Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Những nguyên nhân cơ bản của khủng hoảng nợ hi lạp, các nước châu âu và những giải pháp cho vấn đề nợ công đang được tiến hành ở các nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.81 KB, 18 trang )

Đề tài thảo luận nhóm 3

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I - CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. KHÁI NIỆM NỢ CÔNG
II. PHÂN LOẠI NỢ CÔNG

1. Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước)
2. Nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước)
3. Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống)
4. Nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm)
5. Nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10
năm)
III. CÁC HÌNH THỨC VAY NỢ CỦA CHÍNH PHỦ

1. Phát hành trái phiếu chính phủ
2. Vay trực tiếp
IV. TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG

1. Về tính trung lập của nợ chính phủ
2. Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỦNG HOẢNG
NỢ CÔNG Ở HI LẠP VÀ CÁC NƯỚC CHÂU ÂU
I.

THỰC TRẠNG

1.

Tình hình khủng hoảng nợ Hy Lạp



2.
3.

Ảnh hưởng xấu tới tình hình các nước trong khu vực
Tác động đến Thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng
Châu Âu

4.

Tác động đến đồng Euro
1

Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

II.

NGUYÊN NHÂN
1. Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu
công.
2. Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách.
3. Nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt
ngân sách và gia tăng nợ công.
4. Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng
nguồn vốn không hiệu quả.
5. Thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư


CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ NỢ CÔNG ĐANG
DIỄN RA Ở CÁC NƯỚC
I.

NHỮNG BIỆN PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ HI LẠP
1. Tăng các loại thuế
2. Đánh thuế vào hàng xa xỉ
3. Đánh thuế vào một số mặt hàng tiêu dùng nội địa
4. Giảm chi tiêu công
5. Giảm chi tiêu quân sự
6. Giảm chi tiêu giáo dục
7. Giảm chi tiêu cho an sinh xã hội
8. Tư hữu hóa chính phủ
9. Sa thải công chức
10. Giảm chi tiêu y tế

II.

GIẢI PHÁP CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU EU VÀ

TỔ CHỨC TIỀN TỆ THẾ GIỚI IMF ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NỢ
CÔNG
1. cấp các khoản viện trợ điều chỉnh cơ cấu và các khoản vay thương
mại
2. lập quỹ chống khủng hoảng
2
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3


3. mở lại các dịch vụ hoán đổi tiền tệ
4. các giải pháp khác
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
2. Hướng phát triển của đề tài
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và có nhiều chuyển biến
khó lường, điển hình là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ cuối năm 2008,
đầu năm 2009, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đang lan sang một số nước châu
âu, nợ công và quản lý nợ công trở thành vấn đề nóng được các nhà lãnh đạo các
quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Đầu tháng 11 tới, nhóm các nền kinh tế
phát triển và mới nổi (G20) sẽ tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh tại Pháp, trong đó
vấn đề nợ công châu Âu là một trong những chủ đề chính. Hội nghị cũng là nỗ lực
tiếp theo của giới lãnh đạo châu Âu trong việc tìm kiếm các giải pháp ngăn chặn
khủng hoảng nợ công trong khu vực, tiếp sau 3 hội nghị của khối này vừa được tổ
chức trong một thời gian ngắn vừa qua. Có thể thấy, nợ công không chỉ là nỗi lo
lắng của chính phủ mà còn là sự quan tâm của cả cộng đồng. Vì thế, Nhóm chúng
tôi chọn đề tài: " những nguyên nhân cơ bản của khủng hoảng nợ Hi Lạp, các
nước Châu Âu và những giải pháp cho vấn đề nợ công đang được tiến hành ở các
nước". Mong rằng, qua đề tài, chúng ta sẽ hiểu sâu sắc hơn về vấn đề nợ công và
tìm ra được những giải pháp hợp lí để giải quyết triệt để.
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. KHÁI NIỆM NỢ CÔNG
Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền
mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.Việc đi vay này
là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính
phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy
3
Ktpt lớp 4A.07



