Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHTMCP sài gòn thương tín CN long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.65 KB, 76 trang )

Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHTMCP Sài Gòn Thương
Tín - CN Long An

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG
1.1TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng
vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong thời hạn nhất định với chi phí
nhất định, phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu với người sử
dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế trên cơ sở
hoàn trả vốn và lợi tức khi đến hạn.
Tín dụng ngân hàng là hoạt động tín dụng của ngân hàng với các
chủ thể trong nền kinh tế với tư cách người được cấp tín dụng lẫn
được cấp tín dụng. Song người ta thường đề cập đến ngân hàng với tư
cách người cấp tín dụng.
1.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của tín dụng trong nền kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có hai chức năng và nhiệm
vụ sau đây:
- Thứ nhất: phân phối lại tài nguyên.
- Thứ hai: thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát triển sản
xuất.
- Phân phối lại tài nguyên:
Tín dụng là sự vận động của vốn chủ thế này sang chủ thể khác,
hay nói một cách cụ thể hơn, là sự vận động từ những xí nghiệp, cá
nhân có vốn tạm thời chưa dùng đến sang những xí nghiệp, cá nhân
cần vốn bổ sung nhằm phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Nghĩa là,
nhờ sự vận động của tín dụng mà các chủ thể vay vốn nhận được một
phần tài nguyên của xã hội phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng.
Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phân phối lại tín
dụng có liên quan không chỉ thu nhập quốc dân mà cả tổng sản phẩm


xã hội.
Trong nền kinh tế hiện đại phân phối vốn tín dụng qua các ngân
hàng chiếm vị trí quan trọng nhất. Một mặt ngân hàng tập trung vốn
Trang


tiền tệ của các xí nghiệp và cá nhân để làm nguồn vốn cho vay; mặt
khác ngân hàng phân phối nguồn vốn đó dưới hình thức cấp tín dụng
cho các nhà doanh nghiệp, cá nhân và một phần cho Kho bạc Nhà
nước.
- Thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát triển sản xuất:
Trong thời kỳ đầu, tiền tệ lưu thông là hóa tệ, nhưng khi các quan
hệ tín dụng phát triển, các giấy tờ đã thay thế cho một bộ phận tiền
trong lưu thông. Lợi dụng đặc điểm này các ngân hàng đã phát hành
tiền giấy vào lưu thông. Lúc đầu tiền giấy phát hành chỉ là thực hiện
việc thay thế hóa tệ kim loại trong lưu thông, tức là phát hành trên cơ
sở có trữ kim, nhưng dần dần tiền giấy phát hành vào lưu thông tách
rời với dự trữ vàng của ngân hàng.
Ngày nay, ngân hàng cung cấp tiền cho lưu thông chủ yếu được
thực hiện thông qua con đường tín dụng. Đây là cơ sở đảm bảo cho
lưu thông tiền thêm ổn định, đồng thời đảm bảo đủ phương tiện phục
vụ cho lưu thông.
Như vậy nhờ có hoạt động của tín dụng, mà ngân hàng tạo ra tiền
phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tiền do con người tạo ra
qua con đường tín dụng bao gồm bút tệ và tín tệ.
Nhờ vào các công cụ nói trên mà hàng hóa đi từ hình thái tiền tệ
vào sản xuất và ngược lại, một cách trôi chảy hơn. Nói cách khác, tín
dụng thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát triển kinh tế.
1.1.3. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế vận động theo

các quy luật khách quan như: Quy luật giá trị, quy luật cung – cầu,
quy luật cạnh tranh...Các doanh nghiệp để có thể đứng vững trên
thương trường thì cần phải có vốn để đầu tư và tín dụng ngân hàng là
một trong những nguồn vốn tối ưu để doanh nghiệp có thể khai thác.
Các doanh nghiệp phát triển cũng có nghĩa là nền kinh tế phát triển.
Như vậy, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế và góp phần điều hành nền kinh tế thị trường. Vai trò
của tín dụng ngân hàng được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Thứ nhất:Tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất dựa trên vốn chủ sở hữu
và vốn vay. Một trong những nguồn để vay là từ ngân hàng, đó là
nguồn tài trợ hiệu quả bởi vì nó thỏa mãn nhu cầu vốn về số lượng và
Trang


thời hạn. Hơn nữa, để có thể vay vốn được từ các ngân hàng thì các
doanh nghiệp cần phải nâng cao uy tín của mình đối với ngân hàng,
đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Muốn vậy, trong các dự án
kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải chọn dự án có mức sinh lãi
cao nhất. Để các dự án khả thi, doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường,
khai thác thông tin để định lượng hoạt động kinh doanh của mình sao
cho có hiệu quả. Điều đó tăng hiệu quả kinh tế của dự án, phương án.
Mặt khác, một trong những quy định tín dụng của ngân hàng là
khâu giám sát sử dụng vốn vay. Với việc giám sát này của ngân hàng,
bắt buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải
nhạy bén với những thay đổi của thị trường, từ đó góp phần nâng cao
hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, vai trò tư vấn của cán bộ tín dụng sẽ
giúp cho doanh nghiệp lường trước được những khó khăn, vượt qua
khó khăn để đứng vững, điều này cũng góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế.

