Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đánh giá kết quả thực hiện dự án 661 tại khu vực rừng phòng hộ yên lập, quảng ninh giai đoạn 1998 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.6 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGỌC LÊ HUY

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN DỰ ÁN 661 TẠI KHU
VỰC RỪNG PHÒNG HỘ HỒ YÊN LẬP – QUẢNG NINH
GIAI ĐOẠN 1998 – 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Thái Nguyên, 2012


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGỌC LÊ HUY

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN DỰ ÁN 661 TẠI KHU
VỰC RỪNG PHÒNG HỘ HỒ YÊN LẬP – QUẢNG NINH
GIAI ĐOẠN 1998 – 2010
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60 62 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HUY SƠN

Thái Nguyên, 2012



LỜI CẢM ƠN
Luận văn: “Đánh giá kết quả thực hiện dự án 661 tại khu vực rừng
phòng hộ hồ Yên Lập – Quảng Ninh giai đoạn 1998 - 2010” được hoàn
thành tại Khoa Đào tạo sau Đại học – Trường Đại học Nông lâm – Đại học
Thái Nguyên theo chương trình đào tạo Cao học Lâm học khoá 18, giai đoạn
2010 - 2012.
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ của Ban Giám hiệu và Khoa Đào tạo sau Đại học
Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên - Đại học Thái Nguyên, cùng toàn
thể các thầy, cô giáo Đại học Thái Nguyên; Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Chi cục Kiểm lâm, Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Quảng Ninh, nhân
dịp này tác giả xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS.
Nguyễn Huy Sơn – người hướng dẫn khoa học, đã trực tiếp hướng dẫn, tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới Ban quản lý rừng phòng hộ hồ Yên Lập đã giúp
đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình triển khai thu thập số
liệu ngoại nghiệp phục vụ cho luận văn.
Cuối cùng tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè gần
xa và người thân trong gia đình đã giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt thời
gian học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào, các thông tin trích
dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả


MỤC LỤC

Đề mục

Trang

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT

i

TÊN SƠ ĐỒ, BẢNG

ii

BẢNG TÊN CÁC LOÀI CÂY SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

iii

ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chương I. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

3

1.1. Trên thế giới

3

1.1.1. Đánh giá dự án


3

1.1.2. Nghiên cứu xói mòn đất và thủy văn rừng

4

1.1.3. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng và các mô hình rừng phòng hộ

7

1.1.4. Các chính sách tổ chức, quản lý rừng phòng hộ

8

1.2. Ở Việt Nam

9

1.2.1. Đánh giá dự án

9

1.2.2. Nghiên cứu xói mòn đất và thủy văn rừng

10

1.2.3. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng và các mô hình rừng phòng hộ

13


1.2.4. Các chính sách tổ chức, quản lý rừng phòng hộ

15

1.3. Nhận xét và đánh giá chung

16

Chương II. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG VÀ

18

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu đề tài

18

2.1.1. Mục tiêu chung

18

2.1.2. Mục tiêu cụ thể

18

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

18

2.3. Nội dung nghiên cứu


19

2.3.1. Kết quả trồng rừng phòng hộ đầu nguồn thuộc Dự án 661 giai đoạn

19

1998 – 2010
2.3.2. Tổng kết các biện pháp kỹ thuật xây dựng rừng phòng hộ đầu

19

nguồn
2.3.3. Đánh giá hệ thống cơ chế chính sách, suất đầu tư trồng rừng phòng hộ

19

đầu nguồn trong Dự án 661 tại Ban Quản lý rừng phòng hộ hồ Yên Lập
2.3.4. Đề xuất và khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

20


quản lý và trồng rừng phòng hộ trong thời gian tiếp theo tại Ban Quản lý
rừng phòng hộ hồ Yên Lập
2.4. Phương pháp nghiên cứu

20

2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận trong nghiên cứu


20

2.4.2. Phương hướng giải quyết vấn đề

21

2.4.3. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

22

2.4.3.1. Thu thập các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu đã có

22

2.4.3.2. Phương pháp khảo sát, đánh giá trên thực địa

23

2.4.3.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu

25

Chương III. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC

26

NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên


26

3.1.1. Vị trí địa lý

26

3.1.2. Khí hậu, thủy văn

26

3.1.3. Địa hình, thổ nhưỡng

27

3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

28

3.2.1. Dân số, dân tộc, lao động

28

3.2.2. Hiện trạng kinh tế xã hội

29

3.2.3. Khu vực phòng hộ hồ Yên Lập

29


3.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

30

3.3.1. Thuận lợi

30

3.3.2. Khó khăn

31

Chương IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

32

4.1. Quá trình hình thành và phát triển Dự án 661

32

4.1.1. Bối cảnh ra đời của dự án

32

4.1.2. Khái quát mục tiêu và nhiệm vụ của dự án

33

4.1.2.1. Mục tiêu của dự án


33

4.1.2.2. Nhiệm vụ của dự án

33

4.1.2.3. Quy mô dự án

34

4.1.2.4. Các hoạt động chính của dự án

35

4.1.3 Quá trình hình thành và phát triển của BQL rừng phòng hộ hồ Yên Lập

35

4.2. Đánh giá quá trình thực hiện Dự án 661 tại BQL rừng phòng hộ hồ Yên Lập

37

4.2.1. Về cơ cấu tổ chức dự án

37


4.2.2. Về tiến độ và kết quả thực hiện dự án

39


4.2.2.1. Tiến độ thực hiện dự án

39

4.2.2.2. Đánh giá quá trình đầu tư của Dự án

41

4.2.2.3. Kết quả thực hiện các hoạt động

42

4.2.3. Đánh giá các hoạt động chính của Dự án

43

4.2.3.1. Hoạt động thiết kế, lập hồ sơ dự toán

43

4.2.3.2. Hoạt động trồng rừng

44

4.2.3.3. Hoạt động chăm sóc rừng trồng

48

4.2.3.4. Hoạt động bảo vệ rừng


50

4.2.3.5. Hoạt động khoanh nuôi xúc tiến tái sinh (KNXTTS)

51

4.2.3.6. Hoạt động xây dựng đường băng cản lửa

53

4.2.3.7. Hoạt động sản xuất cây con

53

4.2.3.8. Hoạt động khai thác lâm sản

54

4.2.3.9. Hoạt động kiểm tra, nghiệm thu, phúc tra

55

4.2.3.10. Hoạt động thanh toán vốn đầu tư

56

4.3. Tổng kết và đánh giá hệ thống các cơ chế chính sách, suất đầu tư trồng

60


rừng trong Dự án 661 tại BQL RPHHYL, tỉnh Quảng Ninh
4.3.1. Các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Dự án 661 Trung ương