Đề tài thảo luận nhóm 3

mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần
trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Tuy nhiên khi xem xét vấn đề nợ công, nếu chỉ xét tỷ lệ nợ công /GDP thì chưa đủ
bởi tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về mức độ an toàn hay rủi ro
của nợ công. Nếu xem xét tỷ lệ đó mà khẳng định nợ công an toàn thì chưa có cơ
sở. Nợ công khoảng 100%GDP đủ để một nước như Hy Lạp rơi vào tình trạng phá
sản, trong khi đó nợ công lên tới hơn 200% như Nhật Bản vẫn được coi là an toàn
bởi vì nợ công của Nhật Bản chủ yếu là nợ vay trong nước. Vì vậy, khi xét đến nợ
công, điều cốt lõi không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả mà
phải quan tâm tới rủi ro và cơ cấu nợ. Nghĩa là phải tính tới khả năng trả nợ và rủi
ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP. Mức độ an toàn hay
nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn,
phụ thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế.
II. PHÂN LOẠI NỢ CÔNG
1.

Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước)

2. Nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước)
3. Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống)
4. Nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm)
5. Nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm)
III. CÁC HÌNH THỨC VAY NỢ CỦA CHÍNH PHỦ
1. Phát hành trái phiếu chính phủ
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân.
Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì

Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi
đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ
mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì
chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về
tỷ giá hối đoái .
4
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

2. Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể
chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ tiền tệ quốc tế)... Hình thức này thường được Chính
phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ
bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.

IV. TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG
1. Về tính trung lập của nợ chính phủ
Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có tác động đến nền kinh tế hay
không:
Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng
nợ chính phủ kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng
tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng dẫn
đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và thu nhập quốc dân thấp hơn
trong dài hạn.
Quan điểm Barro-Ricardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp
bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không
làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch chuyển
thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ chính phủ

giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm trong
tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà
hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền đóng
thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá.
Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi của
người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu
dùng.
5
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

2. Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn
một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng
trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường
xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì
sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu
chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã
chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế
đầu tư.
Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một
tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ
trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm
méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ
nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng

crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).
Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu
chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ
giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy
động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh
tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư
nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm
của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi suất trong
nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước
6
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu
ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng
không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài sản thì
khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người
nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng
cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành
công trái) và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng
lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc
độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở
HI LẠP VÀ CÁC NƯỚC CHÂU ÂU
I. THỰC TRẠNG

1.Tình hình khủng hoảng nợ Hy Lạp
Từ lúc bắt đầu tham gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Euro) vào giữa năm
2001 cho đến năm 2008 - khi khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra, ngân sách
quốc gia Hy Lạp luôn nằm trong tình trạng thâm hụt với mức trung bình 5%
GDP/năm trong khi tính trung bình cho toàn khu vực sử dụng đồng tiền chung
châu Âu (Eurozone), con số này chỉ dừng lại ở mức 2%/năm. Cùng với thâm hụt
ngân sách, cán cân vãng lai của quốc gia này cũng liên tục bị thâm hụt, trung bình
vào khoảng 9% GDP hàng năm (so với mức trung bình của toàn khu vực
Eurozone là 1%).

7
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp đều
vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu
(EMU), đặc biệt là Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên minh châu Âu
(EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP và trần nợ nước ngoài 60%
GDP. Tuy nhiên, không chỉ có mình Hy Lạp mà trong số 27 quốc gia thành viên
EU, cũng có tới 20 thành viên hiện tại đang vi phạm mức trần mà Hiệp ước Bình
ổn và Tăng trưởng đặt ra. Để bù đắp cho khoản thâm hụt kép này, Hy Lạp đã đi
vay trên thị trường vốn quốc tế và trong suốt một thập kỷ trước khi diễn ra cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, chính phủ này đã vay mượn khá nặng
nề từ bên ngoài, trở thành một con nợ triền miên với tổng số nợ nước ngoài lên tới
115% GDP vào năm 2009.
Bắt đầu từ cuối năm 2009, niềm tin của các nhà đầu tư vào chính phủ Hy Lạp
bắt đầu bị lung lay khi vào tháng 10, chính phủ mới do Thủ tướng George
Papandreou lãnh đạo đưa ra con số ước tính thâm hụt ngân sách mới cho năm