- Thứ hai: tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động
liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiên tệ trong nền
kinh tế tạo cơ chế phân phối vốn một cách có hiệu quả.
Do đặc điểm tuần hoàn vốn nên trong quá trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian và
khối lượng giữa lượng tiền cầ thiết để dự trữ vật tư hàng hóa cho quá
trình sản xuất kinh doanh trước đó. Vì vậy, luân chuyển tiền tệ của
doanh nghiệp có lúc thừa, có lúc thiếu vốn. Nguồn vốn doanh nghiệp
tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư, nguồn kết
dư từ ngân sách ... được NHTM huy động và sử dụng để đầu tư cho
các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm
thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho nhu cầu chi của
ngân sách nhà nước khi chưa có nguồn thu.
Thông qua cơ chế sàng lọc, giám sát NHTM sẽ chỉ cho vay các dự án
có tính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn lớn. Điều này tạo nên một
cơ chế phân phối vốn hiệu quả.
- Thứ ba: Tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ các chiến lược
kinh tế và các chính sách tiền tệ.
Một trong những đặc điểm quan trọng của NHTM là khả năng
tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà nước
muốn tăng khối lượng tiền cung ứng thì NHNN có thể tăng hạn mức
tín dụng của các NHTM đối với nền kinh tế và ngược lại. Do vậy
Trang


thông qua hình thức tín dụng NHNN có thể kiểm soát được khối
lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
- Thứ tư: Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở
rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
Trước xu thế quốc tế hóa, sự giao lưu kinh tế giữa các nước luôn

được đặt ra. Trong nền kinh tế mở thì các doanh nghiệp không chỉ có
quan hệ mua bán với các thành phần khác trong nền kinh tế mà còn có
những quan hệ Sài Gòn Thương Tín với các doanh nghiệp nước
ngoài. NHTM có thể thúc đẩy mối quan hệ này thông qua hình thức
bảo lãnh, cho vay... đối với doanh nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của một đất nước, nó thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng và phát triền.
1.1.4. Phân loại các hình thức tín dụng.
Hoạt động tín dụng có thể chia ra nhiều hình thức tùy theo các
tiêu thức phân loại khác nhau.
 Xét theo mục đích:
- Cho vay kinh doanh bất động sản: gồm các khoản cho vay xây
dựng ngắn hạn; dài hạn tài trợ cho việc mua đất canh tác, nhà cửa và
bất động sản khác.
- Cho vay nông nghiệp: loại vay này nhằm hỗ trợ nông dân trong
sản xuất.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: loại vay này giúp doanh
nghiệp trang trải các chi phí trong sản xuất.
- Cho vay cá nhân: là loại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.
 Xét theo thời hạn:
- Cho vay ngắn hạn: loại vay có thời hạn tối đa 1 năm, nhằm tài
trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
- Cho vay trung hạn: loại cho vay có thời hạn >= 1 năm và <=
nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
- Cho vay dài hạn: loại cho vay có thời hạn>5 năm, nhằm tài trợ
đầu tư vào các dự án đầu tư.
 Xét theo đảm bảo:


Trang


- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dự trên cơ sở các đảm bảo
cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba
nào khác.
- Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
 Căn cứ vào phương thức cấp tín dụng.
- Cho vay trực tiếp: loại vay ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho
khách hàng và khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: loại vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh còn trong thời hạn
thanh toán.
 Căn cứ vào phương thức hoàn trả.
- Cho vay trả góp: loại vay này khách hàng phải trả hết cả gốc và
lãi theo định kỳ.
- Cho vay phi trả góp: loại vay này khách hàng trả gốc và lãi khi
có yêu cầu và không đều ở một kỳ nào đó.
1.1.5. Rủi ro tín dụng:
1.1.5.1. Khái niệm về RRTD:
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt
động đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng và cũng là hoạt
động chứa nhiều rủi ro nhất. Rủi ro tín dụng là hoạt động xảy ra gây
thiệt hại cho ngân hàng mà nguyên nhân của nó có thể do ngân hàng,
khách hàng và có thể là nguyên nhân khách quan khác.
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp
tín dụng cho một khách hàng, hay có thể hiểu là khả năng khách hàng
không trả được nợ theo hợp đồng tín dụng. Xét về khía cạnh của ngân

hàng, thì rủi ro tín dụng đồng nghĩa với thu nhập dự tính của ngân
hàng từ các tài sản có sinh lời không được hoàn trả đầy đủ cả về mặt
số lượng và thời hạn.
Do quan hệ tín dụng được hiểu theo hai chiều là đi vay và cho
và. Vì vây, cũng cần phải hiểu rủi ro tín dụng theo hai chiều đó là rủi
ro trong cho vay và rủi ro trong hoạt động đi vay.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhu cầu cấp thiết về
nguồn vốn đầu tư càng lớn thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao.
Nguồn thu nhập chính của các NHTM là từ lãi suất mà người vay sẽ
Trang


thanh toán cho ngân hàng, phần khác là từ hoạt động trao đổi các món
vay hoặc từ việc bảo đảm và cung cấp các dịch vụ tương tự. Nguồn
thu nhập này phụ thuộc chủ yếu vào doanh số và lãi suất cho vay.
Tuy nhiên không có gi đảm bảo chắc chắn rằng tiền vay và tiền
lãi sẽ được người vay hoàn trả đúng hạn và đầy đủ. Sự mất mát vốn
vay và thu nhập này do nhiều nguyên nhân khác nhau, đó chính là
những rủi ro mà ngân hàng thường gặp khi cho vay. Những rủi ro này
là một nhân tố quan trọng có thể quyết định sự tồn tại của cả một
ngân hàng. Vì vậy, mục tiêu chính của các nhà quản trị rủi ro tín dụng
là đảm bảo lợi nhuận tối đa ở các mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Trong điều kiện cạnh tranh việc cung cấp dịch vụ tài chính – ngân
hàng gia tăng và bị áp lực từ nhiều phía, do đó có thể nói rằng tình
trạng rủi ro và đặc biệt là rủi ro tín dụng của ngân hàng đang được hết
sức chú trọng.
1.1.5.2. Phân loại RRTD:
 Rủi ro mất vốn:
Là rủi ro cho vay không thu hồi được nợ. Bản chất của tín dụng
ngân hàng là ứng trước tiền cho doanh nghiệp(người vay), sau một

