách hàng, tư cách khách hàng.
Nếu một trong các nhân tố trên biến động ngược lại với dự đoán của Ngân
hàng sẽ gây ra những rủi ro cho hoạt động TDTD.
Việc thẩm định tư cách người vay rất khó xác định một cách chính xác,
nếu cán bộ tín dụng không thẩm định kĩ sẽ dẫn đến đanh giá sai lầm về khách
hàng, rủi ro mất vốn sẽ rất cao.
Hơn thế, nghề nghiệp, kỹ năng, sức khỏe, thu nhập,… của người vay



8
không ổn định trong suốt thời hạn vay cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
TDTD cũng có thể gặp rủi ro chủ quan từ khách hàng vay như cố tình
lừa đảo ngân hàng, trì hoãn không hợp tác với ngân hàng trong việc trả nợ hay
một số khách hàng cố tình sử dụng tiền vay không đúng mục đích như đã
trình với ngân hàng.
1.1.3. Phân loại tín dụng tiêu dùng
1.1.3.1. Căn cứ vào mục đích vay
TDTD cư trú – TDTD Bất động sản: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ
cho nhu cầu mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân
hoặc hộ gia đình. Đây là khoản vay có giá trị lớn, thời hạn cho vay dài và tài
sản đảm bảo thường là tài sản hình thành từ vốn vay. Nếu như trong cho vay
tiêu dùng thông thường thì thu nhập tương lai của người vay là yếu tố quan
trọng để ngân hàng quyết định có cho vay hay không thì trong cho vay nhà ở,
giá trị và tình hình biến động giá của tài sản được tài trợ là yếu tố mà ngân
hàng rất quan tâm. Bởi vì khoản tín dụng tài trợ cho loại tài sản này có giá trị
lớn, nên sự biến động theo hướng không có lợi của nó sẽ dẫn tới những thiệt
hại rất lớn cho ngân hàng.
TDTD phi cư trú – TDTD thông thường: Là khoản cho vay nhằm tài trợ
cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe, phương tiện, đồ dùng gia đình, chi
phí học hành, giải trí, y tế và du lịch… Đặc điểm của những khoản tín dụng
này thường có quy mô nhỏ, thời gian tài trợ ngắn. Do đó mà mức độ rủi ro đối
với ngân hàng là thấp hơn những khoản TDTD bất động sản. Đối với loại cho
vay này, yếu tố quyết định cho vay hay không là khả năng trả nợ của người
vay, sau đó mới xem xét đến giá trị tài sản đảm bảo.
1.1.3.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
TDTD trả góp: Đây là hình thức TDTD trong đó người đi vay trả nợ
(gồm cả tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần theo những kì hạn trả nợ



9
nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức cho vay này thường được áp
dụng cho các khoản vay có giá trị lớn, thu nhập định kì của người vay không
đủ để thanh toán hết 1 lần số nợ vay.
Phương thức này thường đòi hỏi khách hàng phải ứng trước một phần
giá trị của tài sản. Tùy theo loại tài sản mà số tiền ứng trước có thể thay đổi.
Khách hàng vay cũng có thể trả nợ trước hạn mà không bị phạt trả trước hạn
sau khi đạt tới thời gian tối thiểu theo quy định của hợp đồng tín dụng
TDTD phi trả góp: Đây là hình thức tài trợ mà theo đó số tiền vay của
khách hàng sẽ được thanh toán một lần khi hợp đồng tín dụng đến hạn. Đặc
điểm của các khoản tín dụng này thường có quy mô nhỏ, thời hạn cho vay
ngắn. Ngân hàng áp dụng hình thức này bởi đây là biện pháp sẽ giúp ngân
hàng không mất nhiều thời gian như khi phải tiến hành thu nợ làm nhiều kỳ,
Trong thực tế, khoản TDTD cấp theo hình thức này là rất ít vì hầu hết nguồn
thu nhập của khách hàng phát sinh hàng tháng nên việc trả nợ thường được
thực hiện vào định kì hàng tháng hay hàng quý.
TDTD tuần hoàn: là phương thức TDTD theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được thấu chi dựa
trên tài khoản vãng lai. Trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ
vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho
phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn
mức tín dụng cho trước.
1.1.3.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
TDTD trực tiếp: Đây là hình thức trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc
với khách hàng của mình, việc thu nợ cũng được tiến hành trực tiếp bởi chính
ngân hàng.
Hình thức tài trợ này có ưu điểm là rất linh hoạt vì có sự đàm phán trực
tiếp giữa ngân hàng và khách hàng, quyết định cho vay hay không hoàn toàn