2009 là 12,7% GDP, gần gấp đôi con số ước tính hiện tại lúc đó là 6,7%. Lập tức
công bố này đã khiến cho trái phiếu chính phủ Hy Lạp bị ba tổ chức định mức tín
dụng lớn của thế giới đánh tụt hạng. Tới cuối tháng 11, thì những lo ngại về tình
trạng vỡ nợ của Dubai World lại dấy lên những quan ngại về khả năng xảy ra tình
trạng vỡ nợ quốc gia hàng loạt của các chính phủ dưới sức ép của khủng hoảng tài
chính, trong đó Hy Lạp với những khoản nợ nước ngoài lớn đã trở thành mối quan
tâm đặc biệt của các nhà đầu tư. Những nghi ngờ về việc chính phủ Hy Lạp đã
làm sai lệch số liệu thống kê và cố tình che giấu mức độ nợ thật sự nhờ vào các
công cụ tài chính phức tạp đã khiến các nhà đầu tư giảm sút lòng tin nặng nề vào
quốc gia này. Trước khủng hoảng, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Hy Lạp
cao hơn từ 10 đến 40 điểm cơ sở so với trái phiếu cùng kỳ hạn của Đức thì khi
khủng hoảng nợ nổ ra, khoảng cách này tăng lên tới 400 điểm cơ sở vào tháng
01/2010, mức kỷ lục bấy giờ.
Sự nghi ngờ của giới đầu tư lên đến đỉnh điểm lần nữa vào tháng 4/2010 khi Cơ
quan Thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) công bố ước tính về thâm hụt
8
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

ngân sách của Hy Lạp. Với con số 13,6% GDP, ước tính của Eurostat cao hơn hẳn
so với con số ước tính được chính phủ Hy Lạp đưa ra trước đó vào tháng 10/2009.
Điều này lặp lại một câu hỏi về khả năng trả nợ của Hy Lạp với 8,5 tỷ euro (11,1
tỷ đô la Mỹ) đến hạn vào giữa tháng 5/2010.
Đến ngày 23/4/2010, chính phủ Hy Lạp đã phải chính thức kêu gọi hỗ trợ tài
chính từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các quốc gia thành viên Eurozone khác.
2.Ảnh hưởng xấu tới tình hình các nước trong khu vực
Trước tiên có thể thấy cuộc khủng hoảng Hy Lạp là một trong những nguyên
nhân khiến cho sự phục hồi kinh tế của khu vực đồng tiền chung Châu Âu chậm