chu kỳ sản xuất hoắc kỳ luân chuyển hàng hoá thì khách hàng mới có
tiền trả nợ ngân hàng. Nội dung ứng trước của tín dụng ngân hàng
càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn. Ngân hàng cho vay tín chấp có
mức độ rủi ro cao hơn cho vay có tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp
bằng giấy tờ có giá dễ chuyển đổi ra tiền ít rủi ro hơn tài sản thế chấp
bằng bất động sản. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng rủi ro này
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản
kinh doanh. Vì hơn 2/3 tài sản ngân hàng là các món cho vay và đầu
tư đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, do đó các khoản cho vay
của ngân hàng không được hoàn trả, ngân hàng sẽ mất cả vốn lẫn lãi.
Số tiền thiệt hại này khi vượt quá vốn tự có sẽ khiến ngân hàng lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản.
 Rủi ro sai hẹn:
Là các khoản cho vay mà khi đến hạn khách hàng vẫn chưa thu
hồi được vốn để trả cho ngân hàng. Thông thường trường hợp này
khách hàng sẽ xin ngân hàng gia hạn thêm thời hạn trả nợ. Nếu lý do
của khách hàng không được ngân hàng chấp nhận, họ sẽ phải chịu lãi
Trang


suất phạt. Khoản tiền thu hồi chậm này có thể làm đảo lộn kế hoạch
kinh doanh của ngân hàng và luôn tiềm ẩn nguy cơ mất vốn.
 Rủi ro lãi suất:
Quá trình chuyển hoá tài sản của ngân hàng bao gồm việc huy
động và sử dụng vốn. Kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản nợ
thường không cân xứng với kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản
có làm cho ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất.
Ngoài rủi ro về lãi suất tái tài trợ tài sản nợ hoặc tái đầu tư tài sản
có thì khi lãi suất thị trường thay đổi ngân hàng có thể gặp rủi ro giảm
giá trị tài sản.

 Rủi ro về tỷ giá:
Rủi ro hối đoái thường diển ra dưới hình thức của một chênh lệch
giữa giá đặt mua và giá chào bán của tiền tệ. Các rủi ro trong việc
giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ
khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một nước.
1.1.5.3. Nguyên nhân của RRTD:
 Thông tin không cân xứng:
Trong những giao dịch diển ra trên thị trường tài chính, một bên
thường không biết tất cả những gì mà người ta thường biết về bên để
có được quyết định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi
bên có được gọi là thông tin không cân xứng. Việc thiếu thông tin tạo
ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở hai mặt, trước khi cuộc
giao dịch diển ra và sau khi cuộc giao dịch diển ra.
Chọn lựa đối nghịch là do vấn đề thông tin không cân xứng tạo ra
trước khi diển ra cuộc giao dịch.
1.1.5.4. Ảnh hưởng của RRTD đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng và nền kinh tế xã hội:

Đối với ngân hàng
Ngân hàng là đối tượng trực tiếp chịu sự ảnh hưởng của rủi ro tín
dụng, ban đầu là ngân hàng bị thiệt hại về tài sản và sau đó là dẫn tới
sự mất uy tín của ngân hàng, làm cho ngân hàng về tính lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng. Trên mức đó là sự không tin vào tiềm lực
tài chính của ngân hàng dẫn tới rủi ro thanh khoản có thể đẩy ngân
hàng tới bờ vực phá sản và đe doạ sự ổn định toàn bộ hệ thông ngân
hàng.
Trang


Mặt khác khi khách hàng nhìn vào tình hình nợ quá hạn của ngân

hàng thì người gửi tiền có thể nghi ngờ và không gửi tiền vào ngân
hàng đó làm cho nguồn vốn ngân hàng giảm mạnh và người đã gửi
tiền thì rút tiền ra để gửi vào ngân hàng khác vì nghi ngờ vào tiềm lực
tài chính của ngân hàng dẫn đến nguồn vốn của ngân hàng lại càng
giảm mạnh hơn. Đối với những rủi ro vừa phải thì ảnh hưởng trực tiếp
tới lợi nhuận ngân hàng bởi vì lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng là từ
hoạt động tín dụng, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì lãi từ các khoản cho
vay có nguy cơ không thu hồi và để khắc phục rủi ro tín dụng thì ngân
hàng phải lập quỹ dự phòng rủi ro và được tính là chi phí của ngân
hàng. ở mức độ cao hơn nữa lợi nhuận không đủ bù đắp thì phải dùng
tới vốn tự có, điều này dẫn đến làm giảm vốn tự có của ngân hàng ảnh
hưởng tới qui mô hoạt động của ngân hàng.

Đối với nền kinh tế xã hội
Khi rủi ro tín dụng xảy ra ở mức độ vừa phải thì không chỉ ngân
hàng chịu ảnh hưởng mà người đi vay bị làm ăn thua lỗ phải phá sản
ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế - xã hội dự tính, nạn thất nghiệp tăng lên,
ảnh hưởng tới người gửi tiền không được đảm bảo như trước nữa làm
cho nguồn vốn ngân hàng giảm dẫn đến ảnh hưởng xấu về đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Có thể nói ngân hàng là
một mấu chốt quan trọng trong nên kinh tế nhất là như nước ta, mọi
hoạt động kinh doanh đều thông qua ngân hàng dưới nhiều hình thức
cả trong và ngoài nước, và dù là có những ngân hàng khác nhau
nhưng mối quan hệ của các ngân hàng là rất chặt chẽ gắn kết với nhau
không thể thiếu được tạo thành một hệ thống liên kết với nhau không
tách rời, vì vậy khi rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra có nguy
cơ làm ngân hàng đó đổ vỡ sẽ làm ảnh hưởng dây chuyền đến ngân
hàng khác, mà hầu như hết các chủ thể kinh tế đều liên quan chặt chẽ
đến các ngân hàng sẽ làm rối loạn toàn bộ nền kinh tế, như vậy rủi ro
tín dụng ở mức độ lớn là một trong những nguyên nhân làm khủng

hoảng kinh tế, đưa nền kinh tế đi lùi lại sau mấy chục năm.