10
do ngân hàng quyết định (tháng, quý...), ngoài ra ngân hàng có thể sử dụng
triệt để trình độ kiến thức kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Hơn nữa, khi
khách hàng quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có nhiều khả năng họ sẽ sử dụng
các dịch vụ khác của ngân hàng như mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ
chuyển tiền....và như vậy quyền lợi của cả hai phía ngân hàng và khách hàng
đều được thỏa mãn trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp của cả hai bên.
TDTD gián tiếp: Đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng không trực
tiếp ký hợp đồng với người tiêu dùng, mà theo hình thức này ngân hàng sẽ ký
kết hợp đồng với chính nhà cung cấp, thực ra là mua những khoản nợ, để trên
cơ sở đó nhà cung cấp sẽ bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng. Hợp đồng
ký kết giữa ngân hàng và nhà cung cấp quy định rõ điều kiện bán chịu như:
đối tượng khách hàng được bán chịu, loại hàng được bán chịu, số tiền được
bán chịu...v.v. Thông qua những điều kiện đó mà nhà cung cấp sẽ thoả thuận
với khách hàng của mình về việc bán chịu hàng hoá.
Ưu điểm của phương thức giúp ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong
việc cấp tín dụng vì ngân hàng chỉ phải ký hợp đồng với chính nhà cung cấp
mà thôi. Đồng thời cấp tín dụng phương thức này cũng giúp ngân hàng giảm
thiểu rủi ro, ví dụ như nếu hợp đồng ký với nhà cung cấp có những điều kiện
ràng buộc (được truy đòi), thì khi người tiêu dùng không thanh toán cho ngân
hàng, ngân hàng có quyền truy đòi nhà cung cấp về khoản nợ trên (có được
nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng). Mặt khác, khi đã có hợp đồng ràng
buộc thì nhà cung cấp cũng phải cân nhắc trước quyết định có bán chịu hàng
hoá cho người tiêu dùng hay không (gián tiếp giúp ngân hàng thẩm định
khách hàng).
Bên cạnh những ưu điểm trên thì phương thức này cũng bộc lộ những
nhược điểm. Đó là, ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng mà
ngân hàng tài trợ, ngân hàng cũng phải đối mặt với tình trạng nhà cung cấp vì



11
muốn tiêu thụ được sản phẩm nên không xem xét kỹ lưỡng về khách hàng khi
tài trợ. Bởi vậy, chỉ những nhà cung cấp thật sự tin cậy thì ngân hàng mới ký
hợp đồng kiểu này, và những khoản nợ được mua theo điều kiện này cũng
được lựa chọn rất kỹ càng.
1.1.4. Vai trò của tín dụng tiêu dùng
 Đối với NHTM.
Cuộc cạnh tranh để giành thị phần thị trường ngày càng trở lên khốc
liệt, các ngân hàng thương mại không chỉ phải cạnh tranh với chính các ngân
hàng trong hệ thống, mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi
ngân hàng, trong khi đó thị trường tín dụng tiêu dùng lại đang có xu thế lên
cao. Do vậy, các ngân hàng đã và đang hướng mục tiêu của mình vào lĩnh vực
này, và tín dụng tiêu dùng đã trở thành một loại hình sản phẩm phổ biến trong
các ngân hàng thương mại, một loại sản phẩm mang lại thu nhập tương đối
cao trong tổng doanh thu của các ngân hàng.
Mặc dù các khoản tài trợ theo hình thức cho vay tiêu dùng là nhỏ,
nhưng số lượng các khoản này lại rất lớn (đối tượng có nhu cầu vay tiêu
dùng bao gồm tất cả các thành phần trong xã hội), vì thế tổng quy mô tài trợ
là rất lớn. Bên cạnh đó, lãi suất của các khoản tài trợ theo hình thức này là khá
cao (bởi người nhận tài trợ họ chỉ quan tâm đến thoả mãn nhu cầu trước mắt
mà họ được hưởng, họ không mấy quan tâm đến lãi suất phải trả) nên đã
mang lại cho ngân hàng một tỷ suất lợi nhuận tương đối lớn trong tổng lợi
nhuận của ngân hàng. Đặc biệt, với ngân hàng có quy mô nhỏ, uy tín chưa
cao...vv, khó có thể cạnh tranh được với các ngân hàng có quy mô lớn, uy tín
cao trong việc giành những khách hàng lớn (thường là các tổ chức mà nhu cầu
vay vốn đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh), thì thị trường tín dụng
tiêu dùng là vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng này.
 Đối với người tiêu dùng.