hơn và khá khiêm tốn .
Ngân khố quốc gia cạn kiệt, Hy Lạp không có khả năng trả số nợ nước ngoài lên
tới 581,68 tỷ USD chiếm 170,5% GDP, trong đó nợ khu vực EU là 236 tỷ gồm:
nợ Pháp 75 tỷ, Đức 45tỷ, Anh 15 tỷ, thiếu các ngân hàng Bồ Đào Nha 10 tỷ, Tây
Ban Nha 86 tỷ. S&P cảnh báo rằng, những người nắm giữ trái phiếu do chính phủ
Hy Lạp phát hành có thể sẽ bị mất tới 50% số tiền thậm chí những quốc gia nắm
giữ số lượng lớn trái phiếu Hy Lạp như Pháp, Đức, Thụy Sĩ đứng trước nguy cơ
mất trắng nếu hy lạp vỡ nợ. Điều này gây ra ảnh hưởng xấu tới ngân sách các
nước chủ nợ trong bối cảnh khủng hoảng nợ Hy lạp đang bắt đầu lây lan sang các
nước trong khu vực cũng đang ngập trong nợ công và tình trạng thâm hụt ngân
sách ở mức đáng báo động.
Theo dự báo của ủy ban Châu Âu, tổng thâm hụt ngân sách trong khu vực đồng
euro năm 2010 sẽ tăng 6,6% GDP so với 6,3% năm 2009. Thâm hụt ngân sách ở
các nước này luôn ở mức cao trong những năm gần đây, thêm vào đó là những
khoản nợ khó đòi và gánh nặng lớn từ gói cứu trợ 80 tỷ euro cho Hy Lạp khiến
nguồn lực cho những chính sách tài khóa ít đi.
Cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp như một đòn cảnh tỉnh đối với các quốc gia có tỷ
lệ nợ công cao, đang đứng trên bờ vực khủng hoảng nợ. Vì thế, ngay lập tức, các
chính phủ các nước áp dụng các biện pháp thắt chặt chi tiêu, thắt lưng buộc bụng
nhằm giảm thâm hụt ngân sách như tăng tuổi về hưu, tăng thuế, đóng băng tiền
9
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

lương hưu của những người từng làm trong lĩnh vực nhà nước… để tránh trở
thành quân bài domino tiếp theo.
Tuy nhiên giảm thâm hụt ngân sách lại làm cho nền kinh tế giảm sâu hơn trong
khi cần thực hiện những biện pháp kích thích tăng trưởng kinh tế thoát khỏi khủng

hoảng. Điều này dồn các nước trong khu vực rơi vào cảnh hoạ vô đơn chí, hình
thành nên cái vòng luẩn quẩn:“để trả nợ phải thắt chặt chi tiêu - thắt chặt chi tiêu
khiến nền kinh tế đi xuống - nền kinh tế đi xuống làm nợ tăng - nợ tăng lại phải
vay thêm - muốn vay thêm lại phải thắt chặt chi tiêu“. Hệ quả là, các quốc gia này
mãi mãi không thể trả hết nợ.
3. Tác động đến Thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Châu Âu
Nguy cơ về khả năng Hy Lạp sẽ bị khai trừ khỏi EU khiến các ngân hàng châu
Âu trở nên bối rối trước những khoản nợ của quốc gia này và của một số chính
phủ châu Âu.
Thị trường lo lắng về số phận của đất nước có tỷ lệ nợ vượt quá tầm kiểm soát
của chính phủ nhưng người ta cũng lo lắng nhiều hơn về cái gọi là hiệu ứng lây
lan, thuật ngữ ám chỉ sự lan rộng khó đoán của khủng hoảng tài chính.
Các nhà đầu tư ngại rót vốn vào hệ thống ngân hàng châu Âu do các ngân hàng
này đang ôm rất nhiều trái phiếu chính phủ, riêng các công ty tài chính lớn nhất
châu Âu nắm giữ trên 134 tỉ euro trái phiếu Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha. Sự do dự này của các nhà đầu tư đã làm tăng lãi suất trái phiếu ngân hàng,
một số ngân hàng châu Âu phải trả chi phí vay vốn cao hơn so với trước đây. Vào
ngày 2/9/2010, các nhà đầu tư yêu cầu tăng lãi suất thêm 383 điểm cơ bản (3,83
điểm phần trăm) khi mua lại trái phiếu chính phủ thời hạn 5-10 năm từ Ngân hàng
BNP Paribas SA (dữ liệu của Ngân hàng Merrill Lynch). Kết quả điều tra của
Morgan Stanley cho thấy, các ngân hàng khu vực nắm khoảng 90% nợ chính phủ
Hy lạp trên bảng cân đối tài sản.
Ngân hàng Trung ương châu Âu cảnh báo các ngân hàng thuộc khu vực đồng tiền
chung châu Âu có thể tiếp tục thua lỗ thêm 195 tỷ euro trong 18 tháng tới từ các
khoản nợ xấu và chứng khoán.
4. Tác động đến đồng Euro
10
Ktpt lớp 4A.07



