Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Bài 5 TƯỞNG hồ CHÍ MINH về ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.2 KB, 38 trang )

Bài 5:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. Đặt vấn đề
Sự kiện Đảng ta ra đời ngày 03/02/1930 đã đi vào lịch sử Đảng ta và dân tộc
ta như một mốc son chói lọi, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trên con đường cách mạng
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; chấm dứt cuộc
khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước kéo dài suốt mấy chục năm. Từ đây,
con thuyền cách mạng Việt Nam đã có một tổ chức chặt chẽ, một đường lối lãnh
đạo thống nhất chèo lái vượt qua mọi thác ghềnh đi đến thắng lợi vinh quang, vì
mục tiêu độc lập dân tộc, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đây cũng chính là một trong những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho cách mạng Việt Nam, Người đã sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta.
Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác xây dựng Đảng để Đảng ta mãi
mãi là một Đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của
giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam; lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành
thành công sự nghiệp đổi mới trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, là
một vấn đề then chốt, là một nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta hiện nay.
II. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích
Bài giảng này giúp cho học viên:
- Về kiến thức:
+ Trình bày được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam.

1


+ Vận dụng những quan điểm đó trong quá trình xây dựng Đảng cộng sản
Việt Nam hiện nay.


- Về tư tưởng, thái độ:
+ Giúp học viên thấy được những đóng góp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với cách mạng Việt Nam, từ đó xây dựng tình cảm và niềm tin, sự kính trọng
đối với vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của cách mạng và dân tộc.
+ Giúp học viên củng cố niềm tin vào Đảng cộng sản Việt Nam, giữ vững
lập trường tư tưởng trước những thủ đoạn phá hoại Đảng của kẻ thù; tích cực tu
dưỡng bản thân để phấn đấu đứng trong hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Về kĩ năng:
+ Thu thập các tài liệu có liên quan để nghiên cứu vấn đề.
+ Vận dụng kiến thức của bài học để nghiên cứu những vấn đề có liên quan
ở bài học khác, môn học khác và trong cuộc sống.
2. Yêu cầu
- Học viên học tập với tình cảm và trách nhiệm cao nhất, ý thức học tập phải
nghiêm túc, chấp hành tốt kỷ luật.
- Đọc trước giáo trình, tài liệu; nghe, ghi chép và tích cực thảo luận nội dung
của bài học…
III. Nội dung và thời gian
1. Nội dung: gồm 3 phần (trọng tâm: phần II, trọng điểm: 2.2)
- Phần I: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- Phần II: Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS Việt Nam.
- Phần II: Một số vấn đề về đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
2. Thời gian: toàn bài là 6 tiết
- Thời gian lên lớp:
2


- Thời gian thảo luận, ôn luyện:
IV. Phương pháp

- Giáo viên: Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề...
- Học viên: Đọc tài liệu, nghe, ghi chép, thảo luận...
V. Giáo trình, tài liệu
- Giáo trình:
+ HĐTW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb CTQG, H, 2003 (Tái bản 2008).
- Tài liệu tham khảo:
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng trong
các trường đại học và cao đẳng), Nxb CTQG, H, 2006 (Tái bản 2008, 2010, 2011).
+ Tổng cục Chính Trị, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb QĐND, H, 2006.
+ Song Thành (Chủ biên), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb CTQG, H, 2010
+ Xây dựng Đảng, rèn luyện đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
QĐND, H, 2003.
+ Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 1 – 15.

3


I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
* Khái niệm về Đảng:
- Đảng: Theo Từ điển chính trị, Nxb Sự thật, 1962, “Đảng - Tổ chức chính
trị của những người cùng chung một tư tưởng, tổ chức này tập hợp những đại biểu
tích cực nhất của một giai cấp, thể hiện quyền lợi của giai cấp ấy và lãnh đạo giai
cấp ấy trong cuộc đấu tranh giai cấp”1.
- Đảng Cộng sản: Theo Giáo trình Chính trị học đại cương do Khoa Chính
trị, Học viện Báo chí và Tuyên truyền biên soạn, Nxb CTQG, H, 1999, “Đảng
Cộng sản là một Đảng Chính trị, đại diện cho lợi ích của giai cấp vô sản, đảng lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của mình, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc cách mạng XHCN và tiến lên xây

dựng chủ nghĩa xã hội”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (2011):
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.
1.1 Cơ sở lý luận
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học
thuyết của Mác, Ăngghen về Đảng Cộng sản. Mác, Ăngghen đã dành sự quan tâm
chủ yếu của mình vào vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển và các ông đã có những chỉ dẫn quý báu cho quá trình tổ chức, hoạt động
của các Đảng Cộng sản nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong sự nghiệp lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới: xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