60

4.3.2. Các văn bản hướng dẫn chỉ đạo trong Dự án 661 tại BQL RPHHYL

62

tỉnh Quảng Ninh
4.3.3 Đánh giá tình hình áp dụng hệ thống các chính sách, suất đầu tư cho

64

các hạng mục lâm sinh trên thực tế trong Dự án 661 tại BQL RPHHYL
4.4. Phân tích các khoảng trống về kỹ thuật và chính sách Dự án 661 áp dụng

65

tại BQL RPHHYL, tỉnh Quảng Ninh
4.4.1. Phân tích khoảng trống về kỹ thuật

65

4.4.1.1. Công tác giống cây trồng

65

4.4.1.2. Loài cây và các mô hình rừng trồng phòng hộ đã áp dụng


66

4.4.1.3. Mật độ trồng rừng và phương thức trồng:

66

4.4.1.4. Khai thác, tỉa thưa cây tạo không gian dinh dưỡng

67

4.4.2. Phân tích khoảng trống về chính sách

67

4.5. Đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trồng rừng phòng

70

hộ tại BQL RPHHYL tỉnh Quảng Ninh
4.5.1. Đề xuất cải thiện các biện pháp kỹ thuật trồng rừng phòng hộ

70


4.5.2. Đề xuất cải thiện các chính sách, suất đầu tư cho trồng rừng phòng hộ

73

Chương V. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ


75

5.1. Kết luận

75

5.2. Tồn tại

78

5.3. Kiến nghị

78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

80

PHẦN PHỤ BIỂU


i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT

1

BQL


:

Ban quản lý

2

DA

:

Dự án

3

D00

:

Đường kính gốc

4

D1.3

:

Đường kính ngang ngực

5


Dt

:

Đường kính tán

6

HGĐ

:

Hộ gia đình

7

Hvn

:

Chiều cao vút ngọn

8

KBNN

:

Kho bạc nhà nước


9

KH-ĐT

:

Kế hoạch-Đầu tư

10

KNXTTS :

Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh

11

NN&PTNT:

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

12

ÔTC

:

Ô tiêu chuẩn

13


QLDA

:

Quản lý dự án

14

RPHHYL :

Rừng phòng hộ hồ Yên Lập

15

UBND

Ủy ban nhân dân

:


ii

TÊN SƠ ĐỒ, BẢNG

TT

Trang

1


Sơ đồ 1: Phương hướng giải quyết vấn đề của đề tài

22

2

Sơ đồ 2: Tổ chức bộ máy quản lý Dự án 661

38

3

Bảng 4.1: Tổng hợp rừng và đất rừng thuộc BQL rừng phòng hộ

36

hồ Yên Lập
4

Bảng 4.2: Tiến độ thực hiện Dự án 661 tại rừng phòng hộ hồ Yên

40

Lập giai đoạn 1998-2010
5

Bảng 4.3: Cơ cấu nguồn vốn sử dụng cho việc xây dựng và phát

41


triển rừng phòng hộ hồ Yên Lập giai đoạn 1998 - 2010
6

Bảng 4.4: Cơ cấu nguồn vốn sử dụng cho các hạng mục lâm sinh

42

dự án 661 tại rừng phòng hộ hồ Yên Lập giai đoạn 1998 – 2010
7

Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả thực hiện Dự án 661 giai đoạn 1998 - 2010

43

8

Bảng 4.6: Các mô hình lâm sinh áp dụng trong trồng rừng dự án

45

661 tại rừng phòng hộ hồ Yên Lập, tỉnh Quảng Ninh
9

Bảng 4.7: Kết quả trồng rừng phòng hộ hồ Yên Lập dự án 661

46

giai đoạn 1998 - 2010
10


Bảng 4.8: Kết quả khảo sát các mô hình rừng trồng dự án 661 áp

47

dụng tại rừng phòng hộ hồ Yên Lập
11

Bảng 4.9: Kết quả chăm sóc rừng trồng phòng hộ hồ Yên Lập dự

49

án 661 giai đoạn 1998-2010
12

Bảng 4.10: Kết quả bảo vệ rừng phòng hộ hồ Yên Lập dự án 661

51

giai đoạn 1998-2010
13

Bảng 4.11: Kết quả khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng phòng hộ
hồ Yên Lập dự án 661 giai đoạn 1998-2010

52


iii


BẢNG TÊN CÁC LOÀI CÂY SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
TT

Tên Việt Nam

Tên Khoa học

1

Ba soi

Macaranga denticulata Meull - Arg

2

Bồ đề

Styrax tonkinensis - Pierre

3

Bông bạc

Vernomia arborea - Ham

4

Côm tầng

Elaeocarpus dubius - A.D.C


5

Dẻ cau

Quercus platycalyx - Hickel et camus

6

Dẻ đỏ

Lithorcarpus ducampi - Hickel et A.Camus

7

Dẻ gai

Castanopsis tonkinensis - seen

8

Dẻ bộp

Castanopsis lecomtei - Hickel et Camus

9

Dung giấy

Symplocos laurina - Wall


10

Gội nếp

Amoora gigantea - Pirre

11

Keo Tai tượng

Acacia mangium x Acacia auriculiformis

12

Lim xanh

Erythrofloeum fordii - Oliv

13

Lim xẹt

Peltophorum tonkinensis - Pierre

14

Lọng bàng

Dillenia heterosepala - Finet et Gagnep


15

Mán đỉa

Pithecolobium lucidum - Benth

16

Ngát

Girronniera subaequelis - Planch

17

Sau sau

Liquidambar formosana - Hance

18

Sung rừng

Ficus racemosa

19

Sồi phảng

Quercus resinifera – A.Chev


20

Thành ngạnh

Cratoxylon formosum - B.et H

21

Trâm tía

Syzygium sp

22

Thông Mã vĩ

Pinus merkusii - Lambert

23

Thông nhựa

Pinus merkusii - J et Vires

24

Trám trắng

Canarium album - Rachusch


25

Vải guốc

Mischocarpus sp

26

Vối thuốc

Schima superba - Gard et Champ

27

Xoan đào

Pygeum arboreum - Endl. Et kurz


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng có vai trò rất to lớn trong việc cung cấp lâm sản, bảo tồn đa dạng sinh
học, du lịch sinh thái và phòng hộ môi trường. Ngày nay, giá trị phòng hộ môi
trường đã vượt xa giá trị cung cấp lâm sản truyền thống. Việt Nam là một nước nằm
trong vùng nhiệt đới gió mùa với 3/4 diện tích là đồi núi và thường xuyên phải chịu
những trận mưa, bão lớn thì rừng phòng hộ, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn có
vai trò rất quan trọng. Xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn cũng là một trong những
giải pháp có hiệu quả để phòng chống nguy cơ sa mạc hoá đất vùng đồi núi, góp