Đề tài thảo luận nhóm 3

Cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp đã đẩy số phận của đồng euro tới miệng vực khi
đồng tiền này liên tục mất giá so với đồng USD và các đồng tiền chủ chốt khác.
Tỷ trọng của euro trong quỹ dự trữ của các Ngân hàng trung ương trên thế giới
vào cuối năm 2009 đã lên tới gần 30%, so với mức 17,9% từ khi ra đời. Nhưng
khi khu vực sử dụng đồng euro lâm vào khó khăn do sự lây lan của virut nợ Hy
Lạp, các món nợ khổng lồ và chồng chéo nhau được lộ rõ, thì sức mua của Euro
suy giảm sút mạnh.
II. NGUYÊN NHÂN
1.Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu
công.
Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng mạnh, bình quân ở mức 4.2%/năm trong giai
đoạn 2002-2007. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên
minh châu Âu (EU), tạo điều kiện cho chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài
trợ cho chi tiêu công.
Thêm vào đó, tiết kiệm nội địa của nước này cũng sụt giảm nhanh chóng
Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%,
thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban
Nha và đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng (năm 2010 tỷ lệ tiết kiệm của
Hy Lạp là 6% GDP ). Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các
dòng vốn đến từ bên ngoài. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia
nhập liên minh châu Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân
chúng cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có
buộc chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
2. Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách.
Tăng trưởng GDP của Hy Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình
hàng năm là 4,3% (2001 – 2007) so với mức trung bình của khu vực Eurozone
là 3,1%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mức chi tiêu chính phủ tăng 87%
11

Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

trong khi mức thu của chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm hụt
vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU.
Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm
vấn đề. Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh
đến các ngành công nghiệp chủ chốt của nước này. Ngành du lịch và vận tải
biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng
lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co
hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích
kinh tế.
Năm 2009, tổng số nợ công của Hy Lạp lên tới 300 tỷ euro, chiếm 124 %
GDP, thâm hụt ngân sách lên tới hai con số, trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn
tiếp tục âm. Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp trong nửa đầu năm 2011 là hơn
14,69 tỷ euro, trong khi mục tiêu cả năm là gần 17 tỷ euro. Nợ công của Hy
Lạp đang ở mức 350 tỷ euro.
Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu
vực châu Âu của Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi
tiêu công. Ước tính tổng số tiền chi trả cho lương hưu khu vực công của Hy
Lạp sẽ tăng từ 11,5% GDP (2005) lên 24% (2050).
3. Nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt
ngân sách và gia tăng nợ công
Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm giảm nguồn
thu ngân sách. Theo đánh giá của WB, kinh tế không chính thức ở Hy Lạp
chiếm tới 25 - 30% GDP(so với mức 15,6% GDP của Việt Nam; 13,1% GDP
của Trung Quốc và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế với
nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu

hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và
kinh tế ngầm phát triển ở Hy Lạp.
Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ
tham nhũng cao nhất trong EU. Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới
12
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

750 triệu EUR tiền phong bì cho các lãnh đạo khu vực công và khu vực tư Thủ
tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham nhũng mang tính hệ
thống” là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình trạng nợ công Hy Lạp. Thiệt hại mà
tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8% GDP Tham nhũng
không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy
trì mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay
vì nhắm vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động.
Mức lương cao không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho tính
cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá từ
mức 1 euro đổi hơn 0,8 USD lên đến 1 euro đổi 1,6 USD trong suốt giai đoạn
từ 2000-2008 khiến sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu và hệ quả tất yếu
là một cán cân thương mại thâm hụt triền miên.
4. Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng
nguồn vốn không hiệu quả.
Việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với
thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những nền kinh tế
lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân
hàng TƯ châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên
có được hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ dàng
thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Gần một thập kỷ qua,

Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD. Số tiền
này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi
tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ
sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ
5. Thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư
Uy tín của Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề, Hy Lạp vay nợ rất nhiều
trên các thị trường tài chính để đảm bảo thanh khoản cho bội chi ngân sách.
Giới hạn bội chi ngân sách cho phép trong khu vực euro chỉ là 3% GDP, trong
khi đó mức này của Hy Lạp năm 2009 lên tới 13,6%, và thậm chí có thể tăng
13
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

tới trên 14% GDP. Để che giấu việc chi tiêu quá tay trong nhiều năm của
mình, Chính phủ Hy Lạp đã thực hiện báo cáo số liệu không nhất quán và sai
lệch, đưa ra nhiều khoản mục bất thường trong ngân sách.
Khi Hy Lạp lâm vào khủng hoảng nợ, mức tín nhiệm của trái phiếu Hy Lạp
bị hạ, chi phí lãi vay tăng lên cho các khoản vay mới và chi phí bảo hiểm các
khoản tiền vay tăng mạnh. Điều này tác động xấu đến tâm lý nhà đầu tư trong
và ngoài nước, khiến cho kỳ vọng về sự hồi phục kinh tế sẽ tiếp tục thấp. Theo
dự báo của Ngân hàng Trung ương Hy Lạp (BOG), nền kinh tế Hy Lạp sẽ suy
giảm ít nhất 3% trong năm 2011. Tỷ lệ thất nghiệp tăng trong khi lạm phát
hiện đang trên mức 5% (tháng 3/2011).
Khi niềm tin của nhà đầu tư (trong nước và nước ngoài) đối với triển vọng
của nền kinh tế và độ tín nhiệm của chính phủ bị tổn hại thì khó có thể xây
dựng lại. Chi phí cho một hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng của Hy Lạp trước
khi được cứu trợ khoảng 12%, sau đó giảm xuống 7% khi được cứu trợ vào
đầu năm 2010, hiện tăng trở lại lên trên 10% (nghĩa là phải tốn khoảng 1 triệu

EUR để bảo hiểm cho một khoản nợ 10 triệu EUR).
Sự phụ thuộc quá nhiều của Hy Lạp vào nguồn tài trợ nước ngoài đã khiến
cho nền kinh tế nước này trở nên dễ tổn thương trước những thay đổi trong
niềm tin của giới đầu tư. Sự nghi ngờ của giới đầu tư lên đến đỉnh điểm khi Cơ
quan Thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) công bố ước tính về thâm
hụt ngân sách của Hy Lạp là 13,6% GDP - cao hơn hẳn so với con số ước tính
được chính phủ Hy Lạp đưa ra trước đó. Trong thời đại hội nhập, thì minh
bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy
Lạp do chính phủ không minh bạch các số liệu, cố gắng vẽ nên bức tranh sáng,
màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban hành để khắc
phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô do vậy, hiệu lực
của những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
CHƯƠNG III

14
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ NỢ CÔNG ĐANG DIỄN RA Ở CÁC
NƯỚC
I NHỮNG BIỆN PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ HI LẠP
1. Tăng các loại thuế
Trong năm nay, Hy Lạp sẽ thu thêm 2,32 tỷ Euro thuế và lần lượt là 3,38 tỷ, 152
triệu và 699 triệu trong 3 năm tiếp theo. Trong đó, thuế đất sẽ tăng cao còn thuế
giá trị gia tăng (VAT) sẽ tăng từ 19% lên 23%.
2. Đánh thuế vào hàng xa xỉ
Những mặt hàng xa xỉ sẽ bị đánh thuê là du thuyền, hồ bơi và ô tô. Sẽ có một loại
thuế đặc biệt đánh vào các công ty làm ăn với lợi nhuận lớn, bất động sản giá trị