Đối với người đi vay
Đối với người đi vay khi rủi ro tín dụng xảy ra thì các chủ thể
kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân hàng thì sẽ bị giảm hoặc mất
nguồn vốn đầu tư và mở rộng qui mô, nhất là ảnh hưởng tới tính liên
tục của quá trình sản xuất có thể gây đến phá sản doanh nghiệp. Đối
với chủ thể kinh doanh gây ra rủi ro tín dụng thì mất đi hẳn nguồn
Trang


vốn từ ngân hàng đó và gần như không thể đi tìm được nguồn vốn
khác trong nền kinh tế vì không còn uy tín trong khả năng trả nợ.
1.2HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG:
1.2.1.Tình hình hoạt động tín dụng của NHTM:
Hoạt động tín dụng là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ
chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả gốc và lãi.
Thời hạn nhất định là thời hạn cho vay, là khoảng thời gian
được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm
trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Nói đến hoạt động cho vay thì ta xem xét đến vấn đề lãi suất.
Sau là các phương thức xác định lãi xuất cho vay:
 Lãi suất phi rủi ro: Là lãi suất áp dụng cho đối tượng vay
không có rủi ro mất khả năng hoàn trả nợ vay. Chỉ có lãi suất tín
phiếu Kho bạc hình thành dựa trên cơ sở đấu thầu tín phiếu mới
có thể được xem là lãi suất phi rủi ro.

 Lãi suất huy động vốn: Là lãi suất ngân hàng trả cho khách
hàng khi huy động tiền gửi.Lãi suất huy động vốn(Rd) có thể xác
định như sau:
Rd = Rf + Rtd
Trong đó Rtd là lãi suất phi rủi ro xác định thông qua đấu thầu
tín phiếu Kho bạc, Rtd là tỷ lệ bù đắp rủi ro tín dụng do ngân hàng ước
lượng.
 Lãi suất cơ bản: Là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố
là cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất
cơ bản hình thành dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu tín dụng trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất cơ bản có thể xác định theo
công thức:
Rcb = Rd + RTH
Trong đó Rcb là lãi suất cơ bản, Rd là lãi suất huy động vốn,R TH
tỷ lệ thu nhập do đầu tư của ngân hàng.
Trang


 Cách xác định lãi suất cho vay dựa vào lãi suất cơ
bản:NHTM thường dựa vào lãi suất cơ bản để xác định lãi suất cho
vay đối với khách hàng sau khi điều chỉnh rủi ro. Công thức xác định
lãi suất cho vay như sau:
R = Rcb + Rth + Rct
Trong đó R là lãi suất cho vay, R cb là lãi suất cơ bản,Rth là tỷ lệ
điều chình rủi ro thời hạn, Rct là tỷ lệ điều chỉnh cạnh tranh.
 Cách xác định lãi suất cho vay dựa vào lãi suất LIBOR hoặc
SIBOR:
Đối với các khoản tín dụng bằng USD,NHTM có thể xác định
lãi suất cho vay dựa vào lãi suất LIBOR (London Interbank Offer
Rate) hoặc SIBOR (Singapore Interbank Offer Rate). LIBOR là lãi

suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng London do Hiệp hội các
ngân hàng hàng đầu của Anh xác định hằng ngày vào lúc 11:30. Ngân
hàng có thể xác định lãi suất cho vay dựa vào LIBOR bằng công thức
sau:
R= LIBOR + Rtd+ Rth
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến hoạt
động tín dụng của NHTM:
Việc đánh giá chất lượng tín dụng đối với một ngân hàng là hết
sức quan trọng. Bởi chất lượng tín dụng biểu hiện khả năng hoạt động
của ngân hàng tốt hay xấu, làm cơ sở để đánh giá ngân hàng. Mặt
khác, việc đánh giá chất lượng tín dụng cũng giúp cho ngân hàng có
những thay đổi hợp lý, điều chỉnh hoạt động để nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không những
làm cho ngân hàng tăng thu nhập mà còn giúp ngân hàng được an
toàn. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng mang tính khoa học,
nó vừa cụ thể vừa trừu trượng nên để đánh giá chất lượng tín dụng
người ta dựa vào 2 hệ thống chỉ tiêu:
1.2.2.1 Các tiêu chí đánh giá đến hoạt động tín dụng
 Chỉ tiêu định lượng.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn
mà khách hàng không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền
lãi của số tiền đó và không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân
hàng chuyển thành nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn đối với
Trang


những khoản nợ này (cao hơn lãi suất thông thường). Đây là những
khoản nợ có độ rủi ro cao và ngân hàng có khả năng mất vốn. Để
đánh giá chất lượng tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn, người ta thường
thông qua tỷ lệ nợ quá hạn:

Tổng dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =

X 100%
Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao. Chỉ tiêu
này cho thấy khả năng thu hồi vốn của NH đối với các khoản vay.
Đây là chỉ tiêu được dùng để đánh giá chất lượng tín dụng cũng như
rủi ro TD tại NH.
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng là tất nhiên. Do đó nợ quá hạn của ngân hàng là tất yếu.
Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn, sinh lời và tăng khả năng cạnh tranh
ngân hàng phải cố gắng giảm thiểu tỷ lệ nợ quá hạn. Chỉ tiêu trên rất
quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Chỉ tiêu này giúp cho ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho
vay. Chỉ tiêu này còn chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân
hàng, một ngân hàng có chính sách tốt là phải thiết lập quỹ dự phòng
rủi ro đủ mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không đủ khả
năng thu hồi, để tránh tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông
báo con số nợ không có khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản
của ngân hàng một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu ngân hàng
thực hiện xoá nợ quá nhanh thì tỷ lệ này sẽ ở mức thấp nhất nhưng
không có ý nghĩa thực tiễn.
Thông thường khi lập bảng theo dõi nợ quá hạn ngân hàng thường
phân nợ quá hạn theo:
Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn):
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ
khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý):

- Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn
nợ đã cơ cấu lại.
Trang


Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn):
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ):
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến
180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn):
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày
theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Sự phân loại này có ý nghĩa đối với việc quản lý chất lượng tín dụng
và đánh giá để thiết lập dự phòng mất vốn.
Vòng quay vốn tín dụng:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Trong đó: Dư nợ bình quân trong kỳ =( Dư nợ đầu kỳ + Dư nợ
cuối kỳ)/2
Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn TD của NH, thời gian
thu hồi nợ của NH là nhanh hay chậm.Vòng quay vốn càng nhanh thì
được coi là tốt và việc đầu tư càng an toàn.

Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vòng quay của tín dụng của ngân
hàng càng nhanh, điều này cũng chứng tổ việc thu hồi nợ nhanh và
đúng hạn do đó tỷ lệ này cao cũng chứng tỏ chất lượng tín dụng của
ngân hàng rất tốt. Mặt khác vòng quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ
tộc độ luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế nhanh, ngân hàng đã tham
gia vào nhiều chu kỳ sản suất và lưu thông hàng hoá. Với một lượng
vốn nhất định nhưng do tốc độ chu chuyển vốn tín dụng nhanh nên
ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của doanh nghiệp
trong phát triển kinh doanh.
Trang


Hiệu suất sử dụng
nguồn vốn

Tổng dư nợ
=
Tổng nguồn vốn

Chỉ tiêu này phản ánh NH cho vay được bao nhiêu so với nguồn
vốn huy động, nó còn nói lên khả năng huy động vốn tại địa phương
của NH. Chỉ tiêu này lớn thể hiện vốn huy động tham gia vào dư nợ
ít, khả năng huy động vốn của NH còn chưa tốt.
Chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
của ngân hàng,liệu ngân hàng đã sử dụng hết khả năng của mình
trong cho vay hay chưa?
- Chỉ tiêu hệ số thu nợ:
Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ =
x 100%

Doanh số cho vay
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của
NH. Nó phản ánh trong một thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay
nhất định thì NH sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn.Tỷ lệ này càng
cao càng tốt
 Chỉ tiêu định tính.
Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng ngoài những chỉ
tiêu có thể lượng hoá được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể
lượng hoá được. Các chỉ tiêu định tính được qua quy chế, chế độ, thể
lệ tín dụng, qua độ thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm của
khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng.
1.2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của một ngân hàng, hoạt
động tín dụng phát triển cũng kéo theo các hoạt động khác của ngân
hàng phát triển. Nâng cao chất lượng tín dụng đã, đang và sẽ là cái
đích mà tất cả các NHTM hướng tới. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng. Bên cạnh các nhân tố từ chính ngân hàng, còn có
những nhân tố từ khách hàng của ngân hàng và các nhân tố khách
quan khác.
 Các nhân tố từ phía NH.
Trang


 Chính sách tín dụng của Ngân hàng:
Chính sách tín dụng cũng là một trong những chính sách trong
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là yếu tố đầu tiên tác
động đến việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Chính sách tín dụng bao gồm: hạn mức tín dụng, kỳ hạn của các
khoản vay, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các loại vay được thực
hiện.

Các điều khoản của chính sách tín dụng được xây dựng dựa trên
nhiều yếu tố khác nhau như các điều kiện kinh tế, chính sách tiền tệ
và tài chính của ngân hàng Nhà nước, khả năng về vốn của ngân hàng
và nhu cầu tín dụng của khách hàng. Khi các yếu tố này thay đổi,
chính sách tín dụng cũng thay đổi theo. Đối với mỗi khách hàng, ngân
hàng chó thể đưa ra các chính sách khác nhau cho phù hợp. Một chính
sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả
năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở hạn chế rủi ro, tuân thủ
phương pháp, đường lối chính sách của Nhà nước mà đảm bảo công
bằng xã hội. Bất cứ ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng tốt
cũng đều phải có chính sách tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế
của ngân hàng cũng như của thị trường.
 Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là tập hợp những nội dung, nghiệp vụ cơ bản,
các bước tiến hành trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an
toàn vốn tín dụng. Nó bao gồm các bước bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho
vay, phát tiền vay, kiểm tra trong quá trình cho vay cho đến khi thu
hồi được nợ.
Trong quy trình tín dụng,bước chuẩn bị cho vay rất quan
trọng(khách hàng nhập hồ sơ vay vồn). Bao gồm 3 giai đoạn: khai
thác và tìm kiếm khách hàng; hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín
dụng và thành lập hồ sơ vay; phân tích thẩm định khách hàng và
phương án, dự án vay vốn. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc nhiều vào
chất lượng công tác thẩm định và quy định về điều kiện, thủ tục cho
vay của từng NHTM.
Kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay giúp cho ngân hàng nắm
được diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp cho khách hàng để có
những hành động điều chỉnh can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa
rủi ro có thể xảy ra.
Trang



Thu hồi và giải quyết nợ là khâu quyết định đến chất lượng tín
dụng. Sự nhạy bén của ngân hàng trong việc kịp thời phát hiện những
biểu hiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cũng như những biện pháp
xử lý kịp thời, tư vấn cho khách hàng sẽ giảm thiểu được những
khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác dụng tích cực đối với hoạt
động tín dụng.
Đồng thời với các bước trong quy trình tín dụng là công tác thu
thập thông tin. Thông tin tín dụng càng nhanh, càng chính xác và toàn
diện thì khả năng phòng chống rủi ro tín dụng càng tốt. Thông tin tín
dụng có thể thu thập được từ rất nhiều nguồn: từ trung tâm tín dụng
của ngân hàng Nhà nước, từ phòng thông tin tín dụng của các ngân
hàng thương mại, qua báo chí, các tổ chức nghề nghiệp, qua việc cán
bộ tín dụng trực tiếp thu thập tại cơ sở sản xuất kinh doanh của khách
hàng, qua báo cáo tài chính của khách hàng.
Quy trình tín dụng của NHTM không mang tín cứng nhắc. Đối
với mỗi khách hàng khác nhau, ngân hàng có thể chủ động, linh hoạt,
thực hiện các bước trong quy trình tín dụng cho phù hợp.
 Công tác tổ chức ngân hàng.
Tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hoá và sắp xếp có khoa học,
có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc đã quy định.
Ngân hàng được tổ chức một cách có khoa học sẽ đảm bảo được sự
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, giữa các ngân
hàng với nhau trong toàn hệ thống cũng như với các cơ quan liên
quan khác. Qua đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời các yêu cầu của
khách hàng, quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và
giải quyết kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề, từ đó nâng cao chất
lượng tín dụng.
 Phẩm chất và trình độ cán bộ.

Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là nhân tố quyết định đến
sự thành bại trong hoạt đông kinh doanh của ngân hàng nói chung và
trong hoạt động tín dụng nói riêng. Sỡ dĩ như vậy là vì cán bộ tín
dụng là người tham gia trực tiệp vào mọi khâu của quy tình tín dụng,
từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng.
Cán bộ tín dụng mà không có đạo đức nghề nghiệp, làm việc thiếu
tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái pháp luật sẽ làm ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng quyết định
đến sự thành công của công tác tín dụng. Cán bộ tín dụng giỏi về
Trang


chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng, có kinh nghiệm đánh giá chính
xác tính khả thi của dự án, xác định được tính chân thực của các báo
cáo tài chính,phát hiện các hành vi cố tình lừa đảo của khách
hàng(như sửa chữa báo cáo tài chính, lập hồ sơ thế chấp giả, dùng
một tài sản thế chấp đi vay ở nhiều nơi...)từ đó phân tích được khả
năng quản lý và năng lực thực sự của khách hàng để quyết định có
cho vay hay không.
Bên cạnh đó cán bộ tín dụng cần có sự hiểu biết rộng về pháp
luật,môi trường kinh tế xã hội, đường lối phát triển của đất nước, sự
thay đổi của thị trường...dự án trước được những biến động có thể xảy
ra từ đó tư vấn lại cho khách hàng xây dựng lại phương án kinh doanh
cho phù hợp.
 Kiểm soát nội bộ.
Thông qua kiểm soát nội bộ giúp cho nhà lãnh đạo ngân hàng
nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, phát hiện
những thuận lợi, khó khăn, sai trái từ đó đề ra biện pháp giải quyết
kịp thời.
Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành những quy

định, thể lệ, chính sách và mức độ phát hiện kịp thời các sai sót cũng
nguyên nhân dẫn đến những lệch lạc trong quá trình thực hiện một
khoản tín dụng.
 Tình hình huy động vốn.
Tình hình huy động vốn ảnh hưởng tới chấp lượng tín dụng.Vốn
huy động ngắn hạn là nguồn chủ yếu để cho vay ngắn hạn, vốn huy
động trung dài hạn là nguồn vốn chủ yếu để cho vay trung dài hạn.
Vốn huy động càng lớn, ngân hàng thương mại càng có khả năng cho
vay, mở rộng hoạt động tín dụng. Nếu ở ngân hàng không có sự phù
hợp về kỳ hạn giữa nguồn vốn và cho vay mà không dự kiến nguồn
bù đắp thì rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra.
 Các nhân tố từ phía Khách hàng.
Khách hàng là người lập phương án,dự án xin vay và sau khi
được ngân hàng chấp nhận, khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn
vay để kinh doanh. Vì vậy, khách hàng cũng ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng.
 Năng lực của khách hàng.
Năng lực của khách hàng là nhân tố quyết định đến việc khách
hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không.
Trang


Nếu năng lực của khách hàng yếu kém, thể hiện ở việc không dự
toán được những biến động lên xuống của nhu cầu thị trường, không
hiểu biết nhiều trong việc sản xuất, phân phối và khuyếch trương sản
phẩm...thì sẽ dễ dàng bị gục ngã trong cạnh tranh. Từ đó làm ảnh
hưởng và ngược lại năng lực của khách hàng càng cao thì khả năng
cạnh tranh trên thị trường càng lớn, vốn vay càng được sử dụng có
hiệu quả.
 Sự trung thực của khách hàng.

Sự trung thực của khách hàng ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín
dụng của ngân hàng. Nếu các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không
cung cấp các số liệu trung thực, vi phạm chế độ kế toán đã được ban
hành thì sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình
sản xuất kinh doanh, cũng như việc quản lý vốn vay của khách hàng
để qua đó có thể đưa ra quyết định cho vay đúng đắn.
Nếu khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng không đúng đối
tượng kinh doanh, không đúng với phương án, mục đính xin vay thì
sẽ không trả được nợ đúng hạn.
 Rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng.
Trong sản xuất kinh doanh,rủi ro phát sinh dưới nhiều hình thái
khác nhau: do thiên tai, hoả hoạn, do năng lực sản xuất kinh doanh
yếu kém, là nạn nhân của sự thay đổi chính sách của nhà nước, do bị
lừa đảo, trộm cắp...
 Tài sản đảm bảo.
Quyền sở hữu tài sản là một trong những tiêu chuẩn để được cấp
tín dụng(có thể là tài sản đảm bảo hoặc tín chấp). Tuy nhiên hiện nay
có rất nhiều tài sản của các pháp nhân và cá nhân không có giấy
chứng nhận sỡ hữu. Tài sản cố định phần lớn là nhà xưởng, máy móc,
thiết bị lạc hậu không đủ tiêu chuẩn thế chấp. Trong khi đó nhu cầu
vay vốn ngân hàng là rất lớn. Như vậy nếu cho vay theo đúng chế độ
thì hầu hết các doanh nghiệp không đủ điều kiện để cho vay hoặc
được cho vay nhưng không đáng kể.
 Các nhân tố khác.
 Môi trường kinh tế.
Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm các chế hoạt động kinh tế
có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau nên bất kỳ một sự biến
động của một hoạt động kinh tế nào đó cũng sẽ gây ảnh hưởng đến
việc sản xuất kinh doanh của các lĩnh vực còn lại. Hoạt động của
Trang



ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy, sự ổn định hay mất ổn định
của nền kinh tế sẽ có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng
- đặc biệt là hoạt động tín dụng.
Lạm phát, khủng hoảng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín
dụng. Một nền kinh tế ổn định tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ tạo điều kiện
cho các khoản tín dụng có chất lượng cao. Tức là các doanh nghiệp
hoạt động trong một môi trường ổn định thì khả năng tạo ra lới nhuận
cao hơn, từ đó mà có thể trả vốn và lãi cho ngân hàng. Ngược lại khi
nền kinh tế biến động thì các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
cũng thất thường ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp, từ đó
ảnh hưởng tới khả năng thu nợ của ngân hàng.
 Môi trường xã hội.
Quan hệ tín dụng được thực hiện trên cở sở lòng tin. Nó là cầu
nối giữa ngân hàng và khách hàng. Đạo đức xã hội ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng. Trong trường hợp đạo đức xã hội không tốt, lợi dụng
lòng tin để lừa đảo sẽ làm giảm chất lượng tín dụng. Hơn nữa trình độ
dân trí chưa cao, kém hiểu biết về hoạt động ngân hàng cũng sẽ làm
giảm chất lượng tín dụng.
 Môi trường tự nhiên.
Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi trường tự nhiên
như thiên tai(hạn hán, lũ lụt, động đất...), hoả hoạn làm ảnh hưởng tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là trong các
ngành có liên quan đến nông nghiệp, thuỷ sản, hải sản.Vì vậy khi môi
trường tự nhiên không thuận lợi thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn từ
đó làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trên đây là những
nhân tố chính tác động tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương
mại. Để nâng cao chất lượng tín dụng, chúng ta cần nghiên cứu và

nhận thức đúng đắn các yếu tố trên, cùng với kết quả hoạt động thực
tiễn của các ngân hàng, để từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục có
tính khả thi cao.
1.2.3. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng:
1.2.3.1. Đối với ngân hàng:
Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các
NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín
dụng và thu hút thêm được nhiều khách hàng bởi các hình thức của
Trang


sản phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của
ngân hàng cùng sự trung thành của khách hàng.
Chất lượng tín dụng tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân
hàng, bởi vì chất lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách
hàng trung thành và những khoản lợi nhuận bổ sung vốn đầu tư. Chất
lượng tín dụng cũng cố mối quan hệ xã hội của ngân hàng, điều đó
cũng có ý nghĩa là tạo được môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động
ngân hàng. Với những ưu thế trên, việc củng cố và nâng cao chất
lượng tín dụng của NHTM là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và
phát triền lâu dài của NHTM. Cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng
luôn luôn phải được cải tiến.
1.2.3.2. Đối với nền kinh tế:
Nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề ngày càng được quan tâm
vì:
- Nâng cao chất lượng tín dụng để đưa hoạt động tín dụng thích
nghi với điều kiện kinh tế thị trường,phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế
thị trường.
- Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để Ngân hàng làm tốt
chức năng trung tâm thanh toán, vì khi chất lượng tín dụng được đảm

bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng. Nó tạo điều kiện cho ngân hàng
làm tốt chức năng trung tâm tín dụng trong nền kinh tế quốc dân là
cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng góp phần điều hoà vốn
trong nền kinh tế
- Góp phần tăng vòng quay vốn, huy động tới mức tối đa lượng
tiền nhàn rỗi trong xã hội để phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
- Làm giảm tối thiều lượng tiền thừa trong lưu thông. Nó góp
phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy
tín quốc gia. Đồng thời, thông qua các công trình đầu tư vốn phát huy
tác dụng, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ cho nền kinh tế.
- Tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân
hàng theo xu hướng của thế giới, hội nhập với hệ thống tài chính tiền
tệ quốc gia.
- Nâng cao chất lượng tín dụng để có khả năng hợp tác cạnh
tranh.
Trang


Tín dụng là một trong những công cụ để thực hiện các chủ trương
của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội theo từng
ngành,từng lĩnh vực. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần tăng
hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo phát triển cân đối giữa các ngành,
các vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền kinh tế. Tín dụng có
mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế xã hội. Để có chất lượng tín
dụng, ngoài sự nỗ lực của bản thân các NHTM, đòi hỏi nền kinh tế
phải ổn định và phải có một cơ chế, chính sách phù hợp, sự kêt hợp
nhịp nhàng có hiệu quả giữa các cấp, các ngành tạo môi trường thuận
lợi cho hoạt động của tín dụng.
1.2.3.3. Đối với người đi vay:

Đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn với thời gian và lãi
suất hợp lý sẽ gúp cho doanh nghiệp thay đổi cơ chế mới, mở rộng
hoạt động sản xuất, làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận của doanh
nghiệp.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI
SACOMBANK – CHI NHÁNH LONG AN.
2.1. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG SACOMBANK VIỆT NAM VÀ SACOMBANK
LONG AN:
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống
SACOMBANK VN:
- Tên Ngân hàng : HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN
THƯƠNG TÍN - Tên tiếng Anh : SAIGON THUONG TIN
COMMERCIAL JOINT STOCK BANK
- Tên viết tắt : SACOMBANK.
Trang


- Logo Ngân

hàng:

- Trụ sở chính: 266-268, Nam Kì Khởi Nghĩa, phường 8, quận 3,
TP.HCM
- Điện thoại: (84-8) 9320 420
- Fax: (84-8) 9320 424
- Email:
- Website: www.sacombank.com.vn