12
TDTD có tác dụng đặc biệt với những người có thu nhập thấp và trung
bình. Thông qua nghiệp vụ TDTD, họ sẽ được hưởng các dịch vụ, tiện ích
trước khi có đủ khả năng về tài chính như mua sắm các hàng hoá thiết yếu có
giá trị cao như nhà cửa, xe hơi… hay trong trường hợp chi tiêu cấp bách như
nhu cầu về y tế.
Có thể nói người tiêu dùng là người được hưởng trực tiếp và nhiều nhất
lợi ích mà hình thức cho vay này mang lại trong điều kiện họ không lạm dụng
chi tiêu vào những việc không chính đáng vì khi đó sẽ làm giảm khả năng tiết
kiệm và chi tiêu trong tương lai.
 Đối với nền kinh tế - xã hội.
Sự sung túc của một nền kinh tế được thể hiện rõ qua mức cầu về hàng
hoá tiêu dùng của dân cư. Mức cầu đó chính là số lượng và mức độ của các
nhu cầu có khả năng thanh toán. Việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng
của các NHTM sẽ làm tăng đáng kể những nhu cầu có khả năng thanh toán đó
hay nói cách khác đây chính là một giải pháp hữu hiệu để kích cầu và qua đó
làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn.
Khi sức mua của người tiêu dùng tăng lên thị trường hàng hoá tiêu
dùng cũng theo đó mà trở nên sôi động hơn, góp phần quan trọng trong việc
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng sẽ đạt được các mục tiêu kinh tế – xã
hội khác như giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập
cho người lao động, giảm bớt các tệ nạn xã hội, cải thiện và nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người dân. Vì vậy mà tín dụng ngân hàng ngày càng
đóng vai trò quan trọng hơn đối với nền kinh tế và luôn là mối quan tâm của
toàn xã hội.


13
1.2. Rủi ro tín dụng tiêu dùng của ngân hàng thương mại

1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng tiêu dùng
RRTD là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho
một khách hàng, hay có thể hiểu là khả năng khách hàng không trả được nợ
theo hợp đồng tín dụng. Xét về khía cạnh của ngân hàng thì RRTD đồng
nghĩa với thu nhập dự tính của ngân hàng từ các tài sản có sinh lời không
được hoàn trả đầy đủ cả về mặt số lượng và thời hạn.
Theo Ủy ban Basel thì “RRTD là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên
đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản
đã thỏa thuận”. Cũng theo Ủy ban này, một định nghĩa khác được nêu ra là
“Rủi ro thất thoát đối với một NH là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp
đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào
đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả gốc và/hoặc lãi”
Theo World Bank: “RRTD tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ
hơn là không chi trả được toàn bộ, điều này gây ra sự cố đối với dòng chu
chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng”.
Ở Việt Nam, căn cứ vào Khoản 1, Điều 2 trong quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD thì :

“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong
hoạt động ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Như vậy, có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về RRTD, song các
quan niệm về RRTD đều hội tụ với nhau về bản chất, đó là: RRTD là khả
năng (xác suất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NH phải gánh chịu do
khách hàng vay vốn thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả
được nợ vay (gồm gốc và/hoặc lãi). RRTD có thể gây tổn thất về tài chính
cho ngân hàng đó là làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của



14
vốn; trong trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua lỗ, nếu ở mức độ cao hơn
có thể dẫn đến phá sản ngân hàng.
TDTD là một trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng nên nó cũng
tiềm ẩn những RRTD tiềm tàng. Từ định nghĩa RRTD ta có thể định nghĩa
RRTD tiêu dùng như sau: “Rủi ro tín dụng tiêu dùng là những thiệt hại, mất
mát mà ngân hàng phải chịu do các cá nhân, hộ gia đình vay tiêu dùng của
ngân hàng không trả nợ đúng hạn, không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết
trong hợp đồng tín dụng với bất cứ lí do nào”.
Trong điều kiện cạnh tranh việc cung cấp dịch vụ tài chính – ngân hàng
gia tăng và bị áp lực từ nhiều phía, do đó có thể nói rằng tình trạng rủi ro và
đặc biệt là RRTD của ngân hàng đang được hết sức chú trọng.
1.2.2. Nguyên nhân và hậu quả của rủi ro tín dụng trong hoạt động tín
dụng tiêu dùng
1.2.2.1. Nguyên nhân
RRTD gây ra cho ngân hàng rất nhiều thiệt hại, cả về tài chính lẫn uy
tín. RRTD xảy ra do 4 nhóm nguyên nhân chính là nguyên nhân khách quan
từ môi trường bên ngoài, nguyên nhân từ phía khách hàng, nguyên nhân từ tài
sản đảm bảo và nguyên nhân do chính ngân hàng tạo nên.
1.2.2.1.1. Nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài
 Môi trường kinh tế có những biến động đối nghịch với mục tiêu
phát triển của mỗi ngân hàng .
Bất kỳ nền kinh tế nào cũng có chu kỳ phát triển theo một ngưỡng nhất
định. Chu kỳ kinh tế có thể lặp lại vài năm một lần, dài hay ngắn tùy thuộc
vào năng lực phát triển của từng nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang tăng
trưởng ổn định, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có khả năng trả nợ
cho ngân hàng. Lúc này nhu cầu vay phục vụ sản xuất, tiêu dùng càng tăng,
đồng thời ngân hàng cũng cho vay với điều kiện lỏng hơn, do đó mức độ rủi