lớn và các nhân có thuế thu nhập cao.
3. Đánh thuế vào một số mặt hàng tiêu dùng nội địa
Thuế đánh vào các mặt hàng tiêu dùng nội địa như nhiên liệu, thuốc lá, thức uống
có cồn sẽ tăng một phần ba.
4. Giảm chi tiêu công
Chính phủ Hy Lạp đã đạt được thỏa thuận giảm chi tiêu công trị giá 6,6 tỷ Euro
(8,8 tỷ USD), bao gồm cả việc sa thải nhân viên nhà nước.Chính phủ nước này kì
vọng kế hoạch thắt chặt chi tiêu vừa được thông qua sẽ giúp hệ thống ngân sách
đảm bảo thanh toán trong thời gian chờ viện trợ và một gói giải cứu thứ 2 từ nhóm
3 tổ chức cứu trợ là Ủy ban Châu Âu EC, Ngân hàng châu Âu ECB và Quỹ tiền tệ
quốc tế IMF.
Theo thông báo từ Bộ Tài chính Hy Lạp, các biện pháp này sẽ giúp Athens giảm
thâm hụt ngân sách xuống 6,8% GDP, tương đương với 14,7 tỷ EUR, từ mức
8,5% GDP năm nay.
5. Giảm chi tiêu quân sự
Trong năm 2012, chi tiêu quân sự của Hy Lạp sẽ bị cắt giảm 200 triệu Euro và từ
năm 2013 đến 2015, mỗi năm sẽ giảm 333 triệu Euro.
6. Giảm chi tiêu giáo dục

15
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

Chi tiêu cho giáo dục cũng sẽ bị cắt giảm bằng cách đóng cửa hoặc sát nhập 1.976
trường học.
7. Giảm chi tiêu cho an sinh xã hội
Trong năm 2011, 1,09 tỷ Euro sẽ được cắt đi từ quỹ an sinh xã hội của Hy Lạp.
Tiếp đó, từ 2012 đến 2015 số cắt giảm lần lượt là 1,28 tỷ, 1,03 tỷ, 1,01 tỷ, và 700

triệu. Bên cạnh đó, độ tuổi về hưu cũng sẽ tăng từ 61 lên 65 tuổi.
8. Tư hữu hóa chính phủ
Chính phủ Hy Lạp sẽ tiến hành tư nhân hóa một số các doanh nghiệp quốc doanh,
trong đó có OPAP, Hellenic Postbank, Hellenic Telecom. Bên cạnh đó cũng sẽ
bán cổ phần tại Athens Water, công ty dầu khí Hellenic Petroleum, công ty điện
PPC và lender ATEbank và một số hải cảng, sân bay, đường cao tốc, quyền sở
hữu đất và khai khoáng.
9. Sa thải công chức
Trong năm 2011, cứ 10 công chức thì sẽ có 1 người bị sa thải. Còn trong những
năm tới, tỷ lệ sa thải sẽ là cứ 5 người thì sa thải 1 người.
10. Giảm chi tiêu y tế
Trong năm 2011, chi tiêu cho ý sẽ bị cắt giảm 310 triệu Euro và từ 2012 đến 2015
sẽ giảm 1,81 tỷ Euro.
II GIẢI PHÁP CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU EU VÀ TỔ CHỨC TIỀN TỆ
THẾ GIỚI IMF ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NỢ CÔNG
1. cấp các khoản viện trợ điều chỉnh cơ cấu và các khoản vay thương mại
Sau khi trải qua nhiều vòng đàm phán và tranh cãi giữa các nước thành viên Liên
minh châu Âu (EU), cuối cùng gói cứu trợ 110 tỷ Euro (tương đương 136 tỷ USD)
cũng đã được thông qua. Trong đó, EU sẽ chi 80 tỷ USD trong tổng kinh phí,
trong khi số còn lại sẽ được IMF trang trải. Đây là một quyết định khá táo bạo
nhưng hết sức cần thiết bởi vì cứu các nước đang khủng hoảng nợ công cũng là
cách để các nước EU tự cứu chính mình.
2. lập quỹ chống khủng hoảng
16
Ktpt lớp 4A.07