- Vốn điều lệ: 9.179 tỉ đồng
- Giấy phép thành lập: Số 05/GP-UB ngày 03/01/1992 của
UBND TP.HCM
- Giấy phép hoạt động: Số 0006/GP-NH ngày 05/12/1991 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Giấy CNĐKKD: Số 059002 do Sở kế hoạch và đầu tư TP.HCM
cấp, đăng kí lần đầu ngày 13/01/1992, đăng kí thay đổi lần thứ 24
ngày 10/04/2006
- Tài khoản: Số 4531.00.804 tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam –
Chi nhánh TP.HCM
- Mã số thsuế: 0301103908
 Lịch sử hình thành
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín- Sacombank thành lập
ngày 21/12/1991 trên cơ sở chuyển thể và sáp nhập từ Ngân hàng
Phát triển Kinh tế Gò Vấp và ba hợp tác xã tín dụng: Tân Bình –
Thành Công - Lữ Gia tại Thành phố Hồ Chí Minh với các nhiệm vụ
chính là huy động vốn, cấp tín dụng và thực hiện các dịch vụ Ngân
hàng. Sacombank xuất phát điểm là một Ngân hàng nhỏ, ra đời trong
giai đoạn khó khăn của đất nước với số vốn điều lệ ban đầu 03 tỷ
đồng và hoạt động chủ yếu tại vùng ven TP.HCM. Tính đến nay Ngân
hàng đã đi vào hoạt động 19 năm Sacombank trở thành một trong
những Ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam với số vốn điều lệ là
9.179 tỷ đồng và 10.930 tỷ đồng vốn tự có, hơn 70.000 cổ đông đại
chúng.
Ngoài ra,Sacombank còn có một nguồn nhân lực dồi dào với hơn
7.300 cán bộ nhân viên trẻ, năng động sáng tạo,tính tự chủ, tự chịu
trách nghiệm và có trình độ chuyên môn cao với cơ cấu như sau :
 Về giới tính: 51,7% nữ, 48,3% nam
Trang



 Về trình độ: 57,48 trình độ trên đại học và đại học, 19,38%
trình độ cao đẳng và trung cấp,17,22% trình độ PTTH và 5,92% trình
độ dưới 12/12.
 Về độ tuổi : 60,62% dưới 30 tuổi, 33,82% trong độ tuổi 3040, 5,56% trên 40 tuổi
Văn phòng đại diện và chi nhánh nước ngoài :
Tính đến ngày 31 /12/2010 mạng lưới hoạt động của
Sacombank lên tới 316 điểm giao dịch tại khu vực Đông Dương với
67 Chi nhánh,01 Sở Giao dịch và 245 Phòng giao dịch tại 45/63 tỉnh
thành trong cả nước. Ngày 08/01/2008 Sacombank đã khai trương
hoạt động Văn phòng đại diện Nam Ninh tại Trung tâm thương mại
quốc tế Địa Vương số 59, đường Kim Hồ, thành phố Nam Ninh, khu
tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc, Ngày 12/12/2008,
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín đã chính thức gia nhập thị
trường tài chính Lào bằng việc khai trương hoạt động Sacombank –
Chi nhánh Lào tại Quận Chanthaboury, Thủ đô Viêng Chăn, Nước
CHDCND Lào. Vào Ngày 23/06/2009 Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín (Sacombank) chính thức khai trương hoạt động Chi
nhánh Phnôm Pênh (Campuchia).
Sacombank còn có quan hệ với gần 10.987 đại lý thuộc 307
Ngân hàng tại 81 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đối tác chiến lựơc của Sacombank
Sacombank đã được 3 tập đoàn Tài chính Quốc tế uy tín nắm
gần 30% vốn cổ phần và chia sẽ kinh nghiệm quản trị điều hành gồm:
Tập đoàn tài chính Dragon Financial Holdings thuộc Anh Quốc góp
vốn năm 2001, Công ty Tài Chính Quốc Tế IFC trực thuộc Ngân hàng
Thế Giới (World Bank) góp vốn năm 2002, Ngân hàng Australia và
New Zealand (ANZ) góp vốn năm 2005.
Bên cạnh đó, Sacombank còn có sự hợp tác hiệu quả với các tổ
chức kinh tế trong và ngoài nước như Hoàng Anh Gia Lai, Hữu Liên

Á Châu, Trường Hải Auto, COMECO, Trường Phú, ISUZU Việt
Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, EVN, SJC, Bảo Minh,
Habubank, Military Bank, Baruch Education Group Ltd BVI (BEG)–
Đại diện của City University of New York (CUNY), Đại học YersinĐà Lạt...
Trang


Vào ngày 16/5/2008, Sacombank tạo nên một bước ngoặc mới
trong lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng với việc công bố
hình thành Tập đoàn tài chính Sacombank. Hiện nay, Tập đoàn
Sacombank có sự góp mặt của các thành viên:

Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank), đóng vai trò hạt nhân điều phối hoạt động của Tập
đoàn;

Thành viên trực thuộc:
 Công ty Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank-SBS);
 Công ty Cho thuê tài chính Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank-SBL);
 Công ty Kiều hối Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank-SBR);
 Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Sài Gòn
Thương Tín (Sacombank-SBA);
 Công ty Vàng bạc đá quý Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank-SBJ);

Thành viên hợp tác chiến lược:
 Công ty cổ phần Đầu tư Sài Gòn Thương Tín (STI);

 Công ty cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal);
 Công ty cổ phần XNK Tân Định (Tadimex);
 Công ty cổ phần Đầu tư - Kiến trúc - Xây dựng Toàn Thịnh
Phát (TTP);
 Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầu tư Việt Nam (VFM);

Trang


Mô hình tổ chức của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín:

Trang


2.1.2 Khái quát về Sacombank - Chi Nhánh Long An
 Quá trình hình thành và phát triển
Trang


×