1

Từ điển Chính trị, Nxb Sự thật, H, 1962, tr. 258

4


- Lênin nghiên cứu vấn đề thành lập Đảng trong điều kiện chủ nghĩa tư bản
đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Trong điều kiện mới, Người đã xây
dựng nên một học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
- Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng và phát triển tư tưởng, quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng Cộng sản và xây dựng nên lý luận về Đảng Cộng
sản ở một nước thuộc địa kém phát triển.
1.2. Cơ sở thực tiễn
- Qua nghiên cứu thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh nhân thấy
rằng: một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại của phong trào cách

mạng của nước ta là thiếu một tổ chức cách mạng có đường lối chính trị đúng đắn
và phương pháp cách mạng khoa học, phù hợp đủ sức tập hợp, tổ chức và lãnh đạo
các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống bọn đế quốc và phong kiến tay sai, giành lại
độc lập tự do cho Tổ quốc.
- Nghiên cứu phong trào cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh thấy rằng:
+ Công xã Pari (1871) thất bại cũng bởi giai cấp vô sản Pháp chưa có một
chính đảng cách mạng lãnh đạo.
+ Nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga (1917) là có sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga và của Lênin
vĩ đại.
+ Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (1919), cùng với hàng loạt các Đảng Cộng
sản khác trên thế giới và ở Đông Nam Á như ĐCS Indonexia (1920), ĐCS Trung
Quốc (1921), ĐCS Nhật Bản (1922), ĐCS Ấn Độ (1928), đặc biệt Người đã trực
tiếp tham gia sáng lập ĐCS Pháp (1920)... đã tác động ảnh hưởng rất lớn đến sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản.

5


II. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa
cách mạng Việt Nam đến thắng lợi
* Đây là quan điểm khẳng định vai trò quyết định của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam.
- Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”2. Người cũng nhấn mạnh:“Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân
toàn thế giới”3.

- Để hoàn thành sự nghiệp cách mạng to lớn đó, Hồ Chí Minh xác định
những yếu tố chủ quan và khách quan, bên trong và bên ngoài..., trong đó yếu tố
trước tiên và có ý nghĩa quyết định là phải có Đảng cách mạng lãnh đạo.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Người khẳng định: “Cách mệnh
trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận
động tổ chức nhân dân, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy”4.
* Vì sao Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách
mạng?
- Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định sự cần thiết phải thành lập Đảng của
giai cấp vô sản.
Xuất phát từ sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) là lãnh
đạo cách mạng vô sản thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, Mác – Ăngghen cho rằng: “Giai cấp vô sản muốn đủ mạnh và có thể giành
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 9, tr.314
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 12, tr.474
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 2, tr.267-268
3

6


được thắng lợi thì nó phải thành lập một Đảng đặc biệt khác với tất cả các Đảng
khác và đối lập với các Đảng khác, tự coi mình là Đảng của giai cấp”.
Lênin cũng nhấn mạnh: “Không có một tổ chức vững vàng lãnh đạo thì
không thể có phong trào cách mạng vững chắc được”. Do đó, giai cấp vô sản muốn

làm cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của đội tiền phong, bộ tham mưu của giai
cấp mình đó là Đảng Cộng sản.
- Đầu thế kỷ XX, việc thành lập các Đảng Cộng sản trên thế giới là một xu
thế tất yếu khách quan cho thắng lợi của mỗi nước: Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản
(1919), cùng với hàng loạt các Đảng Cộng sản khác trên thế giới và ở Đông Nam Á
như ĐCS Indonexia (1920), ĐCS Trung Quốc (1921), ĐCS Nhật Bản (1922), ĐCS
Ấn Độ (1928), đặc biệt Người đã trực tiếp tham gia sáng lập ĐCS Pháp (1920)...
- Từ thực tiễn đòi hỏi của cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX là cần thiết phải có một chính Đảng cách mạng, có đường lối lãnh đạo đúng
đắn để lãnh đạo cách mạng: Trước khi có Đảng đã có nhiều phong trào đấu tranh
theo các hệ tư tưởng khác nhau nhưng đều thất bại vì chưa có một tổ chức thống
nhất và không có một đường lối lãnh đạo đúng đắn.
- Từ sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam vào những năm đầu
thế kỷ XX, đặc biệt khi có ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc: Giai cấp công nhân
Việt Nam ra đời từ khi thực dân Pháp xâm lược, bắt đầu công cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất và ngày càng lớn mạnh và phát triển trong cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ 2. Đặc biệt khi Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt
Nam thì phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã chuyển dần từ tự phát sang
tự giác...
- Từ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam.
• Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời không phải vì lợi ích
của một nhóm người, mà trước hết để cứu lấy con Lạc cháu Hồng, vì toàn thể quốc
dân Việt Nam.
7