Đề tài thảo luận nhóm 3

Trong cùng động thái, EU đã lập quỹ chống khủng hoảng trị giá 750 tỷ Euro (gần

1,000 tỷ USD), trong đó có 250 tỷ Euro từ nguồn IMF, dành cho các nước EU để
ngăn chặn cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp đe dọa sự ổn định của các thị trường
tài chính toàn cầu.
3. mở lại các dịch vụ hoán đổi tiền tệ
Sau khi châu Âu thông qua kế hoạch cứu trợ, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) thông báo mở lại các dịch vụ hoán đổi tiền tệ để NHTW châu Âu (ECB)
tiếp cận dễ dàng hơn các nguồn tài chính bằng đồng USD. Ngoài ra, ECB cũng đã
bắt đầu mua vào trái phiếu của các nước EU trên thị trường thứ cấp, nhằm tăng
cường tính thanh khoản cho thị trường và ngăn chặn sự lan rộng của khủng hoảng
nợ công.
4. các giải pháp khác
Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) José Manuel Barroso đã nêu ra những giải pháp
mà Khu vực sử dụng đồng (Eurozone) có thể triển khai để vượt qua cuộc khủng
hoảng như phát hành trái phiếu chung, siết chặt kỷ luật tài chính, hỗ trợ vốn cho
các ngân hàng và nhanh chóng thông qua thỏa thuận mở rộng quy mô Quỹ Bình
ổn Tài chính châu Âu (EFSF) đã được các nhà lãnh đạo Eurozone nhất trí tại Hội
nghị thượng đỉnh ngày 21/7. Theo ông Barroso, 17 nước Eurozone mở đường cho
việc tăng quy mô EFSF và thành lập quỹ cứu trợ dài hạn mang tên Cơ chế bình ổn
châu Âu (ESM), công cụ thay thế khi EFSF hết hiệu lực vào năm 2013. Ông cho
rằng một khi có tiềm lực mạnh hơn và linh hoạt hơn, EFSF mới đủ khả năng tiến
hành các hành động can thiệp mang tính ngăn ngừa hoặc hỗ trợ các ngân hàng huy
động vốn và tham gia các thị trường thứ cấp để ngăn chặn khủng hoảng nợ lan
rộng.

III - KẾT THÚC VẤN ĐỀ

17
Ktpt lớp 4A.07



Đề tài thảo luận nhóm 3

Quá trình giải quyết vấn đề đã đi từ cơ sở lí thuyết của vấn đề, thực trạng của
cuộc khủng hoảng nợ công của Hi Lạp và các nước châu Âu, nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng nợ công, những giải pháp cho vấn đề nợ công ở các nước. Đi
sâu phân tích nội dung , rút ra được kết luân về tác động của cuộc khủng hoảng nợ
công của Hi Lạp đến nền kinh tế ,ý nghĩa khoa học, thực tiễn và hướng phát triển
của đề tài.
1. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Đề tài cho ta hiểu rõ hơn về những vấn đề xung quanh cuộc khủng hoảng nợ
công ở hi lạp và các nước châu âu, thấy rõ tác động, rút ra được bài học từ sau
cuộc khủng hoảng đề cùng đưa ra giải pháp khắc phục nhằm tránh khỏi nguy cơ
khủng hoảng nợ ở Việt Nam nói riêng và toàn cầu nói chung.
2. Hướng phát triển của đề tài
Nội dung đề tài chưa liên hệ được đến thực trạng và thực tế ở Việt Nam, như
vậy hướng phát triển của đề tài là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh
tế Việt Nam.

18
Ktpt lớp 4A.07



×