15
ro của ngân hàng sẽ tăng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái dẫn đến sản
xuất đình trệ, năng lực tài chính suy giảm, tất yếu ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ của khách hàng, dẫn tới khả năng gặp rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Sức khỏe của nền kinh tế thể hiện thông qua các chỉ số kinh tế vĩ mô,
như tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, … tất cả đều có những tác động
tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng như
NH, thông qua đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng, gây ra
RRTD đối với ngân hàng. Cụ thể là lạm phát tăng cao trong nhiều kỳ liên
tiếp, làm giá cả các loại hàng hóa khác tăng theo, ảnh hưởng đến chi phí đầu
vào của doanh nghiệp, lợi nhuận giảm, làm giảm khả năng trả nợ của khách
hàng. Hoặc tỷ giá biến động sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, làm tăng chi phí đầu vào hoặc giảm giá đầu ra của doanh nghiệp, qua đó
làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
Môi trường kinh tế, chính trị ổn định là tiền đề để doanh nghiệp phát
triển lành mạnh, bền vững, trong đó có ngân hàng. Hiện nay môi trường vĩ
mô chưa thật ổn định nên rủi ro trong hệ thống ngân hàng còn rất lớn.
 Ảnh hưởng của nhân tố công nghệ.
Yếu tố công nghệ hiện nay đang là yếu tố rất quan trọng quyết định đến
sức cạnh tranh trên thị trường cuả mỗi ngân hàng. Trên thực tế, sự thay đổi của
công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và tới cả quá trình cấp tín dụng. Qua đó góp phần làm hạn chế rủi ro trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động TDTD nói riêng.
 Ảnh hưởng của môi trường chính trị pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành kinh doanh chịu sự
giám sát chặt chẽ của luật pháp. Môi trường pháp lý sẽ mang đến cho ngân
hàng một loạt các cơ hội mới cũng như thách thức mới. Điều này được thể
hiện rõ trong hoạt động tín dụng, như việc dỡ bỏ các hạn chế trong cho vay



16
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chính sách đầu tư, tiết kiệm của Chính
phủ trong từng thời kỳ...
Sự thiếu chính xác trong dự đoán môi trường luật pháp trong hoạt động
tín dụng cũng đẩy ngân hàng vào tình trạng rủi ro, như dự đoán sai khu vực
kinh tế được ưu tiêu đầu tư, hay bị hạn chế,… dẫn đến tình trạng sai lầm trong
chính sách huy động vốn và trong chính sách cho vay.
Môi trường chính trị pháp luật này không chỉ bó gọn trong phạm vi Luật
các tổ chức tín dụng, mà còn liên quan tới Luật dân sự … và cũng không chỉ bó
gọn trong phạm vi một quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế nhất là
trong điệu kiện kinh tế hội nhập như hiện nay. Đồng nghĩa với đó là rủi ro sẽ
không còn là ở mỗi ngành ngân hàng mà lan tới tầm quốc gia, khu vực.
 Môi trường địa lí
Các vùng địa lí khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau như tài
nguyên, giao thông, địa hình, tập quán, cách thức giao tiếp, nhu cầu về hàng
hoá dịch vụ nói chung và sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng nói riêng.
Chính những điều kiện đó hình thành các tụ điểm dân cư, trung tâm thương
mại, du lịch hoặc trung tâm sản xuất…
Rủi ro trong hoạt động tín dụng do môi trường địa lí mang đến rất khó
có thể nắm bắt, dự đoán và nếu có thể dự đoán dược thì cũng vẫn có thể bị tổn
thất rất cao như sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự khan hiếm nguồn tài
nguyên… Những doanh nghiệp hoạt động trong những khu vực này luôn chịu
sự cạnh tranh gay gắt, những nguy cơ rủi ro rất cao.
 Môi trường văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến thói quen và xu hướng tiêu
dùng, tiết kiệm của người dân. Điều này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến
hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của NHTM.

