Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.28 KB, 74 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm gần đây, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn tỉnh Hà Tây đã có nhiều cố gắng trong hoạt động kinh doanh của
Ngành, đặc biệt là trong công tác tín dụng. Do đó, kết quả hoạt động tín
dụng ngày càng ổn định và phát triển vững vàng. Tuy nhiên, công tác tín
dụng luôn hàm chứa những yếu tố rủi ro, nhất là kinh doanh trong lĩnh vực
nông nghiệp nông thôn, vì vậy NHNo Hà Tây cần đưa ra nhiều giải pháp có
hiệu quả hơn nữa.
Qua nghiên cứu tình hình thực trạng tín dụng tại NHNo & PTNT Hà
Tây, em quyết định chọn chuyên đề: “nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng
của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây” nhằm góp
thêm ý kiến của mình trong việc nâng cao hiệu quả tín dụng và từng bước
tối ưu hoá lợi nhuận Ngân hàng. Bài viết gồm ba phần chính:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây
Chương III: Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Tây.
Trong khi thực hiện chuyên đề này, em đã cố gắng rất nhiều, song không
tránh khỏi những khiếm khuyết, em mong thầy, cô và bạn đọc chỉ bảo để bài
viết này hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn GS. TS Cao Cự Bội – giáo viên hướng dẫn đã
tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NHTM
I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.1. Sự ra đời và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của tín dụng ngân hàng gắn liền với sản
xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển


của tín dụng ngân hàng, đồng thời sự phát triển của tín dụng ngân hàng cũng
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Hình thức sơ khai của tín dụng bắt nguồn từ việc cho vay nặng lãi, các
ngân hàng đã dùng vốn tự có để duy trì hoạt động của họ. Từ thực tế họ nhận ra
rằng người gửi và người rút tiền không rút cùng một lúc. Do đó họ sử dụng tạm
thời một khoản tiền gửi của khách cho vay khiếm lời. Hoạt động này giúp ngân
hàng tăng nhanh lợi nhuận, do đó các ngân hàng đều tìm cách để mở rộng thu
hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Nhờ đó mà các
ngân hàng đã huy động ngày càng được nhiều tiền gửi, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc mở rộng cho vay và giảm lãi suất cho vay.
Cho vay ban đầu được thông qua ngân hàng của các thợ vàng, họ cho các
cá nhân giàu có vay chủ yếu để chi tiêu. Một số chủ ngân hàng mở rộng hình
thức cho vay đối với vua chúa, một phần nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho
chiến tranh. Hình thức cho vay là thấu chi – tức là cho khách chi nhiều hơn số
tiền gửi. Tình thế này đã đẩy nhiều ngân hàng đến bờ vực phá sản, tác động xấu
đến việc buôn bán. Trước tình đó, các nhà buôn đã đứng ra thành lập ngân hàng
thương mại đầu tiên. Như vậy ngân hàng thương mại được hình thành từ tư bản
thương nghiệp, và gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp.
Ban đầu các ngân hàng thương mại chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu, nay
mở rộng hình thức cho vay, cho vay dài hạn và trung hạn, cho vay để đầu tư
vào bất động sản, như ngân hàng ACB, ngân hàng HABUBANK.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy xét về bản chất thì tín dụng ngân hàng không thay đổi: một bên
là ngân hàng – bên cho vay và một bên là các cá nhân, doanh nghiệp – bên đi
vay. Bên đi vay sẽ phải trả bên cho vay cả gốc và lãi nhất định sau một thời
gian thoả thuận giữa hai bên. Sự thay đổi ở đây là đa dạng hoá hình thức tín
dụng, mở rộng quy mô, đối tượng, thời gian, không gian cho vay.
I.2. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là sự tin tưởng, tín nhiệm. Theo tiếng Việt tín dụng là biểu hiện

mối quan hệ vay mượn, hoàn trả giữa các chủ thể. Theo định nghĩa của Mác:
“tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban
đầu”.
Như vậy, quan hệ tín dụng bao gồm hai mối quan hệ cơ bản cho vay và
hoàn trả. Một quan hệ tín dụng chỉ được hoàn tất và kết thúc khi người vay đã
hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay. Ở đây cần hiểu rõ các nội dung sau:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định. Giá trị này có thể dưới hình thái giá trị hoặc dưới hình thái vật chất
tuỳ theo sự thoả thuận giữa hai bên.
- Người đi vay chỉ được quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian
nhất định theo sự thoả thuận trước. Hết thời hạnN, người đi vay phải có
nghĩa vụ hoàn trả cho người cho vay.
- Lượng giá trị được hoàn trả bao gồm giá trị gốc và lãi tiền vay hay
còn gọi là lợi tức.L
I.3. Đặc điểm tín dụng
Tín dụng ngân hàng có một số đặc điểm cơ bản sau:
Nó được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và đã được giải phóng ra khỏi
chu kỳ kinh doanh, là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, với sự
tham gia trong vai trò trung gian của các ngân hàng thương mại.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thu nhập của dân cư tăng và xuất hiện sự dư thừa tiền tệ, trong quá trình
sản xuất kinh doanh, các quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ khen thưởng, quỹ dự
phòng rủi ro... của các tổ chức kinh tế được ngân hàng huy động và là nguồn
vốn tín dụng chủ yếu của ngân hàng. Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân
hàng hoàn toàn khác với tín dụng thương mại - phụ thuộc hoàn toàn vào quy
mô, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và không phải là vốn tiền
tệ được giải phóng ra khỏi sản xuất kinh doanh. Đây cũng là một đặc điểm
chứng tỏ tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phát triển cao hơn tín
dụng thương mại.

Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng tương đối độc lập so với
sự vận động của quá trình sản xuất kinh doanh:
Khi hoạt động sản xuất kinh doanh được mở rộng và phát triển, nhu cầu
vốn tăng có thể dẫn đến nhu cầu về vốn tín dụng tăng, từ đó tín dụng ngân hàng
phục vụ đắc lực cho sản xuất kinh doanh.
Sản xuất kinh doanh không thay đổi nhưng nhu cầu tín dụng vẫn tăng do
hoạt động tín dụng còn đáp ứng nhiều nhu cầu khác ngoài sản xuất kinh doanh
như tiêu dùng, trả nợ nước ngoài...
Cũng có thể khi sản xuất kinh doanh mở rộng và phát triển, nhu cầu vốn
phát triển nhưng quy mô vốn tín dụng ngân hàng có thể không đổi do có thể có
vốn từ các nguồn khác (phát hành tín phiếu, trái phiếu, kêu gọi viện trợ...)
Do vậy, tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu vốn tín dụng cả
về khối lượng, thời hạn cho vay bằng các khoản vốn không phải chỉ của nó mà
cả vốn huy động. Đồng thời nhờ có tín dụng mà ngân hàng đã mở rộng được cả
về phạm vi cũng như lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng không
phải không có những nhược điểm của nó. Đó chính là tính rủi ro của hoạt động
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tín dụng tương đối cao do đó các ngân hàng sẽ dễ bị mất vốn, hiệu quả hoạt
động cũng như chất lượng tín dụng vì vậy sẽ giảm.
I.4. Một số vấn đề cơ bản của tín dụng
I.4.a. Nguồn cho vay
Vốn tự có và các quỹ của ngân hàng.
Vốn huy động trong và ngoài nước bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu hoặc huy động tiền gửi.
Vốn ủy thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu
tư của nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước.
I.4.b. Điều kiện về đối tượng vay vốn
Luật ngân hàng và luật tín dụng ban hành: tất cả những khách hàng được
cho vay phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:

Có tư cách pháp nhân, thể nhân đầy đủ.
Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu
quả.
Có vật tư hay hàng hóa tương đương, tài sản thế chấp, đảm bảo tiền vay
hoặc bảo lãnh của người thứ ba theo quy chế của Thống đốc Ngân hàng nhà
nước.
Có kế hoạch trả nợ gốc và lãi ngân hàng.
Sử dụng tiền vay đúng mục đích.
I.4.c. Quy trình thẩm định dự án đầu tư
Thu thập tài liệu, thông tin cần thiết.
Xử lý thông tin, đánh giá, phân tích.
• Nội dung thẩm định dự án đầu tư:
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Thẩm định tư cách pháp nhân vay vốn.
+ Phân tích tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ
chức cũng như của cá nhân cần vay vốn trong những năm gần đây (tối
thiểu là 2 năm).
Phân tích mục đích của vay vốn, thái độ và đạo đức của khách hàng.
Phương diện kỹ thuật.
Khả năng trả nợ, lãi và tính khả thi của dự án (trong đó hai chỉ tiêu quan
trọng nhất là giá trị hiện tại ròng NPV và tỷ suất doanh lợi IRR).
+ Lập tờ trình kết quả thẩm định. Quá trình thẩm định là một khâu quan
trọng không thể thiếu với mỗi dự án cho vay nhằm tránh rủi ro và nâng
cao chất lượng tín dụng. Thẩm định yêu cầu cao đối với cán bộ thẩm định
cả về trình độ chuyên môn cũng như tư cách đạo đức, nó quyết định sự
thành công của khoản tín dụng đó.
I.5. Tầm quan trọng của tín dụng
Như chúng ta đã biết, sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng có thể cho thấy vai trò thiết yếu của tín