phần tạo thêm công ăn việc làm cho hàng chục triệu người, cung cấp thêm nhiều
loại gỗ và lâm sản ngoài gỗ có giá trị phục vụ cuộc sống và phát triển kinh tế - xã
hội miền núi
Hồ Yên Lập là công trình thuỷ lợi lớn nhất tỉnh Quảng Ninh được xây dựng từ
những năm 1980 trên khu vực huyện Hoành Bồ với tổng diện tích là 18.502 ha, lưu
vực hồ Yên Lập rộng 9.120 ha với dung tích thiết kế là 127 triệu m3 nước. Hồ có nhiệm
vụ cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho cho các vùng lúa
trọng điểm ở thị xã Yên Hưng, Hoành Bồ và thành phố Uông Bí, trong tương lai được
thiết kế mở rộng lấy nước phục vụ cho khu vực đảo Tuần Châu, cảng Cái Lân, thành
phố Hạ Long…
Theo thời gian, rừng nơi đây đã bị khai thác và lợi dụng với nhiều mục đích,
đến nay nguồn tài nguyên rừng đã bị suy giảm đáng kể về số lượng và chất lượng.
Kết quả sau 18 năm hoạt động (1980 - 1998) công suất cung cấp nước của hồ chỉ
còn 60% theo thiết kế (GS Lê Quý An, dẫn theo báo nhân dân 5/6/1998). Diện tích
mặt nước của hồ chỉ còn từ 5.000 - 6.000 ha. So với yêu cầu từ 10.000 - 15.000 ha.
Một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm công suất hoạt động của hồ là sự
suy giảm lớp thảm thực vật ở lưu vực lòng hồ. Chỉ tính riêng năm 2003 và 6 tháng
đầu năm 2004 đã có hơn 100 ha rừng tự nhiên trên lưu vực hồ bị tàn phá để lấy đất
trồng cây ăn quả và cây lương thực (Theo số liệu thống kê của Ban Quản lý rừng
phòng hộ hồ Yên Lập, năm 2007). Điều này đã dẫn đến suy giảm khả năng duy trì


2

nguồn nước của hồ, đồng thời làm giảm tuổi thọ của hồ do quá trình rửa trôi, bồi
lắng đất, đá xung quanh xuống lòng hồ.
Là một công trình thủy lợi chứa nước lớn của tỉnh Quảng Ninh, khu vực
phòng hộ hồ Yên Lập được rất nhiều dự án phát triển lâm nghiệp trong huyện, tỉnh
và quốc gia quan tâm như dự án 327, dự án 661, với mục tiêu chủ yếu là phát triển
rừng phòng hộ, tăng độ che phủ của rừng trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội và ổn

định đời sống người dân địa phương.
Dự án 661 giai đoạn 1998 - 2010 tại vùng hồ Yên Lập, tỉnh Quảng Ninh
được triển khai với mục tiêu bảo vệ diện tích rừng hiện có, trồng phủ xanh những
diện tích đất trống để làm tăng độ che phủ của rừng, góp phần đảm bảo an ninh môi
trường, giảm nhẹ thiên tai, tăng khả năng sinh thủy, sử dụng có hiệu quả diện tích
đất trống đồi núi trọc tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói
giảm nghèo,…Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất của Dự án là xây dựng rừng
phòng hộ cho khu vực hồ Yên Lập. Ngoài ra, dự án 661 đã góp phần quan trọng
trong việc nâng cao độ che phủ của rừng toàn tỉnh từ 36,3% của năm 1999 lên
52,02% vào năm 2010.
Kết quả và ý nghĩa mà dự án 661 mang lại trong việc xây dựng và phát triển
rừng phòng hộ là rất lớn đối với khu vực hồ Yên Lập, huyện Hoành Bồ nói riêng và
tỉnh Quảng Ninh nói chung. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên
cứu, đánh giá nào một cách toàn diện và hệ thống vấn đề này, chủ yếu mới dừng lại
đánh giá tình hình triển khai thực hiện kế hoạch. Xuất phát từ yêu cầu đó, việc thực
hiện đề tài "Đánh giá kết quả thực hiện dự án 661 tại khu vực rừng phòng hộ hồ
Yên Lập - Quảng Ninh giai đoạn 1998 - 2010" là rất cần thiết và có ý nghĩa thực
tiễn to lớn nhằm tổng kết và đánh giá được kết quả trồng rừng, bảo vệ rừng phòng
hộ đầu nguồn dự án 661 tại vùng hồ Yên Lập, tỉnh Quảng Ninh, rút ra những bài
học kinh nghiệm cũng như đề xuất một số khuyến nghị cho việc phát triển mở rộng.


3

Chương I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Đánh giá dự án
Ngày nay, “Dự án” đã được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Dự
án có nhiều quy mô khác nhau, có những dự án tầm cỡ quốc tế, quốc gia, có những

dự án của doanh nghiệp và có cả những dự án của cá nhân hay hộ gia đình [1].
- Theo Cleland và King (1975) thì Dự án là sự kết hợp giữa các yếu tố nhân
lực và trí lực trong một thời gian nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể. Vấn đề
quan trọng được đặt ra là dự án phải có mục tiêu nhất định và quá trình thực hiện dự
án phải hướng tới các mục tiêu đó.
- Theo Clipdap: Dự án là một tập hợp các hoạt động để giải quyết một vấn
đề hay hoàn thiện một trạng thái đặc biệt nào đó. Nội dung được nhấn mạnh ở đây là các
hoạt động có tính định hướng của dự án để giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó.
- Theo tài liệu hội thảo PIMES [28] đã đưa ra hai khái niệm:
+ Dự án là quá trình gồm các hoạt động đã được lập kế hoạch nhằm đạt được
những thay đổi mong muốn hoặc đạt được một mục tiêu cụ thể nào đó.
+ Dự án là quá trình phát triển có kế hoạch, được thiết kế nhằm đạt được
mục tiêu cụ thể với khoản ngân sách xác định trong thời gian xác định.
Thông thường thì trong vòng 3 năm hoặc 5 năm sau khi kết thúc dự án thì
các Bộ hay Công ty độc lập sẽ tiến hành đánh giá dự án. Tâm điểm là đánh giá tác
động và tính bền vững của dự án so với mục tiêu ban đầu. Trong sổ tay hướng dẫn
Giám sát đánh giá của Ngân hàng thế giới cũng đã đưa ra nhiều khái niệm và
phương pháp đánh giá tác động cho các dự án. Tuy nhiên, tất cả chỉ mang tính khái
quát chung chung do đó việc áp dụng các lý thuyết và hướng dẫn này cũng cần phải
linh hoạt [47].
Trong quá trình thực hiện dự án, hoạt động đánh giá có thể được tiến hành
vào những giai đoạn quan trọng, thường gọi là đánh giá giai đoạn. Có nhiều tác giả