Ngoài ra những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh,
chiến tranh, tai nạn... tất cả đều gây ảnh hưởng đến khách hàng, có thể làm



17
cho các cá nhân giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.
1.2.2.1.2 Nguyên nhân từ phía người vay
Nguyên nhân từ phía người vay có thể dẫn đến rủi ro trong TDTD là:
+ Do tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, hoặc mâu thuẫn trong gia đình.
+ Người vay bị thất nghiệp tạm thời, hoặc lâu dài ảnh hưởng đến thu nhập.
+ Do người đi vay hoạch định ngân sách không chính xác, hoặc có thể
do người đi vay dụng tiền vay sai mục đích, hoặc chưa có kinh nghiệm trong
việc tổ chức sản xuất, quản lý kinh doanh… dẫn đến trả nợ không đúng hạn
cho ngân hàng.
RRTD còn liên quan tới đạo đức của người sử dụng vốn vay ngân
hàng. Họ sử dụng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt vốn tín dụng của ngân
hàng thông qua việc tạo ra những dự án ảo. Những trường hợp này hiện nay
đang tồn tại rất nhiều, đòi hỏi phải nâng cao công tác thẩm định khách hàng
nhằm hạn chế rủi ro.
Trong tương lai nhu cầu vay tiêu dùng trong dân cư có khả năng tăng
mạnh, do mức sống của các tầng lớp dân cư ngày càng tăng cao cả về vật chất
lẫn tinh thần. Vì vậy, bản thân các ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng
thích hợp để hạn chế rủi ro trong cho vay, đồng thời góp phần nâng cao hiệu
quả tín dụng.
1.2.2.1.3 Về phía ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ phía người vay, từ môi trường
khách quan có thể gây ra tình trạng RRTD, còn có những nguyên nhân chủ
quan từ phía các ngân hàng:
 Do chính sách và quy trình tín dụng của ngân hàng không phù hợp
với đặc điểm, thực trạng của nền kinh tế và chính sách phát triển kinh tế của
Chính phủ. Chính sách tín dụng được hiểu đầy đủ bao gồm định hướng chung
trong cho vay, chế độ tín dụng ngắn, trung và dài hạn, các quy định về bảo



18
đảm tiền vay, về loại khách hàng và ngành nghề được ưu tiên, quy trình xét
duyệt cho vay…quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, tăng trưởng, bỏ qua sư
an toàn trong hoạt động kinh doanh. Một chính sách không đầy đủ đúng đắn
và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến
việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn để
gian lận chiếm đoạt vốn bất hợp pháp… cuối cùng là không đem lại hiệu quả
kinh tế, nguy cơ rủi ro cao.
 Khâu phân tích thẩm định còn yếu: Đây là một trong những nguyên
nhân trực tiếp gây ra RRTD, có thể do cán bộ tín dụng năng lực còn hạn chế,
chưa được đào tạo đầy đủ, ít kinh nghiệm trong ngành nghề mà mình tài trợ,
ngoài ra cũng có thể do vấn đề đạo đức không tốt của cán bộ thẩm định như
không trung thực, thiếu trách nhiệm, cấu kết với người đi vay để chiếm đoạt
vốn của ngân hàng.
 Do ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ khâu
bảo đảm tín dụng. Nguyên nhân có thể do cán bộ thẩm định đánh giá sai giá
trị tài sản đảm bảo bao gồm cả giá trị hiện tại và trong tương lai, hoặc lại quá
tin tưởng vào tài sản đảm bảo mà coi nhẹ công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát
thực hiện dự án, phòng ngừa rủi ro, không có những biện pháp kịp thời nhằm
hạn chế khoản vay có thể dẫn tới nợ quá hạn (NQH).
Các ngân hàng thường đứng trước một mâu thuẫn đòi hỏi sự linh hoạt
trong quá trình giải quyết, đó là mở rộng tín dụng để tăng lợi nhuận, đồng thời
hạn chế RRTD . Nhiều ngân hàng ra sức tăng mức dư nợ tín dụng mà bỏ qua
hoặc hạ thấp những tiêu chuẩn cho vay. Hay nói một cách khác là ngân hàng
chỉ chạy theo số lượng tín dụng mà không coi trọng chất lượng tín dụng, do
đó rất nguy hiểm đối với công tác tín dụng của ngân hàng nói chung và tín
dụng tiêu dùng nói riêng.
 Chất lượng và số lượng thông tin.