• Đảng có khả năng đề ra đường lối lãnh đạo đúng đắn để giáo dục giác ngộ
và tổ chức nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội mới.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân; là
cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, khó khăn. Do đó, quần chúng, nhân dân phải được

giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo thì mới phát huy được sức mạnh to lớn để đưa cách
mạng đến thành công. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò tập hợp, đoàn kết và
lãnh đạo toàn thể nhân dân để tiến hành cách mạng.
Người khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo
mới chắc chắn thắng lợi”5. Người nhấn mạnh: “Giai cấp mà không có đảng lãnh
đạo thì không làm cách mạng được”6.
• Đảng là cầu nối gắn kết chặt chẽ phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào cách mạng thế giới, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.
• Khi có chính quyền, nhân dân vẫn cần có sự lãnh đạo của Đảng. Người chỉ
rõ: Nếu không có nhân dân thì Đảng không có lực lượng, nếu không có Đảng thì
nhân dân không có người dẫn đường. Người nhấn mạnh: “Đánh đổ giai cấp địch
đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn hiều” 7.
Do đó, khi giành được chính quyền, nhân dân vẫn cần có sự lãnh đạo của Đảng và
Đảng cầm quyền càng phải “to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mệnh,
triệt để”8.
* Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng của cách mạng Việt Nam.
- Đảng được trang bị lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đây là học thuyết cách
mạng và khoa học nhất của thời đại. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Hồ
5

Hồ Chí Minh; Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 9, tr. 29
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 8, tr.295
7
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 9, tr.279
8
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 6, tr.174
6


8


Chí Minh khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”9.
- Đảng viên của Đảng là những phần tử ưu tú nhất, tiên tiến nhất của giai
cấp, của dân tộc.
Theo Điều 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) “Đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng
của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên
trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các
nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục
tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
- Đảng được nhân dân tin cậy, thừa nhận là lực lượng dẫn dắt họ đi tới ấm
no, hạnh phúc.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2/1951) của
Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: Sở dĩ cách mạng Việt Nam giành thắng lợi là nhờ
“Ta có một Đảng to lớn, mạnh mẽ. To lớn, mạnh mẽ vì có chủ nghĩa Mác – Lênin,
vì sự cố gắng không ngừng của toàn thể đảng viên, vì được toàn dân và toàn quân
thương yêu, tin cậy, ủng hộ”10.
* Những cống hiến về lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh cho việc xây
dựng Đảng ta
- Trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức và nhân sự cho sự ra đời
của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Trực tiếp lãnh đạo việc hợp nhất 3 tổ chức cộng sản thành chính Đảng duy
nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930).

9


Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 2, tr.268
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 6, tr.176

10

9


- Trực tiếp soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đó là Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng làm cho Đảng ngay từ
khi ra dời đã có đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo.
- Để giữ vững quyền lãnh đạo cách mạng của Đảng, Hồ Chí Minh thường
xuyên quan tâm rèn luyện, xây dựng Đảng ta về mọi mặt.
* Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh vai trò quyết định của
Đảng đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
- Trước khi ĐCS Việt Nam ra đời, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều phong trào
yêu nước, nhiều tổ chức chính trị đấu tranh chống thực dân Pháp như: phong trào
Cần Vương, Khởi nghĩa Yên Thế, Đông Du, Duy Tân, Đông kinh Nghĩa thục, Tâm
tâm xã, Việt Nam Quốc dân Đảng... Mặc dù cũng đã để lại một số thắng lợi vẻ
vang trong lịch sử, tuy nhiên tất cả các phong trào đấu tranh đó đều thất bại vì chưa
có một tổ chức lãnh đạo thống nhất, chưa có một đường lối lãnh đạo đúng đắn. Vì
vậy, cách mạng Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng về đường lối cứu nước.
- Tuy nhiên, khi ĐCS Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 với tổ chức chặt chẽ,
thống nhất, đường lối lãnh đạo đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo phát huy sức mạnh
đoàn kết toàn dân tộc, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác
ghềnh thẳng tới vinh quang.
+ Mới 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc tiến hành một cuộc cách
mạng long trởi, lở đất, giành chính quyền về tay nhân dân trong cách mạng tháng
Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước công

nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã
đập tan ách phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài gần 100
năm và xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam bước
sang kỷ nguyên mới – Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt
Nam từ thân phận của người nô lệ trở thành người chủ đất nước, người làm chủ vận
mệnh của mình...
10