dụng ngân hàng đối với sự vận hành của nền kinh tế. Dưới đây, ta có thể thấy
được một số vai trò chủ yếu của tín dụng trong nền kinh tế:
Hoạt động tín dụng đảm bảo đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân trong nền kinh tế.
Với mục tiêu lớn là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế của Đảng
và Nhà nước cũng như nhu cầu phát triển của các tổ chức kinh tế trong nền kinh
tế thị trường cạnh tranh gay gắt quyết liệt như hiện nay thì nhu cầu về vốn để
đổi mới trang thiết bị công nghệ sản xuất cũng như phát triển sản xuất, mở rộng
mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ... là rất lớn. Do đó mở rộng
nguồn vốn để đầu tư phát triển là một yêu cầu bức thiết đối với các doanh
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp cũng như các tổ chức kinh tế khác. Thực tế cho thấy phần vốn chủ yếu
của các công ty là huy động được từ các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là
các ngân hàng thương mại thông qua các hình thức vay mới, chiếm tỷ trọng lớn
(61,9%).
Mặt khác ở nước ta hiện nay thị trường chứng khoán mới ở giai đoạn sơ
khai, đối tượng phát hành còn hạn chế cũng như khuôn khổ pháp lý, môi trường
kinh tế, thói quen, tâm lý người dân... chưa cho phép lưu hành trái phiếu, cổ
phiếu một cách rộng rãi để nó có thể là nguồn vốn cơ bản của các công ty. Do
vậy tín dụng ngân hàng thực sự gần như là con đường duy nhất đối với các dự
án đầu tư chiều sâu, phát triển sản xuất, hiện đại hóa và cải tiến công nghệ. Từ
những khoản tín dụng đó có thể nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm, tăng khả năng sinh lời, tăng thu nhập cho người lao động, đời sống nhân
dân được cải thiện và các khản thu của Nhà nước cũng tăng theo.
Nhờ vào hoạt động tín dụng ngân hàng, các tổ chức tín dụng có thể tăng
cường kiểm tra, giám sát với khách hàng vay vốn, từ đó góp phần nâng cao hiệu
quả kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân.
Tín dụng là hoạt động chính đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng.
Nó đòi hỏi ngân hàng phải kiểm soát khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, ít ra

là cũng phải dự tính, phán đoán được khả năng này nhằm bảo vệ tiền gửi của
khách hàng và hiệu quả hoạt động cũng như lợi nhuận của ngân hàng. Nếu một
khoản vay nào đó thất thoát thì trước tiên làm ngân hàng không còn khả năng
thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng có trách nhiệm với các cổ đông
đảm bảo mức chia lãi cổ phần hợp lý cũng như mức lương nhất định đối với
nhân viên. Chính vì vậy, ngân hàng luôn phải thận trọng đối với các khoản tín
dụng và tăng cường kiểm soát đối với các khách hàng vay để xem khoản vay đó
có sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả không,... đồng thời có thể tư vấn
chuyên môn cho khách hàng. Do vậy chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao,
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đem lại lợi lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng, rộng hơn là cho cả nền kinh
tế quốc dân.
Thông qua hoạt động tín dụng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông, ổn
định thị trường. Chi phí giao dịch là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công hay không của khách hàng. Với mỗi khoản giao dịch, có các khoản
chi phí cố định (chiếm tỉ lệ chủ yếu) và chi phí khác phụ thuộc từng loại giao
dịch, do vậy với khối lượng giao dịch càng nhỏ thì chi phí giao dịch bình quân
cho mỗi đồng vay, cho vay là càng lớn.
Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác chuyên
môn hóa trong lĩnh vực này nên nó sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí giao dịch
cho khách hàng (có thể giao dịch với lượng tiền lớn).
Ngoài ra, ngân hàng thương mại đóng vai trò người trung gian trong hoạt
động tín dụng, thực hiện huy động vốn bằng nhiều hình thức những nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và cho những người cần vốn vay đã tránh
được sự lãng phí và giúp cho nền kinh tế phát triển hơn.
II. HIỆU QUẢ TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
II.1. Hiệu quả tín dụng
Tín dụng ngân hàng được xem như là có hiệu quả cao khi vốn vay được
của khách hàng sử dụng vào đúng mục đích, ngân hàng thu được cả gốc và lãi,

còn doanh nghiệp vừa trả được nợ ngân hàng đúng hạn vừa bù đắp được chi phí
vừa có lợi tức. Như vậy, ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế, vừa đem lại
hiệu quả xã hội .
Để có thể đạt được hiệu tín dụng cao thì hoạt động quản lý tín dụng phải
có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy
tín trong hoạt động. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích, đánh
giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhân của những tồn tại của chất lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được
các biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh gay gắt và quyết liệt.
II.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng
Tín dụng ngân hàng là hoạt động “đi vay để cho vay”, do đó chất lượng
tín dụng phụ thuộc rất lớn vào công tác huy động và cho vay vốn. Tín dụng
ngân hàng là cầu nối giữa hoạt động của ngân hàng và các hoạt động sản xuất
kinh doanh, tiêu dùng của xã hội và đồng thời tín dụng từ lâu đã được sử dụng
như một công cụ cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho những người thiếu
vốn, khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, áp
dụng kỹ thuật mới, mở rộng thị trường... từ đó mà tăng thu nhập... Các khoản
tín dụng do đó có vai trò lớn trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như
xã hội.
Đối với các ngân hàng thương mại (là các tổ chức kinh doanh tiền tệ) để
đánh giá hiệu quả tín dụng, ngoài các chỉ tiêu định tính, phải dựa vào các chỉ
tiêu định lượng cụ thể sau:
II.2.a. Huy động vốn
Một ngân hàng thương mại luôn đáp ứng được nhu cầu vay của khách
hàng và có đủ khối lượng tiền khách hàng cần rút sẽ tạo niềm tin cho khách
hàng và chứng tỏ được tiềm lực tài chính mạnh của mình. Đồng thời với đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng, ngân hàng phải tính toán để cho lợi nhuận