19
Một yếu tố luôn ảnh hưởng tới khâu thẩm định của cán bộ tín dụng đó
là chất lượng và số lượng thông tin. Bởi vì bản thân hoạt động ngân hàng luôn
trong tình trạng thông tin không cân xứng, cho nên đòi hỏi công tác thẩm định
phải sàng lọc thông tin một cách kỹ càng, chính xác. Các ngân hàng chưa
được cung cấp đầy đủ và chính xác, mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng CIC
đã được thành lập và đi vào hoạt động nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao,
chưa cập nhật. Trong nhiều trường hợp ngân hàng không nắm được đầy đủ
thông tin về quan hệ tín dụng của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác
nên có thể phán quyết sai lầm khi cho vay.
 Cho vay quá tập trung vào một đối tượng, một khu vực, một ngành.
Ngoài các nguyên nhân gây ra RRTD trên, Ngân hàng cũng có thể gặp
RRTD do cho vay quá tập trung vào một đối tượng, một khu vực, một ngành
nghề nên đã hạn chế sự linh hoạt của ngân hàng trước những biến động của thị
trường cạnh tranh, dễ gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có thể do công tác thiết kế
sản phẩm tín dụng không phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của người vay, hoặc
do vẫn còn nặng tính chất quan liêu, quan cách trong hoạt động giao dịch với
khách hàng, hoặc có thể do cán bộ ngân hàng vi phạm đạo đức nghề nghiệp,
thông đồng với khách hàng, nhận hối lộ, cố tình làm sai nguyên tắc.
1.2.2.1.4 Nguyên nhân RRTD từ phía các tài sản đảm bảo (TSĐB).
 Sự sụt giảm giá trị của TSĐB.
- Do tác động của yếu tố mang tính vĩ mô như biến động của tình hình
giá cả thị trường nên các cán bộ thẩm định cần phải đánh giá chính xác giá trị
của TSĐB qua các thời kỳ biến động khác nhau, nếu không sẽ dẫn tới tình
trạng cấp tín dụng vượt mức so với quy định an toàn trong việc cấp tín dụng.
- Sự sụt giảm giá trị của TSĐB cũng có thể do sự hao mòn trong quá
trình người vay sử dụng TSĐB. Các tài sản nói chung luôn chịu tác động của
thời gian, của môi trường đòi hỏi công tác kiểm tra giám sát chặt chẽ để hạn



20
chế người vay sử dụng tài sản sai mục đích hoặc sử dụng vượt quá hạn mức
cho phép.
 Ngân hàng gặp rủi ro trong quá trình nắm giữ và xử lý TSĐB. Do
người vay cầm cố tài sản cho người khác, hoặc có thể do người vay cố tình
gây khó khăn trong công tác phát mại TSĐB, khiến cho ngân hàng không thể
thu hồi vốn vay, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động chung của toàn bộ ngân
hàng. Khi đó rủi ro không còn trong phạm vi một khoản vay mà lan rộng ra
phạm vi của cả bộ máy hoạt động kinh doanh.
 Đối với các trường hợp bảo lãnh: Ngân hàng có thể gặp rủi ro khi
người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thanh toán do gặp khó khăn về
vấn đề tài chính. Điều này gây ra sự ứ đọng vốn trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, rộng hơn đó là nguy cơ rủi ro cao.
Ngoài ra còn có nguyên nhân là do sự không đồng bộ về các văn bản
pháp lý có liên quan đến TSĐB, gây khó khăn cho ngân hàng trong trường
hợp phát mại TSĐB và xử lý sự cố, qua đó hạn chế vị thế pháp lý của ngân
hàng rong xử lý tài sản.
1.2.2.2. Hậu quả của rủi ro tín dụng tiêu dùng đối với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng
Làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận của ngân hàng: Khi RRTD xảy ra,
ngân hàng sẽ mất chi phí cũng như thời gian trong việc quản lý các khoản nợ
vay chưa thu hồi được. Trong trường hợp khách hàng mất khả năng trả nợ,
ngân hàng phải xử lý tài sản đảm bảo và tốn chi phí cho khoản này. Chi phí
tăng sẽ dẫn tới làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng: Nguồn vốn ngân hàng
cho vay có nguồn gốc chủ yếu là từ nguồn tiền gửi của các chủ thể tạm thời
thừa vốn và ngân hàng phải hoàn trả vô điều kiện cho họ khi tới hạn. Việc
RRTD tiêu dùng xảy ra sẽ dẫn tới ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong hoàn



21
trả các khoản tiền gửi tới hạn. Bên cạnh đó, RRTD tiêu dùng gây ảnh hưởng
tới kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, điều này làm hạn chế khả năng
thanh toán của ngân hàng.
Gây ảnh hưởng tới uy tín và hoạt động kinh doanh của ngân hàng: Khi
một ngân hàng gặp nhiều rủi ro, khách hàng sẽ mất lòng tin vào sự hoạt động
hiệu quả của ngân hàng đó. Rủi ro khiến khách hàng e dè hơn trong việc tới
gửi tiền tại ngân hàng. Đây là một vấn đề hết sức nghiêm trọng vì ngân hàng
là loại hình doanh nghiệp kinh doanh dựa trên uy tín và lòng tin. Thiếu hụt đi
những khoản tiền gửi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, trực tiếp tác động tới khả năng thanh khoản, khả năng cho
vay... gây suy giảm thị phần cũng như quy mô hoạt động của ngân hàng và
thậm chí là dẫn tới phá sản.
Hậu quả của RRTD đối với ngân hàng là rất lớn, vì vậy mà phát hiện
sớm để có các biện pháp xử lý khi có dấu hiệu rủi ro là vấn đề mang tính sống
còn với các NHTM.
1.2.3. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng tiêu dùng
Trong quá trình hoạt động kinh doanh luôn tiềm ẩn rủi ro, và thường có
một vài dấu hiệu để nhận biết RRTD tiêu dùng. Có dấu hiệu thì biểu hiện mờ
nhạt, có dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có biện pháp để nhận
ra những dấu hiệu ban đầu của khoản vay có vấn đề và có hành động cần thiết
để ngăn ngừa, hạn chế, xử lý chúng. Nhưng cần phải chú ý, vì các dấu hiệu
này đôi khi chỉ được nhận ra trong cả một quá trình chứ không hẳn là một
thời điểm. Do vậy cán bộ tín dụng cần phải nhận biết chúng một cách có hệ
thống.
Vậy dấu hiệu nhận biết RRTD tiêu dùng có thể bao gồm:
 Phát hành séc quá hạn mức, hoặc rút tiền quá hạn mức thấu chi.
 Giảm sút số dư tài khoản tiền gửi một cách bất thường và không có