+ Tiếp đó, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc trường trinh
kháng chiến kéo dài suốt mấy chục năm chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Đây là một cuộc chiến đấu không cân sức, bởi kẻ thù của chúng ta là những
tên đế quốc, thực dân xâm lược sừng sỏ, có tiềm lực quân sự và kinh tế mạnh nhất
thế giới lúc bấy giờ. Trong khi đó, Việt Nam chúng ta vẫn là một nước nông nghiệp
nghèo nàn lạc hậu. Như Hồ Chí Minh nói: Ngoài 25 triệu người dân giầu lòng yêu
nước, cùng 2,4 – 2,7 triệu tấn thóc mỗi năm, Việt Nam không có gì nhiều để so
sánh với bên đối chiến. Cho nên có thể nói đây là cuộc chiến tranh vệ quốc của
những người “chân trần, chí thép” trước một sức mạnh về kinh tế, quân sự khổng lồ
và khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại của kẻ thù.
Những với sự tài tình của Đảng ta, với đường lối chiến tranh nhân dân, phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn thể dân tộc đã làm nên những chiến công hiển
hách “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; làm cho kẻ thù với vũ khí trang bị và
công nghệ chiến tranh hiện đại đã thất bại nhục nhã trước gậy tầm vông, giáo mác
của ta, làm cho Việt Nam trở thành hiện tượng của thế kỷ XX...
+ Cùng với đó, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta gặt hái được những
thành công quan trọng trong công cuộc đổi mới vững bước trên con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
 Như vậy, từ lý luận đến thực tiễn đều chứng minh vai trò quyết định hàng
đầu của Đảng cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam và không có một tổ

chức nào có thể thay thế được. Mọi mưu toan nhằm hạ thấp, xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng đều là xuyên tạc lịch sử cách mạng dân tộc, trái với xu thế phát triển tất
yếu của cách mạng Việt Nam.
* Ý nghĩa của luận điểm:

11


- Luận điểm đã bổ sung và làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin.
- Đặt cơ sở cho việc tổ chức thành lập Đảng, góp phần giải quyết được yêu
cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam, khắc phục sự bế tắc của cách mạng.
- Củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò lãnh đạo của
Đảng.
- Trong giai đoạn hiện nay đề cao vai trò của Đảng là điều quan trọng hơn
lúc nòa hết nhằm chống lại các quan điểm sai trái muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng.
Trong thời gian gần đây, Quốc hội đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân vào
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đã có nhiều ý kiến trái chiều về Điều 4 của
Hiến pháp “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Một số ý kiến đòi bỏ điều 4 của Hiến pháp, thực ra là phủ nhân vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phi chính trị
hóa quân đội. Đây là những luận điểm phản động, sai trái.
2.2. Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
* Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật thành lập
Đảng Cộng sản.
- Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, ở các
nước tư bản phát triển, ĐCS ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác
– Lênin với phong trào công nhân.

+ Mác cho rằng, ĐCS ra đời là sản phẩm của sự kết hợp lý luận chủ nghĩa xã
hội khoa học với phong trào công nhân. Khi Mác qua đời, Lênin khẳng định, ĐCS
ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Và sau này các các học giả của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, ĐCS ra đời là sản
phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân.
12


+ Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân
chỉ có thể trở thành sức mạnh khi nó được giác ngộ lý luận: “Chỉ có Đảng nào có
lý luận tiền phong dẫn đường thì mới có khả năng làm tròn vài trò chiến sỹ tiên
phong”.
• Lý luận tiên phong đó chính là chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công
nhân tiếp nhân chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận của phong trào. Và chủ
nghĩa Mác – Lênin cần phong trào công nhân đề thực hiện chủ nghĩa của mình.
Lênin chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác cần phong trào công nhân với tư cách là lực lượng
để thực hiện chủ nghĩa của mình và phong trào công nhân cần chủ nghĩa Mác để
soi đường, dẫn lối đấu tranh”.
• Khi chủ nghĩa Mác – Lênin thâm nhập vào phong trào công nhân, định
hướng và dẫn dắt phong trào thì phong trào công nhân sẽ phát triển mạnh mẽ. Khi
phong trào phát triển đến độ nhất định, nó sẽ đòi hỏi phải có bộ tham mưu của nó –
tức là ĐCS ra đời để dẫn dắt phong trào.
- Theo Hồ Chí Minh, ĐCS Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Trong bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng (1960), Hồ Chí Minh khẳng
định, “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm
1930”11.
* Vì sao Hồ Chí Minh lại đưa ra luận điểm sáng tạo và phát triển này?
- Trước hết, Hồ Chí Minh là người có hiểu biết rất sâu sắc về chủ nghĩa Mác