của mình được đảm bảo một tỉ lệ nhất định đối với mỗi khoản cho vay.
Muốn đạt được những tiêu chuẩn đó, ngân hàng phải có khả năng huy
động được những nguồn vốn có thời hạn dài với chi phí thấp nhất có thể được.
Khả năng huy động vốn được thể hiện ở hai chỉ tiêu:
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tổng số vốn huy động được và tốc độ tăng của nguồn vốn này qua mỗi
năm thể hiện tốc độ tăng trưởng và khả năng huy động vốn của ngân hàng.
Hiện nay ngân hàng nhà nước không quy định tỉ lệ lãi suất bắt buộc mà
thay bằng lãi suất cơ bản và tỉ lệ dao động. Chính vì vậy, các ngân hàng thương
mại có thể điều chỉnh dễ dàng đầu vào và đầu ra của tín dụng bằng các chính
sách lãi suất nhằm làm cân đối bảng cân đối tài sản của mình. Nếu xét thấy số
lượng khách hàng rút tiền ra tăng hay nhu cầu vay vốn tăng trong hiện tại hay
dự đoán trong tương lai, các ngân hàng sẽ thực hiện huy động vốn và đó sẽ là
biểu hiện cụ thể của mở rộng tín dụng và ngược lại.
Cơ cấu của nguồn vốn huy động được. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng
vay của ngân hàng với những đối tượng khác nhau và đồng thời cũng thể hiện
khả năng ổn định và cho vay của ngân hàng. Nếu trong cơ cấu nguồn vốn huy
động được, vốn trung và dài hạn chiếm một tỷ trọng đáng kể thì ngân hàng có
khả năng ổn định cao và có thể mở rộng đối tượng cho vay ra trung và dài hạn.
Nhưng hiện nay phần lớn tỉ lệ vốn huy động được chủ yếu là vốn ngắn hạn từ 6-
12 tháng. Trong số này, các ngân hàng chỉ được trích một tỉ lệ nhỏ cho vay
trung và dài hạn còn chủ yếu là các khản tín dụng ngắn hạn. Ngân hàng không
dám mở rộng đối tượng cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn bởi nếu
không huy động kịp vốn cho những khoản trả nợ ngắn hạn khi đến kỳ đáo hạn
thì uy tín của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đó là một ví dụ cơ bản
về ảnh hưởng của cơ cấu nguồn vốn đối với hiệu quả tín dụng ngân hàng.
II.2.b. Sử dụng vốn
Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ càng sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
huy động được. Đối với các nguồn vốn huy động, ngân hàng phải trả lãi suất dù

sau đó có cho vay lại hay sử dụng vào các mục đích khác hay không. Do đó nếu
nguồn vốn đã huy động được mà không sử dụng chiếm tỉ lệ lớn, ngân hàng sẽ bị
thua lỗ.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
II.2.c. Dư nợ
Chỉ tiêu rất quan trọng trong đáng giá hiệu quả tín dụng ngân hàng
thương mại. Qua đó ta có thể nghiên cứu được biến động quy mô, khối lượng
tín dụng, mức độ phát triển của nghiệp vụ, chứng tỏ mối quan hệ giữa ngân
hàng và khách hàng là đáng tin cậy và có hiệu quả, nói chung là khoản tín dụng
có chất lượng cao.
II.2.d. Lợi nhuận
Bên cạnh việc phải thực hiện một số chính sách xã hội của Nhà nước,
Ngân hàng thương mại phải hướng tới thực hiện mục tiêu cuối cùng của mình
đó là tối ưu hoá lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại thu được lợi nhuận tín dụng từ khoản chênh lệch
lãi suất đi vay và lãi suất cho vay. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng đối với
những ngân hàng chưa phát triển dịch vụ ngân hàng, nguồn thu từ hoạt động tín
dụng là chủ yếu. Nếu tín dụng không đạt chất lượng tốt thì không những không
thu được nợ gốc và lãi mà còn tăng về chi phí của ngân hàng, làm giảm lợi
nhuận.
Tuy nhiên, đối với một số dự án theo kế hoạch của nhà nước thì chỉ tiêu
này đôi khi không đầy đủ để phản ánh chất lượng tín dụng. Vì mục tiêu kinh tế
xã hội hay chiến lược phát triển các ngành khoa học kỹ thuật còn non trẻ, phát
triển các ngành mũi nhọn, xuất khẩu hay vì các mục tiêu xã hội khác thì đôi khi
lợi nhuận không được đặt ra và nó không phản ánh thực chất chất lượng khoản
tín dụng.
II.2.e. Vòng quay của vốn
Nó được tính bằng tỉ số giữa số thu nợ và tổng dư nợ. Chỉ tiêu này cho
biết số tín dụng đã hoàn thành và được thu lại để tiếp tục cho vay. Qua đó có