22
lý do. Nếu khách hàng có mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng hoặc áp
dụng hình thức trả lương qua tài khoản ngân hàng thì sự sụt giảm này là một
trong những dấu hiệu nhận biết RRTD tiêu dùng.
 Vi phạm những cam kết trong hợp đồng tín dụng
 Giá trị tài sản đảm bảo bị giảm sút đáng kể hoặc có thể mất hoàn
toàn giá trị so với định giá khi cho vay.
 Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi mà không có lời giải thích
rõ ràng, hợp lý. Thanh toán chậm trong nhiều kì liên tiếp.
 Có biểu hiện che giấu, không tích cực hợp tác với ngân hàng trong
việc giải quyết các vấn đề phát sinh.
 Phát sinh các vấn đề tranh chấp về tài sản đảm bảo dẫn tới việc ngân
hàng không thể xử lý tài sản đảm bảo trong trường hợp cần thiết.
 Tai nạn, ốm đau dẫn tới người vay có thể không thể trả được nợ.
 Người vay mất việc làm do lí do chủ quan hoặc khách quan.
 Nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái dẫn tới có thể người vay
mất khả năng trả nợ cho ngân hàng.
 Có sự thay đổi trong chính sách, pháp luật của nhà nước gây ảnh
hưởng tiêu cực tới thu nhập của người lao động.
 Sự đánh giá phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách
hàng như đánh giá quá cao năng lực của khách hàng. Đây có thể là do sự yếu
kém trong trình độ của cán bộ ngân hàng, cũng có thể do sự thông đồng giữa
cán bộ thẩm định và khách hàng...
Ngoài ra còn có những dấu hiệu phi tài chính khác: những vấn đề về
đạo đức, dáng vẻ nhà kinh doanh, sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh
doanh, lưu giữ hàng hóa quá nhiều, hàng hóa hư hỏng, lạc hậu… Trong tất cả
các dấu hiệu đó dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa nhất là chậm thanh toán cho
khoản vay.



23
Để nhận biết RRTD tiêu dùng, các ngân hàng luôn phải làm tốt công
tác nhận biết và đo lường rủi ro thông qua các chỉ tiêu, nhóm chỉ tiêu để kịp
thời phát hiện và giải quyết các rủi ro có thể xảy tới với ngân hàng.
1.2.4. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng tiêu dùng
Rủi ro gây thiệt hại lớn cho bất cứ ai phải đương đầu với nó. Muốn tồn
tại và phát triển, các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng cần ý
thức được rằng rủi ro trong kinh doanh là một điều tất yếu, nó có thể xuất
hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau trong các khâu khác nhau. Vì vậy trong
kinh doanh ngân hàng nhất thiết phải đo lường rủi ro. Có nhiều chỉ tiêu để
đánh giá RRTD và RRTD tiêu dùng, tuy nhiên các nhóm chỉ tiêu quan trọng
nhất là nhóm chỉ tiêu về NQH, nhóm chỉ tiêu về nợ xấu, các chỉ tiêu về tình
hình rủi ro mất vốn và khả năng bù đắp rủi ro.
1.2.4.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá về nợ quá hạn trong tín dụng tiêu dùng
1.2.4.1.1. Chỉ tiêu dư nợ quá hạn tín dụng tiêu dùng
Nợ quá hạn TDTD là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc
và/hoặc lãi đã quá hạn. Đây là một chỉ tiêu, thước đo quan trọng đánh giá
RRTD tiêu dùng của một ngân hàng. Dư nợ quá hạn càng cao thì RRTD và
những thiệt hại có thể xảy đến cho ngân hàng càng lớn. Càng nhiều dư nợ
không thu hồi được đúng hạn hoặc thất thoát trong khi ngân hàng vẫn luôn
phải trả lãi cho các khoản huy động khi đến hạn sẽ là gánh nặng cho ngân
hàng, gây ảnh hưởng tiêu cực tới kế hoạch sử dụng vốn và khả năng tạo tiền
của ngân hàng. Chính vì thế mà dư nợ quá hạn TDTD là một chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá rủi ro của ngân hàng.
1.2.4.1.2. Tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng tiêu dùng
Tỷ lệ nợ quá hạn TDTD là một chỉ tiêu đánh giá về RRTD của một
ngân hàng, bằng thương số của nợ quá hạn TDTD so với dư nợ TDTD.
Tỷ lệ nợ quá hạn TDTD =