– Lênin.
+ Theo Lênin, sự ra đời của các Đảng vô sản có quy luật chung, nhưng đặc
điểm của mỗi nước phải có con đường riêng biệt. Trong tất cả các nước chỉ có sự
kết hợp giữa CNXH với phong trào công nhân mới xây dựng được một cơ sở vững
chắc cho cả hai. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là sản phẩm của lịch sử,
11

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 10, tr.8

13


lại được thực hiện bằng con đường đặc biệt, tùy thuộc vào điều kiện không gian và
thời gian.
+ Chủ nghĩa Mác cũng chỉ ra rằng, giai cấp công nhân không thể xa rời dân
tộc mà phải tự mình vươn lên trở thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc
thì mới đưa cách mạng đến thắng lợi ngay trên Tổ quốc mình. Đây chính là những
tiền đề lý luận quan trọng của luận điểm này.
- Thứ hai là, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam,
hiểu đúng đắn về cách mạng Việt Nam.
+ Phong trào yêu nước có vị trí vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam.
• Phong trào yêu nước là cái trường tồn được hun đúc qua hàng ngàn năm
lịch sử của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là một truyền thống, một động
lực lớn của đất nước; phong trào yêu nước Việt Nam có từ rất sớm và phát triển
mạnh mẽ trong lịch sử dân tộc.
• Phong trào yêu nước là yếu tố có trước so với phong trào công nhân và cả
sự ra đời của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ khi thực
dân Pháp đặt ách thống trị lên đất nước ta và qua 2 lần khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp, nên còn ít về số lượng (theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc, khoảng 2%

dân số).
+ Phong trào yêu nước Việt Nam có số lượng đông đảo, quy mô rộng lớn, đa
dạng. Phong trào này lôi cuốn mọi gia cấp, tầng lớp tham gia.
• Phong trào nông dân (chiếm 90% dân số) là đồng minh tự nhiên của giai
cấp công nhân Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành chủ quân của
cách mạng.
• Những phong trào yêu nước của tiểu tư sản, trí thức thúc đẩy cho sự chuyển
hướng nhanh chóng của nhiều trí thức tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành
những nhà cách mạng tiền bối, góp phần tích cực thúc đẩy sự hình thành ĐCS.
14


• Tham gia vào phong trào yêu nước còn có các tầng lớp tư sản dân tộc,
những nhân sỹ yêu nước, một bộ phận quan lại phong kiến có tinh thần dân tộc
chống đế quốc thực dân. Đây là điểm khác biệt không giống các nước ở phương
Tây.
+ Phong trào yêu nước dẽ dàng kết hợp với phong trào công nhân vì hai
phong trào này có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho
dân tộc, xây dựng một đất nước hưng cường.
- Thứ ba là, sự kết hợp này sẽ tạo cơ sở vững chắc cho cả chủ nghĩa Mác –
Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước cùng phát triển.
+ Trước hết là phong trào yêu nước, bởi phong trào yêu nước Việt Nam lúc
này đang bế tắc, gặp chủ nghĩa Mác – Lênin giúp cho phong trào yêu nước vượt
qua giới hạn yêu nước truyền thống để trở thành chủ nghĩa yêu nước mới: Yêu
nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội. Chính sự kết hợp ấy tạo ra sự bùng nổ về lòng
yêu nước, trí thông minh, sự dũng cảm của mỗi con người cách mạng làm cho
phong trào yêu nước có sự chuyển biến về chất: Yêu nước là yêu CNXH, yêu
CNXH càng phải yêu nước, yêu dân.
+ Phong trào công nhân có lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin dẫn đường sẽ đưa
giai cấp công nhân dần dần ý thức được trách nhiệm giai cấp và trách nhiệm dân

tộc của mình, trở thành lực lượng tự giác, tự mình trở thành dân tộc. Phong trào
công nhân dù có tiên tiến nhất, nhưng nếu không gắn bó với phong trào yêu nước,
trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước thì cũng không mở rộng được cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.
+ Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh nhận thấy rằng, ở một nước thuộc địa, chủ
nghĩa Mác – Lênin phải được truyền bá vào phong trào công nhân, đồng thời vào
phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân đông đảo, có như vậy nó mới có thể
cắm rễ vào mảnh đất hiện thực, mới có được sức sống mạnh mẽ và bền vững.
* Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh.
15


- Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, từ giác ngộ dân tộc
đến giác ngộ giai cấp trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin – đó là con đường Hồ
Chí Minh đã đi, đó cũng là con đường những người cộng sản Việt Nam đã đi. Đây
cũng là điểm khác biệt so với những người cộng sản ở những nước có chế độ tư
bản chủ nghĩa.
- Khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
Việt Nam bằng việc Người mở các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu – Trung
Quốc để trang bị cho thanh niên yêu nước Việt Nam những kiến thức cơ bản về lý
luận Mác – Lênin, về lịch sử phong trào cách mạng thế giới, về đường lối và
phương pháp cách mạng Việt Nam... rồi đưa họ về nước, đi vào phong trào công
nhân thực hiện “vô sản hóa” về tư tưởng và nếp sống, vừa tự rèn luyện trong thực
tế, vừa tuyên truyền giác ngộ quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh thì phong
trào cách mạng Việt Nam đã có sự chuyển hướng mạnh mẽ theo xu hướng vô sản.
- Khi phong trào phát triển lên cao, đã đòi hỏi phải có Đảng tiên phong dẫn
đường và Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
 Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện sứ mệnh là người đầu tiên gieo
những hạt giống của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội lên mảnh đất của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.


* Ý nghĩa của luận điểm trên:
- Luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã bỏ sung và làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về quy luật
thành lập Đảng Cộng sản ở những nước thuộc địa, lạc hậu, giai cấp công nhân còn
nhỏ bé.

16


- Luận điểm không những có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình cách mạng
Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế, nhất là đối với những nước có hoàn cảnh
tương tự Việt Nam.
+ Với cách mạng Việt Nam, quan điểm trên đây có ý nghĩa quan trọng đối
với chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong các thời kỳ cách mạng của Đảng; đối với
việc xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh công, nông, trí thức; đối với
việc tăng cường vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản Việt Nam; đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng - giai
cấp - dân tộc cả trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
+ Đối với những nước có hoàn cảnh lịch sử như Việt Nam, luận điểm trên
của Hồ Chí Minh có ý nghĩa tham khảo cho các Đảng Cộng sản nhìn nhận rõ hơn
vị trí, vai trò của các lực lượng xã hội trong cuộc đấu tranh cách mạng.
+ Đối với công tác xây dựng Đảng, với quy luật đặc thù trên, phần đông
Đảng viên của Đảng xuất thân từ nông dân, trưởng thành từ phong trào yêu nước,
trong những điều kiện nhất định bản chất giai cấp, tầng lớp cũ có thể lấn át bản chất
giai cấp công nhân của Đảng. Do đó, phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, tăng
cường bản chất giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
2.3. Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam

* Đây thực chất là vấn đề bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất giai cấp công nhân của
Đảng Cộng sản
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Đảng Cộng sản là Đảng của
giai cấp vô sản, đấu tranh đồi quyền lợi cho giai cấp vô sản nước mình và toàn bộ
giai cấp vô sản thế giới.
17


- Đảng bao gồm những phần tử tiên tiến nhất trong giai cấp vô sản, là đội
tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp vô sản.
* Nội dung luận điểm
- Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng (1951), Hồ Chí Minh đã có
kết luận mới mang tính phát triển lý luận về ĐCS của chủ nghĩa Mác – lênin:
“Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và
của dân tộc là một. Chình vì vậy, Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam”12.
Năm 1953, Người viết, “Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của tổ chức cần
lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc... Đảng là Đảng của giai cấp lao động
mà cũng là Đảng của toàn dân”13.
Năm 1961, Người lại nhắc lại luận điểm đó: “Đảng ta là Đảng của giai cấp,
đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”14.
Năm 1965, Người cho rằng: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham
mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
- Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, thể
hiện sự thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Ở Hồ Chí Minh, vấn đề
giai cấp và vấn đề dân tộc luôn gắn bó với nhau một cách mật thiết trong tiến trình
cách mạng. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mang bản chất giai cấp công

nhân, vừa mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc là một tất yếu.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân và tính
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Về bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Khi nói Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
bản chất giai cấp của Đảng. Đó là bản chất giai cấp công nhân, giai cấp duy nhất
12

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 6, tr.175
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.230-231
14
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 10, tr.467
13