11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thể thấy được ngân hàng đã cho vay đúng đối tượng nên đã thu được cả vốn lẫn
lãi, không có rủi ro và quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là tốt đẹp. Số lợi
nhuận thu được trên mỗi đồng vốn vay tăng tỷ lệ với số vòng quay của vốn.
Đó là một số chỉ tiêu dùng đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng thương
mại. Tuy nhiên, hiệu quả tín dụng ngân hàng luôn phải xem xét, đánh giá, phân
tích cả về mặt định tính cũng như về mặt định lượng. Tín dụng nhằm mục tiêu
lợi nhuận cả về phía ngân hàng và khách hàng nhưng ta không thể bỏ qua
những mục tiêu, lợi ích xã hội của nó. Trong những năm qua, tín dụng đã góp
phần tích cực vào ổn định xã hội, thông qua các hoạt động tín dụng đã tháo gỡ
khó khăn cho các doanh nghiệp, hộ nông dân, duy trì và phát triển sản xuất kinh
doanh. Trong thực tế các vấn đề xã hội nổi cộm đều do sự bất công trong khả
năng tiếp cận, sử dụng các nguồn lực nhằm đem lại lợi nhuận và do cơ chế phân
phối thu nhập có nhiều bất công. Tín dụng được sử dụng như một biện pháp
khắc phục nguyên nhân thứ nhất. Chính vì vậy, để đánh giá hiệu quả tín dụng,
cũng cần phải quan tâm đến các kết quả mang tính xã hội của tín dụng. Đó là về
mặt giải quyết việc làm, phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập, phát
triển các vùng xa xôi hẻo lánh... Tóm lại, để đánh giá chất lượng tín dụng cần
phải có một cái nhìn toàn diện trên mọi góc độ cả về mặt định tính và định
lượng, cả về mặt kinh tế và mặt xã hội.
II.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng
II.3.a. Nội bộ ngân hàng
II.3.a.1. Lãi suất tín dụng
lãi suất tín dụng của ngân hàng không những được quy định bởi lãi suất
cơ bản của ngân hàng nhà nước, sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác mà
còn do mục tiêu lợi nhuận từ phía ngân hàng và các chi phí khác của khoản cho
vay. Khi xác định lãi suất, ngân hàng phải dựa vào 3 yếu tố cơ bản:
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Lãi suất thị trường (yếu tố nền tảng).
Định hướng chiến lược, chính sách kinh tế.
Thực trạng và tốc độ lạm phát.
Bên cạnh đó, chính sách điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt của ngân
hàng đối với những khoản vay khác nhau trong những giai đoạn khác nhau
cũng sẽ quyết định đến hiệu quả khoản tín dụng.
II.3.a.2. Tiêu chuẩn tín dụng
Là những yêu cầu mà các doanh nghiệp phải đạt được để được thiết lập
quan hệ tín dụng. Tùy theo quy mô của tín dụng mà tiêu chuẩn tín dụng được
đưa ra để so sánh, đánh giá những tiêu chuẩn doanh nghiệp cần đạt được. Trên
cơ sở đó, ngân hàng tiến hành phân loại doanh nghiệp để nhìn nhận, quyết định
quy mô tín dụng và các biện pháp phù hợp đảm bảo an toàn tín dụng. Khi tiêu
chuẩn tín dụng cao, khả năng hấp thu khách hàng càng thấp nhưng tính an toàn
cao và ngược lại.
II.3.a.3. Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng một mặt phải phù hợp với đường lối phát triển chung
của đất nước, đồng thời phải đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người cho
vay, người đi vay và bản thân ngân hàng. Với các ngân hàng thương mại, một
chính sách tín dụng đúng đắn, rõ ràng, hợp lý phải đảm bảo khả năng sinh lời
của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và đường
lối, chính sách của nhà nước, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng và hấp
dẫn khách hàng. Một chính sách như vậy mới khuyến khích ngân hàng phát
hiện và thỏa mãn các nhu cầu về vốn.
II.3.a.4. Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng quy định quyền hạn và
trách nhiệm của từng khâu, mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình thực
hiện từ thẩm định cho đến khi thiết lập quan hệ và thu hồi vốn tín dụng. Tổ
chức và quản lý tín dụng phù hợp sẽ nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng,