4

cho rằng, điều quan trọng là phải tiến hành đánh giá có sự tham gia của các bên có
liên quan mà quan trọng nhất là người hưởng lợi từ dự án [41].
Theo tài liệu nghiên cứu của các tác giả trên thế giới như Jim Woodhill, Lisa
Robins, Joachim Theis, Heather. M. Grady [dẫn theo 8] đã phân chia thành hai loại

đánh giá: Đánh giá mục tiêu và đánh giá tiến trình. Đánh giá mục tiêu là xem xét
liệu dự án có đạt được mục tiêu đã định hay không, nó tập trung vào phân tích các
chỉ số đo đạc, hiệu quả thu được. Đánh giá tiến trình là mở rộng diện đánh giá hơn
so với loại đánh giá trên, sử dụng tri thức và hiểu biết của nhiều người để xem xét
nhiều vấn đề của dự án.
Trước những năm 1990, thuật ngữ “đánh giá dự án” mới chỉ giới hạn ở đánh
giá hiệu quả dự án trong đó có hiệu lực thực thi. Từ sau năm 1990, các hoạt động
đánh giá được thực hiện đã bao gồm cả đánh giá tác động dự án, tức là xem xét các
hoạt động của dự án đó có bền vững sau khi dự án kết thúc không (John et al,
2000). Hiện nay, việc đánh giá tác động được coi như bắt buộc đối với tất cả các
hoạt động đánh giá, bao gồm tất cả các thay đổi về sinh thái, văn hoá - xã hội, kinh
tế, kỹ thuật, thể chế và chính sách đem lại bởi các hoạt động của một chương trình,
dự án.
FAO (1979) đã xuất bản tài liệu “Phân tích các dự án Lâm nghiệp” do Hans
M - Gregersen và Amoldo H. Contresal biên soạn. Đây là tài liệu giảng dạy dùng
cho các địa phương mà tổ chức FAO có đầu tư dự án trồng rừng và phát triển lâm
nghiệp; tài liệu này tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện đánh giá hiệu quả
các dự án lâm nghiệp ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta.
FAO [37] nhấn mạnh việc đánh giá hiệu quả xã hội và môi trường khi đưa ra
các báo cáo tham luận về lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng đồng. Cũng theo
FAO (1996) [38], một dự án đầu tư trong lâm nghiệp dù có đạt được hiệu quả tài
chính cao (NPV, IRR, B/C...) nhưng chưa đạt được hiệu quả xã hội (giải quyết việc
làm tạo thêm thu nhập cho cộng đồng,...) và hiệu quả môi trường (ô nhiễm, xói mòn
đất,...) thì không được coi là một dự án bền vững.


5

1.1.2. Nghiên cứu xói mòn đất và thủy văn rừng
Để có cơ sở khoa học cho việc xây dựng và quản lý rừng phòng hộ đầu

nguồn thì việc tìm hiểu nguyên nhân xói mòn và hiện tượng xói mòn của đất vùng
đầu nguồn rất được quan tâm. Nhiều tác giả trên thế giới đã nghiên cứu Ảnh hưởng
của kích thước hạt mưa, cường độ mưa, phân bố mưa tới xói mòn đất như công
trình nghiên cứu của Hudson HW (1971), Zakharop P.X (1981). Ảnh hưởng của các
yếu tố độ dốc, chiều dài dốc, loại đất, lớp thực bì cũng được nghiên cứu và công bố
rộng rãi trong nhiều công trình khoa học của các tác giả như Smith D.D. và
Wischmeier W.H. (1957), Ching J.G. (1978), Giacomin (1992).
Công trình nghiên cứu đầu tiên về xói mòn đất và dòng chảy được nhà bác
học Volni người Đức thực hiện trong giai đoạn từ 1877 đến 1885 (Hudson N.,
1981) [15]. Những ô thí nghiệm được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố như: Thực bì, loại đất, độ dốc mặt đất, lượng mưa tới dòng chảy và xói mòn
đất. Trong công trình này Volni cũng nghiên cứu ảnh hưởng của loại đất và độ dốc
mặt đất tới dòng chảy và xói mòn đất. Tuy nhiên, phần lớn các kết luận chưa được
định lượng rõ ràng.
Bằng thí nghiệm trong phòng, Ellison (dẫn theo Hudson N, 1981) [15] cho
thấy rằng các loại đất khác nhau có biểu hiện khác nhau trong các pha xói mòn đất
do nước. Ellison là người đầu tiên phát hiện ra vai trò của lớp phủ thực vật trong
việc hạn chế xói mòn đất và vai trò cực kỳ quan trọng của hạt mưa rơi đối với xói
mòn. Phát hiện của Ellison đã mở ra một phương hướng mới trong nghiên cứu xói
mòn đất, đã làm thay đổi quan điểm nghiên cứu về xói mòn và khẳng định khả năng
bảo vệ đất của lớp thảm thực vật.
Kết quả quan trọng của nghiên cứu xói mòn và khả năng bảo vệ đất, bằng
các kết quả nghiên cứu thực nghiệm, các nhà nghiên cứu đã xây dựng được phương
trình mất đất ở trường Đại học Tổng hợp Pardiu (Mỹ) vào cuối năm 1950 (Hudson
N, 1981) [15]). Sau đó phương trình này được W. H. Wischmeier hoàn chỉnh dần
(W. H. Wischmeier, 1978) [46]. Phương trình mất đất làm sáng tỏ vai trò của từng
nhân tố ảnh hưởng tới xói mòn. Nó còn có tác dụng định hướng cho nhiều nghiên