18


gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, giai cấp
không chỉ đại diện cho hiện tại mà còn đại diện cho tương lai đất nước.
+ Cái quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng:
• Thành phần xuất thân của Đảng viên là những người tiên phong, giác ngộ
nhất của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động
khác tự nguyên phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng.
• Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin.
• Mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
• Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng là những nguyên tắc xây dựng
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
- Về tính dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Trong luận điểm đó, Hồ Chí Minh khẳng định, quyền lợi cơ bản của giai

cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất.
• Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn thể dân tộc, ngoài ra Đảng không có một lợi ích nào khác.
• Đảng không phải chỉ kết nạp những người ưu tú trong giai cấp công nhân
mà còn cả những người ưu tú trong các giai cấp và tầng lớp khác đã được giác ngộ
về Đảng và tự nguyện chiến đấu trong hàng ngũ của Đảng.
+ Quan điểm này của Hồ Chí Minh không làm xóa nhòa bản chất giai cấp
công nhân của Đảng và cũng không rơi vào quan điểm “đảng toàn dân”, mà đây là
một sự khẳng định bản chất giai cấp công nhân và tính chất quần chúng của Đảng.
Đảng có vinh dự và trách nhiệm lớn lao “Đảng của dân tộc Việt Nam” nghĩa là
Đảng phải làm sao cho mỗi người Việt Nam yêu nước luôn tự hào là Đảng của
mình.
2.4. Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “cốt”
* Vai trò của lý luận cách mạng đối với hoạt động của Đảng Cộng sản
19


- Trong cuốn Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu bằng một câu
theo ý của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận
động...Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm tròn
trách nhiệm cách mệnh tiền phong”15.
- Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”16.
* Chủ nghĩa Mác – Lênin, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng
- Qua nghiên cứu, tìm hiểu và từ thực tiễn hoạt động đấu tranh cách mạng
của mình, Hồ Chí Minh khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”.17

Và “Muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm
gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm
lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”18.
* Vì sao Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt?
+ Đây chính là học thuyết về sự giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao
động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người. Đây cũng chính là học thuyết
về sự phát triển xã hội lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai
đoạn đầu của nó là xã hội chủ nghĩa, một hình thái cao hơn, tốt đẹp hơn so với hình
thái TBCN.

15

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 2, tr.259
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 2, tr.268
17
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 2, tr.268
18
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 2, tr.280
16

20


+ Nhờ có lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy con
đường cứu nước, đã xây dựng ĐCS Việt Nam và trang bị cho Đảng vũ khí tinh thần
để Đảng làm tròn vai trò tiền phong, vai trò lãnh đạo cách mạng.
+ Theo Hồ Chí Minh, đối với Đảng ta, chủ nghĩa Mác – Lênin “là lực lượng
tư tưởng hùng mạnh của Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành
hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh
dự, lương tâm của dân tộc chúng tôi”19.

Thực tế, nhờ đứng “dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Lao
động Việt Nam đã được nhân dân tin tưởng, được nhân dân coi là đội tiên phong
giác ngộ của mình”20.
Nhờ có học thuyết dạt dào sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã
“khơi nguồn sức mạnh để giành thắng lợi cho sự nghiệp thiêng liêng là hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, để giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội”21.
 Chủ nghĩa Mác – lênin trở thành một trong những nhân tố quan trong
nhất, quyết định nhất, một thứ “vũ khí không gì thay thế được” của cách mạng Việt
Nam. Do đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với chúng ta,
những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái cẩm nang thần
kỳ, không những là kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi
tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”22.
* Phương pháp tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt không có nghĩa là giáo điều theo từng
câu chữ của Mác và Lênin, mà theo Hồ Chí Minh là phải nắm lấy tinh thần của chủ
nghĩa Mác - Lênin, lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam mà vận dụng sáng
tạo, linh hoạt. Bên cạnh đó, Người còn yêu cầu phải nắm vững chủ trương, đường
19

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.517
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.517
21
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.520
22
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 10, tr.128
20

21



lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, học tập những bài học kinh
nghiệm quy từ các Đảng cộng sản anh em trên thế giới
2.5. Đảng cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên
tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
2.5.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ (là nguyên tắc tổ chức của Đảng)
- Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng ĐCS thành một tổ chức chiến
đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh tập thể vừa phát huy được sức mạnh của mỗi
người trong tổ chức. Nó không biến Đảng thành câu lạc bộ để mọi người có thể vào
ra tùy tiện hoặc mỗi người một phách, cuối cùng triệt tiêu Đảng. Hồ Chí Minh gọi
đây là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
- Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và
thống nhất với nhau trong một nguyên tắc. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở
của tập trung. Tập trung trên cơ sở dân chủ. Người nhấn mạnh: “Tập trung trên
nền tảng dân chủ” và “Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”23.
+ Hồ Chí Minh lý giải vấn đề tập trung trong Đảng là phải thống nhất về tư
tưởng, tổ chức và hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, bộ phận phục tùng toàn thể, tất cả đảng viên phải chấp hành vô điều
kiện Nghị quyết của Đảng, làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành
thì chỉ như một người”24.
+ Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, “Ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền
nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề”25. Tức là đối với mọi vấn đề
trong Đảng, mọi đảng viên có quyền trình bày ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lý. Đó là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của mọi người. Khi đã tìm ra chân lý,
khi đã thống nhất thì mọi người phải tuân thủ, quyết không được làm trái, không
được dân chủ quá trớn.
23