hạn chế tình trạng lựa chọn đối nghịch hay rủi ro đạo đức. Quy trình quản lý
được bố trí khoa học, phân định rõ ràng về trách nhiệm, góp phần nâng cao chất
lượng thông tin, là cơ sở quan trọng nâng cao mức độ hiệu quả tín dụng.
II.3.a.5. Thông tin tín dụng và thẩm định dự án
Mục đích của thẩm định dự án là nhằm giúp ngân hàng rút ra được các
kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ, những rủi
ro có thể xảy ra của dự án để quyết định cho vay hay từ chối. Đồng thời qua
thẩm định cũng có thể tham gia góp ý với chủ đầu tư về dự án, xác định lại số
tiền cần vay, thời hạn và mức thu hợp lý phù hợp với năng lực doanh nghiệp,
nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và tín dụng đem lại
lợi nhuận cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ này, hiệu quả các khoản tín dụng mới được
đảm bảo. Trong số các biện pháp nâng cao ấy, biện pháp có tính chiến lược, có
ý nghĩa thiết thực nhất đối với các công tác thẩm định là nâng cao chất lượng
thông tin tín dụng, nó có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay, quyết định
đầu tư tín dụng. Xét dưới góc độ vĩ mô, thông tin tín dụng là cơ sở đánh giá
hiệu quả tín dụng ngân hàng, đưa ra các dự báo phát triển kinh tế. Đặc biệt
trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, số lượng doanh
nghiệp ngày càng nhiều, quan hệ kinh tế thương mại ngày càng đa dạng và
phức tạp, sức ép vì nhu cầu thông tin khách hàng ngày càng quan trọng và đòi
hỏi phải đáp ứng: tính cập nhật, nhanh, chính xác và tiện lợi.
II.3.a.6. Nhân sự
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cán bộ ngân hàng là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động
tín dụng ngân hàng. Nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phát triển càng đòi hỏi đội
ngũ cán bộ ngân hàng có trình độ ngày càng cao để có thể sử dụng những
phương tiện hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ ngân hàng trong cơ
chế thị trường.
Việc tuyển chọn nhân sự phải đảm bảo cả về đạo đức và nghiệp vụ

chuyên môn. Hai mặt này phải gắn bó khăng khít với nhau, nhất là trong điều
kiện hiện nay, các ngân hàng thương mại đang bất cập về trình độ nên lực
lượng cán bộ thì nhiều nhưng vẫn thiếu cán bộ chuyên môn giỏi.
Như vậy, đội ngũ cán bộ ngân hàng có vai trò rất lớn trong việc nâng cao
hiệu quả tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
II.3.b. Khách hàng
Nhu cầu tín dụng của khách hàngN: phụ thuộc chủ yếu vào tình hình
chung của nền kinh tế và chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn
chung đối với các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nhà nước cũng như
doanh nghiệp tư nhân, đều luôn có nhu cầu vay vốn để đổi mới công nghệ, cải
tiến mặt hàng, mở rộng sản xuất nhằm tăng cường sức cạnh tranh, chiếm lĩnh
thị trường.
Năng lực của khách hàngN: được hiểu là khả năng của người đi vay trong
việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn đối với từng loại hình tín dụng. Điều
kiện tín dụng đưa ra là nhằm tiêu chuẩn hóa các đối tượng vay vốn, đồng thời
để thuận tiện cho quá trình quản lý tín dụng và nhằm đảm bảo cho khả năng thu
hồi vốn của ngân hàng.
Tình hình cầm cốT, thế chấp tài sản của doanh nghiệp cũng như của
người bảo lãnh: đây là vấn đề quyết định để đảm bảo cho khoản vay ngân hàng.
Doanh nghiệp phải có chứng nhận về quyền sở hữu với tài sản gắn liền với
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
năng lực pháp luật của doanh nghiệp và khả năng sử dụng tài sản đó để thực
hiện các biện pháp tín dụng. Quyền sở hữu và giá trị của tài sản phải được đảm
bảo cho đến kỳ đáo hạn của khoản tín dụng, đồng thời phải có tính lỏng cao.
Đối với người bảo lãnh ngoài yêu cầu về tư cách pháp nhân cũng phải có tài sản
thế chấp và quyền sở hữu về tài sản như đối với người đi vay. Đặc biệt đối với
những khoản thế chấp, cầm cố thường được điều chỉnh thấp xuống vì giá trị bán
được và số tiền ròng thu được từ tài sản thế chấp thường ít hơn khi một khoản
vay nợ trở thành một vụ thu hồi nợ. Điều này cũng nhằm đảm bảo an toàn cho