6


cứu sau này nhằm xác định quy luật xói mòn và nghiên cứu các mô hình canh tác
bền vững ở các khu vực có điều kiện địa lý khác nhau.
Việc nghiên cứu định lượng ảnh hưởng của các yếu tố tới xói mòn đất lần
đầu tiên được V.A. Sing (1940) đưa ra khi tìm cách xác định ảnh hưởng của chiều
dài sườn dốc (L) và độ dốc (S) tác động của xói mòn. Sau đó Smith D.D. (1941) đã
xác định lượng đất xói mòn cho phép và lần đầu tiên đã đánh giá ảnh hưởng của các
nhân tố cây trồng (C), cũng như việc áp dụng các biện pháp bảo vệ đất (P) ở các
mức độ khác nhau đến xói mòn đất bằng các công trình nhân tạo. Tiếp đó, nhiều
phương trình dự báo xói mòn đã được nghiên cứu và công bố, trong đó phương
trình của Wischmeier W.H. - Smith D.D. đã được thừa nhận và ứng dụng rộng rãi.
Lượng nước mưa giữ lại trên tán là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả
năng giữ nước, từ đó ảnh hưởng đến khả năng phòng hộ của rừng. Các công trình
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lượng nước mưa giữ lại trên tán lá rừng lá kim ôn đới
chiếm tới 20 - 40% (Vương Lễ Tiên và Lý Á Quang, 1991) [22]. Những nghiên cứu
về tỷ lệ lượng mưa ngăn giữ bởi tán rừng ở các kiểu thảm thực vật rừng tương ứng
với các đới khí hậu khác nhau ở Trung Quốc cho thấy phạm vi biến động của tỷ lệ
lượng mưa bị ngăn giữ lại trong khoảng từ 11,4 - 34,3%, hệ số biến động 6,68 55,05%. Trong đó, tỷ lệ lượng nước mưa giữ lại trên tán rừng lá kim thường xanh á
nhiệt đới, trên núi cao ở miền Tây là lớn nhất, của rừng hỗn giao cây lá rộng thường
xanh với cây lá rộng rụng lá á nhiệt đới, miền núi là nhỏ nhất (Vu Chí Dân Christohp Peisert - Dư Tân Hiểu, 2001) [2].
Lượng nước mưa lọt tán đã được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu. Tuy
nhiên, chỉ có một số ít công trình nghiên cứu đảm bảo được độ tin cậy cần thiết khi
đưa ra số liệu về thành phần cân bằng nước này (Bruijnzeel L.A., 1990a, 1990b)
[34], [35]. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu lượng nước mưa lọt tán còn rất khiêm
tốn, mới đưa ra một số thông tin ban đầu như: tỷ lệ phần trăm lượng nước mưa lọt
tán so với tổng lượng mưa của các loại rừng thường đạt từ 75% trở lên, phụ thuộc
vào cấu trúc tán lá, chỉ số diện tích lá, đặc điểm mưa và nhân tố gió; năng lượng
nước mưa lọt qua tán ở rừng cây gỗ thường lớn hơn năng lượng của mưa ngoài nơi



7

trống; hàm lượng chất dinh dưỡng khoáng trong thành phần của nước mưa lọt tán
cao hơn so với nước mưa ngoài nơi trống (Jordan và C. F. Herrea 1981) [40].
Vật rơi rụng có khả năng ngăn giữ nước tương đối lớn, nên có tác dụng bổ
sung nước cho đất và cung cấp nước cho thực vật (Vu Chí Dân & Vương Lễ Tiên,
2001) [3]. Ngoài ra, do vật rơi rụng có những lỗ hổng lớn và nhiều hơn so với đất,
nên lượng nước ngăn giữ lại dễ dàng bốc hơi. Những nghiên cứu của Black và
Kelliher, 1998; (dẫn theo Vu Chí Dân & Vương Lễ Tiên, 2001) [3] cho thấy lượng
nước bốc hơi từ vật rơi rụng của các kiểu rừng khác nhau chiếm khoảng 3 - 21%
tổng lượng nước bốc hơi trên mặt đất rừng.
Nhìn chung, đất rừng tự nhiên có khả năng thấm nước cao và ít khi xuất hiện
dòng chảy bề mặt. Tuy nhiên, khi rừng bị chặt hạ trở nên thưa thớt và độ dốc mặt
đất lớn, có thể tạo ra nhiều lượng nước chảy trên bề mặt (Ruxton B P, 1967) [45];
(Imeson A C và Vis, 1982) [39].
Cấu trúc rừng có ý nghĩa rất lớn, nó quyết định đến khả năng phòng hộ của
rừng. Việc nghiên cứu cấu trúc rừng nhằm tìm ra những cấu trúc hợp lý, có khả
năng phòng hộ cao là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng các khu rừng phòng hộ.
Công trình nghiên cứu của Moltranov A.A.. (1960, 1973) và Matveev P.N. (1973)
là những công trình lớn đề cập tới cấu trúc rừng phòng hộ đầu nguồn nước. Với
trang thiết bị tạo mưa nhân tạo, các tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân
tố cấu trúc tới khả năng điều tiết nước, bảo vệ đất của rừng như: cấu trúc tổ thành
loài, cấu trúc tuổi, cấu trúc tầng thứ và độ tàn che. Những nghiên cứu này đã đặt cơ
sở cho việc xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn cũng như việc xác định các biện
pháp kỹ thuật lâm sinh tác động vào rừng ôn đới. Tuy vậy, do cấu trúc của rừng ôn
đới không có lớp thảm tươi cây bụi dày như ở nước ta nên các tác giả chưa chú ý
nhiều đến vai trò của tầng mặt đất. Ngoài ra, cấu trúc tầng thứ cũng chưa được các
tác giả nghiên cứu sâu. Những thiếu xót này đã được Lui Wenyao và các cộng sự
(1992) bổ sung khi nghiên cứu ở tỉnh Yunnan, Trung Quốc.



8

1.1.3. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng và các mô hình rừng phòng hộ
Ở Liên Xô và Trung Quốc thường dùng công thức để xác định diện tích rừng
chống xói mòn ở đất dốc là: F =

A * K1 + P * K 2
, với F là diện tích rừng bảo vệ dốc
h

(ha), A là diện tích bậc thang mà diện tích rừng bảo vệ dốc phải phòng chống xói
mòn (ha), P là diện tích đồng cỏ mà diện tích rừng bảo vệ dốc phải phòng chống
(ha); K1 là độ dày tầng nước mặt lớn nhất của dòng nước mặt sản sinh ra trên mỗi
ha ruộng bậc thang (mm/phút); K2 là độ dầy tầng nước mặt lớn nhất của dòng nước
mặt sản sinh ra trên mỗi ha đồng cỏ (mm/phút) và h là sức hút nước của đất rừng
(mm/phút) [33].
Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, một số nước trên thế giới đã áp dụng
phương pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, trồng bổ sung, bảo vệ ngăn ngừa các tác
động xấu tới rừng. Tại Malaysia đã xây dựng rừng nhiều tầng với việc sử dụng 2
loài cây trồng khác nhau; Nhật Bản cũng đã tạo rừng nhiều tầng bằng cách khai thác
rừng theo băng rộng 4-5 m và sau đó trồng mới vào các băng rừng đã chặt.
Biện pháp kỹ thuật xây dựng rừng phòng hộ ven biển cũng được quan tâm
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu của V.A. Lômitcôsku (1809), Dokuchaep
(1982), X. A. Timiriazep (1983, 1909, 1911) đều cho rằng trên các hoang mạc
muốn cải thiện tiểu khí hậu và cải tạo đất phải trồng rừng phòng hộ thành hệ thống
đai theo mạng lưới ô vuông, có kết cấu kín, có hỗn giao nhiều tầng. Ở Trung Quốc
và các nước Trung Đông, miền Đông và Tây Châu Phi thì Phi lao được coi là loài
cây chủ đạo trồng trên các vùng cát thành các hệ thống đai có chiều rộng ít nhất 100
- 200 m. Sau đai rừng Phi lao là các đai rừng hỗn giao hoặc thuần loài của Bạch đàn,