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.240-241
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.553
25

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.241
24

22


2.5.2. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách (là nguyên tắc lãnh
đạo của Đảng)
- Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.
- Tập thể lãnh đạo là phát huy trí tuệ của tập thể, của nhiều người cùng tham
gia giải quyết công việc của Đảng. Bởi một người dù tài giỏi mấy cũng không thể
thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết
được mọi chuyện. Vì vậy, cần nhiều người cùng tham gia lãnh đạo, nhiều người thì
nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia do đó hiểu được mọi mặt,
mọi vấn đề, “dại bầy hơn khôn độc”.
Hồ Chí Minh giải thích, “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người
dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem
xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất
cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người: Nhiều người thì nhiều
kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn
đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ
khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu
đáo, khỏi sai lầm”.26
- Cá nhân phụ trách là khi mọi việc đã được bàn kỹ lưỡng, kế hoạch đã được
định rõ thì cần giao cho một người phụ trách chính. Như thế công việc mới chạy,
như thế mới tránh được thói dựa dẫm, ỷ lại, đùn đẩy trách nhiệm, “nhiều sãi không
ai đóng của chùa”.
Hồ Chí Minh giải thích, “Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã
được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải

giao lại cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi
hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy.
26

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.504-505

23


Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho
người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc
gì cũng không xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa” là như
thế”27.
- Hồ Chí Minh kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đưa đến cái tệ bao
biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ
đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau”28.
Người cũng nhấn mạnh: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là
tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung”29.
2.5.3. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình (là nguyên tắc sinh hoạt của
Đảng, là quy luật phát triển của Đảng)
- Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển
của Đảng. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tự phê bình và phê bình, coi đó là vũ khí
sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh.
Người chỉ rõ: “Đảng cách mạng cần tự phê bình và phê bình như ta cần
không khí, cũng như người có bệnh, nếu giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám
uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mạng”30.
Vì vậy, Người yêu cầu “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm
điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong
Đảng sẽ không có bệnh và Đảng sẽ khỏe vô cùng”31.

Người đặt tự phê bình lên trước phê bình, bởi vì mỗi người trước hết phải
nhận thức rõ ưu và khuyết điểm của mình thì sau đó mới phê bình người khác tốt
được.
- Vì sao phải phê bình và tự phê bình?
27

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.505
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.505
29
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.505
30
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.233
31
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.239
28

24


+ “Người đời không phải thánh, thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm”
trong cuộc sống, trong công tác. Vì vậy, “thang thuốc hay nhất là thiết thực phê
bình và tự phê bình” để phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân
và phần xấu bị mất dần đi.
+ Đảng bao gồm nhiều thành phần, tầng lớp trong xã hội, có nhiều người rất
yêu nước, trung thành, rất hăng hái, kiên quyết cách mạng, thông minh, dũng cảm.
Song, trong Đảng cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những
khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây ngấm vào. Do vậy, Đảng phải thường xuyên
tự phê bình và phê bình để làm cho dần dần hết khuyết điểm, ưu điểm ngày càng
nhiều thêm.
Người chỉ rõ, “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng

hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì
đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm cách
để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn,
chân chính”32.
- Mục đích: phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ.
- Yêu cầu:
+ “Triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt”.
+ Cái tâm trong sáng trong phê bình: “Phải có tình đồng chí yêu thương lẫn
nhau”33. Phải nêu rõ cả ưu khuyết điểm, phê bình việc chứ không phê bình người.
Phải biết phê bình sáng suốt, khéo léo.
+ Thực hiện thường xuyên, cán bộ càng cao, trách nhiệm càng lớn càng phải
gương mẫu tự phê bình và phê bình.
Ví dụ: Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói, mà bản thân Người luôn luôn
gương mẫu tự phê bình và phê bình, thể hiện sự nhất quán giữa nói và làm.

32
33

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr.261
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 12, tr.498

25


×