số vốn tín dụng ngân hàng bỏ ra.
Tư cách đạo đức khách hàngT: phẩm chất đầu tiên đòi hỏi ở người đi vay
tiền (khách hàng) là phải hoàn toàn trung thực. Khi ngân hàng có nghi ngờ về tư
cách đạo đức hoặc ý định của người đi vay thì ngân hàng không nên tiến hành
cho vay nhằm đảm bảo an toàn tín dụng. Chính vì vậy đối với mỗi khách hàng,
ngân hàng thường có biện pháp kiểm tra tư cách khách hàng. Những lừa dối đạo
đức thường xay ra do những hành vi sau của người đi vay: tạo ra những chứng
cứ giả để có thể vay được tiền, cố tình chiếm đoạt phần vốn từ những người cho
vay, hay những người vay vốn sử dụng vốn vay không đúng mục đích... Trong
thực tế, nhất là khi có nhiều hình thức tín dụng như hiện nay thì hiệu quả tín
dụng phụ thuộc rất lớn vào đạo đức khách hàng.
II.3.c. Môi trường kinh tế
Có thể nói, môi trường kinh tế ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh tiền
tệ của ngân hàng nói chung và hiệu quả tín dụng nói riêng. Một môi trường
kinh tế hoàn chỉnh và trong sạch sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát
triển đúng quỹ đạo. Còn nếu môi trường ấy có nhiều bất cập, nhiều tệ nạn và có
nhiều biến động thì ngân hàng sẽ không có nguồn vốn huy động bởi khách hàng
lo sợ rủi ro xảy ra. Môi trường kinh tế như vậy sẽ tạo điều kiện cho nhiều tật
xấu của nền kinh tế được nảy nở và phát triển. Các khoản tín dụng sẽ được đầu
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tư không đúng chỗ và đem lại rủi ro cho khách hàng, như vậy hiệu quả tín dụng
bị ảnh hưởng.
Chúng ta xét ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động tín dụng
trên hai khía cạnh:
Chu kỳ kinh tếC: Một cách khái quát, nếu nền kinh tế trong giai đoạn ổn
định và hưng thịnh thì nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng của
người dân, và lượng tiền dự trữ, tiết kiệm đều tăng, do đó cả người cho vay và
người đi vay đều sẵn sàng, hoạt động tín dụng được nâng cao. Ngược lại, trong
giai đoạn kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp thấy sẽ thật là mạo hiểm nếu mở

rộng sản xuất bởi nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, sức mua kém và hàng
hóa sẽ bị tồn kho, lợi nhuận giảm hoặc thậm chí doanh nghiệp có thể bị phá sản
bởi không duy trì được sản xuất và không trả được nợ ngân hàng. Chính vì vậy,
lúc nền kinh tế suy thoái, nguồn vốn huy động được của ngân hàng sử dụng
không có hiệu quả tức là hiệu quả tín dụng cũng bị giảm.
Các biến động về lãi suất, tỉ giá trên thị trường nói chung và thị trường
tiền tệ nói riêng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất ngân hàng. Nếu ngân hàng phụ
thuộc vào khoản vốn huy động dưới dạng chứng chỉ tiền gửi mệnh giá lớn hoặc
tiền vay của Chính phủ, giá vốn huy động của nó sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi
các điều kiện của thị trường tiền tệ. Hơn nữa, thị trường tiền tệ sẽ xác định sự
hấp dẫn của các dự án đầu tư.
Hơn nữa, lãi suất cho vay và huy động vốn là một trong những nhân tố
quyết định lượng vốn huy động được và quyết định số vốn giải ngân được – còn
bị ảnh hưởng bởi các mức lãi suất cạnh tranh trên thị trường từ các ngân hàng
và tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng không thể tính giá thêm cho cùng một loại
sản phẩm hay dịch vụ nhằm đạt mức lợi nhuận mong muốn mà không bị mất đi
một số lớn quan trọng khách hàng.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
II.3.d. Môi trường pháp lý
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho
ngân hàng và các khách hàng khi ký kết và tham gia các hoạt động tín dụng.
Đồng thời cũng gây ra nhiều vướng mắc trong quản lý và sử dụng các khoản tín
dụng, xử lý tài sản thế chấp, phát mại... Ví dụ như về quy định thời hạn cho vay
trong “Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng với khách hàng” quy định cho
vay ngắn hạn có thời hạn tối đa 12 tháng như trong luật ngân hàng thì quy định
thời hạn cho vay trung hạn bắt đầu từ 12 tháng trở lên. Điều này tạo nên sự
thiếu nhất quán trong phân loại các chỉ tiêu dư nợ cho vay theo thời hạn ở các tổ
chức tín dụng và cũng gây khó khăn cho quản lý tín dụng của nhà nước, tạo kẽ
hở cho những việc làm sai phạm.

Sự thay đổi trong các chủ trương, chính sách của nhà nước cũng gây ảnh
hưởng đến các khoản tín dụng. Nhất là về cơ cấu kinh tế, các chính sách xuất
nhập khẩu... bởi nếu có sự thay đổi đột ngột ấy thì sẽ gây xáo trộn trong sản
xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc phương án kinh
doanh sẽ không còn phù hợp... Nếu không kịp thời chuyển đổi, doanh nghiệp sẽ
không sản xuất kinh doanh được và không thể thanh toán nợ dẫn đến nợ quá
hạn, nợ khó đòi của ngân hàng tăng lên.
Đồng thời, sự quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều
sơ hở. Nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng,
nhiều nhiệm vụ và có thể vượt quá trình độ, năng lực quản lý làm cho quá trình
thẩm định của ngân hàng khó khăn nên mức rủi ro lớn, làm giảm sút hiệu quả
tín dụng.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN HÀ TÂY
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ra đời trong công cuộc đổi mới, từ một bộ phận của Ngân hàng Nhà n-
ước qua 16 năm xây dựng và trưởng thành (1988 – 2004), Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây đã tiến hành những cải cách quan
trọng, cả về tổ chức bộ máy và đào tạo bối dưỡng cán bộ, trang bị phương tiện
kỹ thuật cùng các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ. Ngân hàng đã sớm xác
định giải pháp “lấy nông thôn làm thị trường, lấy hộ gia đình nông thôn làm
khách hàng”, thực hiện phương châm “đi vay để cho vay” làm phương hướng
và phương thức hoạt động. Hệ thống đầu mối kinh doanh dịch vụ của Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây từng bước phát triển cả
bề rộng lẫn chiều sâu, góp phần ngăn chặn tình trạng cho vay nặng lãi, trở thành
người bạn tin cậy, gần gũi của nông dân và nông thôn, cùng nhiều thành phần
kinh tế khác.