Keo, Thông nhựa, phía trong cùng sau các đai rừng dùng để canh tác nông nghiệp.
1.1.4. Các chính sách tổ chức, quản lý rừng phòng hộ
Từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị giảm
sút nghiêm trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào miền núi bị đe doạ
thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích hợp nữa. Người ta
đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái rừng thông qua việc ban bố một số


9

chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài
nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất
hiện đầu tiên ở Ấn Độ và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau như
lâm nghiệp trang trại, lâm nghiệp xã hội (Nêpan, Thái Lan, Philippin,...) [dẫn theo 17].
Nhằm khắc phục tình trạng khai thác rừng quá mức, các nhà khoa học cũng
đã nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng như: Các
nhà lâm học Đức (G. L. Hartig, 1840; Heyer, 1883; Hundeshagen, 1926) [44] đã đề
xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đồng tuổi; Các nhà lâm học
Pháp (Gournand, 1922) và Thuỵ Sỹ (H.Biolley, 1922) đã đề ra phương pháp kiểm
tra điều chỉnh sản lượng với rừng khai thác chọn khác tuổi,...
Vào cuối thế kỷ XX, khi tài nguyên rừng đã bị suy thoái nghiêm trọng thì
con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là có hạn và đang bị suy giảm
nhanh chóng, nhất là tài nguyên rừng nhiệt đới. Nếu theo đà mất rừng mỗi năm
khoảng 15 triệu ha như số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn 100 năm nữa rừng
nhiệt đới hoàn toàn bị biến mất, loài người sẽ chịu những thảm hoạ khôn lường về
kinh tế, xã hội và môi trường [38].
Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng gia
Chitwan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững, cộng đồng dân cư vùng đệm được
tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong việc quản lý tài nguyên vùng đệm
phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài nguyên là

khoảng 30 - 50% thu được từ du lịch hằng năm sẽ được đầu tư trở lại cho các hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng [42].
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Đánh giá dự án
Theo Vũ Nhâm (2002), bất kỳ một dự án nào khi đi vào hoạt động để đạt
được mục tiêu của mình một cách hiệu quả, cần đáp ứng được yêu cầu cơ bản của
dự án như sau: tính khoa học; tính thực tiễn; tính pháp lý và tính thống nhất [5].
Theo Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang (2000) [8] dự án được hiểu như một kế


10

hoạch can thiệp để giúp cộng đồng dân cư hoặc cá nhân cải thiện điều kiện sống
trên một địa bàn nhất định.
Ở Việt Nam, các dự án đầu tư cho phát triển rừng đã được tiến hành cách đây
trên nửa thế kỷ nhưng chỉ vài chục năm gần đây mới được thực hiện trên quy mô
lớn. Thời kỳ đầu chúng ta mới chỉ chú trọng đến hiệu quả kinh tế còn hiệu quả về
xã hội và môi trường sinh thái hầu như chưa được quan tâm đến.
Phạm Xuân Thịnh (2002) [21], Đàm Đình Hùng (2003) [9] đã đề cập đến
một số tác động của dự án về mặt kinh tế, xã hội và môi trường, đúc kết các kinh
nghiệm, rút ra những mặt làm được và những mặt còn tồn tại làm cơ sở định hướng
phát triển ở giai đoạn hậu dự án và cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Tuy nhiên, các báo cáo mới chỉ mô tả các hoạt động của dự án, còn đánh giá tác
động của dự án mang nhiều tính chất định tính cảm quan hơn là các số liệu định lượng.
Lại Thị Nhu (2004) khi “Đánh giá tác động của dự án trồng rừng nguyên
liệu ván dăm giai đoạn 1999 - 2003 của Công ty Lâm nghiệp Thái Nguyên” [14] đã
đánh giá về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường, quá trình đánh giá có sử dụng các
chỉ tiêu chỉ báo, có sự so sánh các lĩnh vực trước và sau dự án. Tuy nhiên, tác giả
mới chỉ dừng lại ở những tác động tích cực mà chưa đi sâu phân tích những tác
động tiêu cực của dự án.

Dự án “Đánh giá tác động môi trường Lâm nghiệp Việt Nam qua một số mô
hình liên kết quản lý rừng cộng đồng tại Yên Bái và Hà Giang” cũng đã có các
nghiên cứu đánh giá chính sách Lâm nghiệp thông qua các mô hình liên kết quản lý
rừng tại hai tỉnh miền núi phía Bắc và cũng có những kết luận và kiến nghị để có
thể duy trì thành công của các dự án: (i) rà soát lại các quỹ đất rừng do Lâm nghiệp
quản lý; (ii) rà soát lại các hợp đồng khoán QLBV, khoanh nuôi và trồng rừng do
các đơn vị kinh doanh quản lý; (iii) kết hợp chặt chẽ chức năng phòng hộ với chức
năng sản xuất; (iv) có chính sách cho người hưởng lợi từ khi được giao đất giao
rừng hay khoán BVR và trồng rừng; (v) phát triển thị trường lâm sản địa phương;
(vi) xây dựng quỹ bảo vệ và tái tạo rừng của thôn bản; (vii) khẳng định vị trí pháp
lý của cộng đồng thôn bản để quản lý sử dụng rừng như những chủ thể khác [25].


11

1.2.2. Nghiên cứu xói mòn đất và thủy văn rừng
Nghiên cứu về xói mòn đất là cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây dựng
rừng phòng hộ đầu nguồn. Ở nước ta vấn đề này được nhiều tác giả rất quan tâm.
Theo Nguyễn Quang Mỹ (1984) [11] thì vấn đề xói mòn đất đã bắt đầu được quan
tâm ở nước ta từ trước những năm 1954, bước đầu mới chỉ là những biện pháp
chống xói mòn sơ khai như làm ruộng bậc thang, xây kè cống.
Trong những năm 1980, các công trình nghiên cứu đã tập trung vào xói mòn
đất và khả năng giữ nước của một số thảm cây trồng nông nghiệp và công nghiệp,
đặc biệt là ở các tỉnh vùng Tây Nguyên. Trong thời gian này nhiều khu nghiên cứu
quan trắc định vị đã được xây dựng kiên cố bằng gạch và xi măng, gỗ, kim loại,...
Hàng loạt công trình mang nhiều sắc thái và đi vào định lượng như công trình
nghiên cứu của Nguyễn Quang Mỹ, Quách Cao Yêm, Hoàng Xuân Cơ (1984) [11].
Những công trình nghiên cứu này đã làm rõ ảnh hưởng của nhân tố địa hình tới xói
mòn, vai trò chống xói mòn của một số thảm thực vật nông nghiệp, đã chú ý tới độ
che phủ gắn liền với các giai đoạn phát triển của cây trồng, định hướng cho việc xây