Nợ quá hạn TDTD

x 100


24
Dư nợ TDTD
Chỉ tiêu có ý nghĩa là cứ trong 100 đồng dư nợ TDTD thì có bao nhiêu
đồng dư NQH. Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy quy mô khoản vay có vấn đề của
ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ số nợ có khả năng không thu hồi
được tăng lên cũng như chi phí phải bỏ ra để giám sát khoản NQH cũng tăng
lên. Nếu tỷ lệ này quá lớn chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng kém,
ngân hàng cần xem xét lại khả năng đánh giá các khoản TDTD của mình,
đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay, đặc biệt là xem xét lại trình độ và đạo
đức của cán bộ thẩm định.
Ta cũng có thể xem xét thêm một chỉ tiêu đó là tỷ lệ NQH TDTD so
với tổng dư nợ cho vay.
Nợ quá hạn TDTD
Dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng dư nợ cho vay của ngân hàng thì có
Tỷ lệ nợ quá hạn TDTD =

bao nhiêu đồng NQH TDTD. Qua đó có thể đánh giá mức độ RRTD tiêu
dùng trong tổng thể hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao
chứng tỏ RRTD tiêu dùng càng lớn.
1.2.4.1.3. Cơ cấu nợ quá hạn tín dụng tiêu dùng
Cơ cấu nợ quá hạn TDTD là chỉ tiêu quan trọng giúp ngân hàng nhìn
nhận được nguyên nhân chủ yếu gây ra RRTD cho ngân hàng.
Cơ cấu nợ quá hạn TDTD theo thời hạn vay
Theo phương thức này, NQH được phân theo thời hạn của khoản vay

đó là ngắn, trung và dài hạn. Từ đó, ngân hàng sẽ xác định được RRTD tiêu
dùng đang tiềm ẩn ở những kì hạn nào, chủ yếu ở kỳ hạn ngắn, trung hay dài
hận để đưa ra được những biện pháp thích hợp.
Cơ cấu nợ quá hạn TDTD theo nguyên nhân
Nguyên nhân của RRTD tiêu dùng được phân chia theo các chủ thể gây
ra như nguyên nhân từ phía khách hàng, nguyên nhân từ tài sản đảm bảo,


25
nguyên nhân do chính ngân hàng hay nguyên nhân xuất phát từ điều kiện
khách quan. Cơ cấu này giúp ngân hàng phát hiện nguồn nào gây ra nhiều rủi
ro nhất, do nguyên nhân chủ quan hay khách quan, từ đó đưa ra biện pháp
kiểm soát, ngăn chặn, hạn chế NQH phát sinh nhằm hạn chế RRTD tiêu dùng
cho ngân hàng.
1.2.4.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá tình hình nợ xấu tín dụng tiêu dùng
1.2.4.2.1. Dư nợ xấu tín dụng tiêu dùng
Nợ xấu là những khoản nợ đã quá hạn từ 90 ngày trở lên và/hoặc có
bằng chứng rằng khoản nợ không có khả năng được hoàn trả trong tương lai.
Trong TDTD, một khoản nợ chưa quá hạn cũng có thể bị xếp vào nợ xấu
trong trường hợp khách hàng mất khả năng lao động, chết, vào tù,…Dư nợ
xấu càng cao thì rủi ro cho ngân hàng càng lớn, chi phí ngân hàng phải bỏ ra
cho việc thu hồi khoản vay sẽ tăng lên đáng kể.
Tại Việt Nam, theo quyết định 493 của NHNN về phân loại nợ thì dư
nợ được phân thành 5 nhóm:
 Nhóm 1( Nợ đủ tiêu chuẩn): là các khoản nợ trong hạn là ngân hàng
đánh giá có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn hoặc các
khoản NQH dưới 10 ngày mà có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi quá
hạn và thu hồi đủ gốc và lãi còn lại khi tới hạn.
 Nhóm 2( Nợ cần chú ý): là các khoản nợ qua hạn từ 10 tới 90 ngày
và các khoản nợ điều chỉnh kì hạn lần đầu

 Nhóm 3( Nợ dưới tiêu chuẩn): là các khoản NQH từ 91 tới 180 ngày
và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu
 Nhóm 4(Nợ nghi ngờ): Là các khoản NQH từ 181-360 ngày, các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày, khoản nợ
cơ cấu lại lần 2.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): Là các khoản NQH trên 360


×