dựng các giải pháp phòng chống xói mòn trên sườn dốc. Tuy nhiên, khả năng giữ
nước của các thảm thực vật còn ít được chú ý (Phạm Văn Điển, 2004) [4].
Trong công trình nghiên cứu xói mòn đất ở Thanh Hoà (Vĩnh Phúc), Nguyễn
Quang Mỹ và Đào Đình Bắc (1985) [dẫn theo 13] đã đưa ra một số nhận xét về đặc
điểm xói mòn đất ở Việt Nam như sau: quá trình xói mòn đất ở Việt Nam hiện
tượng xói mòn theo bề mặt gây tác hại to lớn hơn cả, tiếp sau là xói mòn theo dòng,
còn xói mòn do gió chỉ hoạt động ở một số nơi có điều kiện thích hợp như ở Tây
Nguyên và giải đồng bằng hẹp ven biển miền Trung. Việc chống xói mòn ở Việt
Nam phải mang đặc điểm riêng của miền nhiệt đới ẩm, chứ không thể theo khuôn
mẫu của các nước Châu Âu, Châu Mỹ; cường độ xói mòn đất ở Việt Nam rất mạnh
(150 - 200 tấn/ha/năm), song các biện pháp chống xói mòn còn rất thô sơ và chưa
được triển khai rộng rãi. Nhận định này của tác giả có lẽ hơi phiến diện, vì lượng
đất xói mòn 150 - 200 tấn/ha/năm chỉ xảy ra ở một số nơi có độ dốc lớn, đất có kết


12

cấu không tốt, nghèo mùn, thảm thực vật trơ trụi, chứ không thể là lượng đất xói
mòn bình quân ở nước ta.
Nghiên cứu của Phạm Văn Sơn (1994) [20] cho thấy bình quân mỗi năm
lòng hồ thủy điện Hòa Bình bị bồi lắng bình quân từ 0,3 - 0,5 m. Bồi lắng ở sông
Đà sẽ làm cho hồ chứa nước Hòa Bình bị giảm tuổi thọ từ 250 năm theo thiết kế
xuống chỉ còn 50 - 100 năm.
Vai trò của rừng trong việc giữ nước là rất quan trọng. Nghiên cứu của Võ
Minh Châu, 1993 (dẫn theo Vương Văn Quỳnh, 1999) [16] cho thấy sự suy giảm
diện tích rừng đầu nguồn sông Ngàn Mọ từ 23.971 ha xuống còn 6.000 ha đã làm
cho lượng nước hồ Kẻ Gỗ giảm đi đáng kể từ 340 triệu m3 xuống còn 60 triệu m3 nước,
do đó không đảm bảo nước cho sản xuất nông nghiệp trên diện tích 6 nghìn ha.
Các nghiên cứu của Bùi Ngạnh và Vũ Văn Mễ (1995) [13]; Bùi Ngạnh và
Nguyễn Ngọc Đích (1985) [12] cho thấy sự thay đổi dòng chảy mặt ở một số dạng

rừng khác nhau, trên cơ sở đó các tác giả đã đề xuất những mô hình bố trí các đai
rừng giữ nước trên sườn dốc. Năm 1981, Lê Đăng Giảng và Nguyễn Thị Hoài Thu
(1981) [5] đã tổng kết kết quả nghiên cứu về khả năng giữ nước, điều tiết dòng chảy
của rừng thứ sinh hỗn giao lá rộng tại núi Tiên, Hữu Lũng, Lạng Sơn. Các tác giả đã
đề nghị việc xây dựng và thiết kế rừng phòng hộ ở các triền sông phải phát huy
được khả năng giữ nước cao nhất của nó trong những thời điểm lượng mưa mùa tập
trung cao.
Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) [6], Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải
(1997) [10] cho thấy vai trò điều tiết nước, chống xói mòn đất của rừng rất lớn:
lượng nước mưa bị tán rừng ngăn cản dao động từ 5,75 - 11,6% tùy thuộc vào từng
loại rừng; lượng nước tạo thành dòng chảy ngầm và các dạng khác từ 88,2% 92,5% tổng lượng nước mưa; lượng nước tạo thành dòng chảy bề mặt ở những nơi
có rừng rất thấp, qua đó hạn chế khả năng hình thành lũ và lũ quét. Một thành quả
được thể hiện rõ nét qua công trình nghiên cứu này là việc xác định cấu trúc hợp lý
của thảm thực vật rừng chống xói mòn đất. Hai tác giả đã xây dựng được bảng tra
hệ số thảm thực vật (hệ số C) tương ứng với đặc điểm và cấu trúc của một số thảm


13

rừng. Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế và Vũ Tấn Phương (2002) [18] đã đưa ra dẫn
liệu lưu lượng dòng chảy tại nơi có rừng thấp hơn từ 2,5 đến 27 lần so với khu vực
canh tác nông nghiệp, rừng tự nhiên có tác dụng tốt hơn rừng trồng trong việc giảm
dòng chảy mặt; dòng chảy kiệt ở nơi có rừng cao hơn ở nơi không có rừng.
1.2.3. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng các mô hình rừng phòng hộ
Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004) thì rừng phòng hộ đầu nguồn
phải được xây dựng thành rừng tập trung, liền vùng, nhiều tầng. Tại Điều 28 Quyết
định 186/TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế
quản lý rừng quy định: Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn phải đạt được độ tàn che
từ 0,6 trở lên để rừng có khả năng duy trì, điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, giảm
xói mòn. Đây là những cơ sở khoa học và pháp lý quan trọng cho việc xây dựng

rừng phòng hộ đầu nguồn nước ta.
Theo Nguyễn Anh Dũng (2006) thì ở nước ta hiện nay có 2 giải pháp kỹ
thuật chủ yếu để phục hồi và phát triển rừng, đó là trồng rừng và khoanh nuôi xúc
tiến tái sinh có trồng bổ sung. Vấn đề khoanh nuôi phục hồi rừng ở nước ta đã được
đặt ra từ rất sớm, vào khoảng những năm 1950 sau khi miền Bắc được giải phóng,
vấn đề này được đề cập đến trong thuật ngữ “khoanh núi nuôi rừng”. Tuy nhiên, vì
nhiều lí do mà trong một thời gian rất dài sau đó người ta chỉ chú ý đến khai thác
rừng tự nhiên là chính. Mãi đến những năm 1990, cái được gọi là “khoanh núi nuôi
rừng” mới được định hình và phát triển theo cụm thuật ngữ “phục hồi rừng bằng
khoanh nuôi xúc tiến tái sinh”. Điều này được thể hiện trong 2 quy phạm ngành
QPN 14-92 và QPN 21-98.
Trồng rừng phòng hộ là giải pháp duy nhất để khôi phục rừng trên những
vùng đất trống, đồi núi trọc, đất rừng đã bị thoái hoá. Trong đó việc lựa chọn loài
cây trồng là một khâu rất được chú ý vì nó góp phần quyết định đến khả năng phòng
hộ của rừng. Sau nhiều năm tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn, một danh sách gồm
34 loài cây trồng rừng phòng hộ đã được đề xuất cho trồng rừng phòng hộ trên cả
nước. Hoàng Liên Sơn và các cộng tác viên (2005) [19] đã tổng kết và đưa ra danh


14

sách 50 loài cây, chia làm 4 nhóm chính được sử dụng cho trồng rừng phòng hộ
trong Dự án 661 trên phạm vi toàn quốc.
Võ Đại Hải, Nguyễn Xuân Quát và Đào Công Khanh (1997) đã nghiên cứu
xác định chủng loại cây bản địa phục vụ cho trồng rừng phòng hộ ở một số vùng
trọng điểm. Trên cơ sở tiêu chuẩn cây bản địa đưa vào trồng rừng phòng hộ là phải
phù hợp với tiểu vùng sinh thái, kết hợp được với nhau, có tác dụng phù trợ lẫn
nhau, điều tiết nguồn nước, chống xói mòn, giữ đất, sống lâu năm, tán lá dày, rậm
và thường xanh, bộ rễ phát triển sâu,... các tác giả đã đưa ra mô hình trồng rừng
phòng hộ dự tuyển cho 7 vùng sinh thái lâm nghiệp trên cả nước. Trong đó, vùng

Tây Bắc có 2 mô hình:
+ Thông 3 lá + Táo mèo: 1 hàng (3 x 2m) + 1 hàng (3 x 2m).
+ Long não + Trẩu ta: Rạch 1 hàng (9 x 2m) + băng 2 hàng (3 x 2m).
Võ Đại Hải (2000) [7] trong khi nghiên cứu những giải pháp cho quản lý và
xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn ở Tây Nguyên đã đưa ra một số mô hình phục
hồi rừng phòng hộ đầu nguồn khá thành công là các mô hình tại Kbang – Sơ Pai
tiểu vùng Kon Hà Nừng; mô hình trên quốc lộ 22 gần huyện Kông – Plông miền
Đông Kon Tum; mô hình gần quốc lộ 20 vùng hồ Thuỷ Tiên - Đà Lạt. Đây đều là
các đối tượng rừng sau khai thác kiệt và rừng phục hồi sau nương rẫy. Sau khi áp
dụng khoanh nuôi có trồng bổ sung các đối tượng rừng trên đều phục hồi khá tốt.
Việc nghiên cứu và xác định cấu trúc hợp lý của rừng phòng hộ làm cơ sở
cho việc xây dựng các khu rừng phòng hộ có chất lượng cao cũng đã được quan
tâm. Năm 1996, Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải đã công bố “Kết quả bước đầu
nghiên cứu tác dụng phòng hộ nguồn nước của một số thảm thực vật chính và các
nguyên tắc xây dựng rừng phòng hộ nguồn nước”, trong đó các tác giả đã đánh giá
được năng lực phòng hộ của một số dạng cấu trúc thảm thực vật rừng về mặt chống
xói mòn và điều tiết nguồn nước. Trên cơ sở đó đề xuất những mô hình rừng phòng
hộ đầu nguồn có cấu trúc hợp lý.
Theo Hoàng Liên Sơn và các cộng tác viên (2005) [19] thì Dự án 661 giai
đoạn 1998 - 2004 đã xây dựng được khá nhiều mô hình rừng trồng phòng hộ đầu


15

nguồn. Kết quả tổng hợp số liệu báo cáo của các tỉnh có trồng rừng phòng hộ đầu
nguồn cho thấy các mô hình khá đa dạng, tổng số có tới 188 mô hình trồng rừng
phòng hộ đầu nguồn, mật độ trồng rừng rất khác nhau tuỳ thuộc vào từng loài cây
và kỹ thuật áp dụng trong mỗi mô hình. Căn cứ vào các loài cây trồng rừng phòng
hộ đầu nguồn có thể chia các mô hình trồng rừng phòng hộ đầu nguồn thành 4
nhóm chính là cây bản địa trồng hỗn giao với nhau và cây bản địa hỗn giao với cây

phù trợ; các loài Thông trồng thuần loài và Thông trồng hỗn giao với các loài cây
khác; các loài Keo trồng thuần loài và Keo trồng hỗn giao với các loài cây khác; các
loài Tre, luồng trồng thuần loài. Trong những năm gần đây, các mô hình này đã đa
dạng hơn và được phát triển rộng hơn ở nhiều tỉnh. Ngoài ra, rừng tre luồng có khả
năng chống xói mòn tốt do lá rụng nhiều và khó phân huỷ, rễ cây nhiều chủ yếu
phân bố ở bề mặt đất nên che phủ đất tốt.
1.2.4. Các chính sách tổ chức, quản lý rừng phòng hộ
Việc tổ chức quản lý rừng phòng hộ đã được quy định cụ thể trong nhiều các
văn bản pháp quy của Nhà nước như Quy chế quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng, rừng sản xuất là rừng tự nhiên ban hành theo Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg
ngày 11/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ [31]; Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm
2004 [30]; Quy chế quản lý rừng ban hành kèm theo Quyết định số 186/2006/ QĐTTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ [32]; Nghị định số 23/2006/NĐ-CP
ngày 03 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển
rừng [29],... theo đó việc tổ chức, quản lý rừng phòng hộ nước ta có thể tóm tắt như sau:
Rừng phòng hộ nói chung và rừng phòng hộ đầu nguồn nói riêng được Nhà
nước thống nhất quản lý và xác lập thành hệ thống các khu rừng phòng hộ quốc gia
do Bộ NN & PTNT trực tiếp quản lý. Trong khung tổ chức quản lý của Bộ NN &
PTNT có 2 Cục liên quan đến quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn: 1) Cục Lâm
nghiệp (nay là Tổng Cục Lâm nghiệp) - chịu trách nhiệm về các hoạt động phục
hồi, phát triển vốn rừng phòng hộ, các chính sách quản lý và khuyến lâm; 2) Cục
Kiểm lâm (nay trực thuộc Tổng Cục Lâm nghiệp) - chịu trách nhiệm bảo vệ, phòng
chống cháy rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng,… ở cấp tỉnh có Chi cục Lâm


×