I.1. Các năm 1988 - 1991
Thực hiện nghị định số 53 của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 26 - 03 - 1988,
Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra Quyết định số 43 thành lập
Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh Hà Sơn Bình. Ngân hàng ra đời trong
bối cảnh nền kinh tế của đất nước bước vào thời kỳ thực hiện nhiệm vụ đổi mới
theo đường lối của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Ngành kinh tế nông
nghiệp bắt đầu triển khai thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán
sản phẩm đến nhóm và ngươì lao động. Thuận lợi cơ bản là, đội ngũ cán bộ,
nhân viên trong cơ quan Ngân hàng có tinh thần và trách nhiệm cao, vinh dự là
lực lượng đi đầu trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất nước
trên lĩnh vực kinh doanh về tín dụng – tiền tệ.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Song, đội ngũ cán bộ, nhân viên Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh
đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Nền kinh tế của đất nước đang ở vào giai
đoạn lạm phát ở mức cao 3 con số (896%). Kinh tế khủng hoảng, đời sống nhân
dân rất khó khăn. Sản xuất lương thực không đủ ăn. Giá cả hàng hoá tăng
nhanh. Tình trạng “cả nước đi buôn” kể cả các đơn vị hành chính dẫn đến tình
hình “thi nhau đục tường” để mở cửa hàng buôn bán, kinh doanh rất sôi động.
Toàn tỉnh có hơn 300 xã, với 16 đơn vị Ngân hàng phát triển Nông
nghiệp tỉnh. Mặt khác, điều kiện làm việc và cơ sở vật chất của Ngân hàng còn
rất lạc hậu, hạn chế, có nhiều khó khăn thiếu thốn. Đội ngũ cán bộ của chi
nhánh Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh Hà Sơn Bình lại đông. Tỉnh có
342 đơn vị kinh tế quốc doanh, 2.000 đơn vị kinh tế tập thể, 1.250 bàn đại lý và
uỷ nhiệm tiết kiệm với khoảng 1 triệu sổ tiết kiệm nhưng đều khó khăn trong
việc hoạt động. Các doanh nghiệp vay vốn ở thời điểm này chủ yếu là các xí
nghiệp quốc doanh phần lớn lại làm ăn thua lỗ, nhưng Ngân hàng vẫn phải cho
vay theo phương thức cũ. Nhiều xĩ nghiệp phải ngừng hoạt động, giải thể hoặc
chuyển sang sở hữu khác. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã
mua bán hầu hết kinh doanh thua lỗ.Thưc trạng đó làm cho một bộ phận dư nợ

của Ngân hàng bị kẹt. Việc kinh doanh của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, nợ
tồn đọng phải “khoanh”, “xoá”… ở các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp phổ
biến tình trạng xã viên nợ đọng sản phẩm. Cơ sở vật chất các hợp tác xã thấp
kém. Trên địa bàn tỉnh, tình trạng hụi họ, số đề lan nhanh, xâm nhập vào việc
cho vay trong các hợp tác xã tín dụng và cả Ngân hàng Nông nghiệp.
Khó khăn hơn cả và tác động ngay từ ngày đầu là cơ chế tổ chức và hoạt
động của ngành Ngân hàng chua đồng bộ, chưa thồng nhất. Những chủ trương
đã ban hàng như quyết định 16 về cơ chế hạch toán, Quyết định 67 về cơ chế
tiền tệ chưa được triển khai thực hiện. Quan hệ giữa chi nhánh Ngân hàng Nhà
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nước tỉnh và Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh về quản lý vốn tín dụng,
tiền mặt chưa được rõ ràng.
Đứng trước khó khăn, Ban giám đốc Ngân hàng phát triển Nông nghiệp
Hà Sơn Bình tập trung chỉ đạo vào một số vấn đề trọng tâm, cấp bách như vừa
ổn định sắp xếp tổ chức bố trí cán bộ ở ngân hàng chuyên doanh tỉnh, cán bộ
lãnh đạo phòng từ tỉnh đến huyện, vừa chỉ đạo các mặt công tác tiền tệ – tín
dụng, tài vụ kế toán của ngân hàng chuyên doanhtrong toàn tỉnh với ý thức
không chờ có cơ chế đồng bộ, cái gì đã có cần chấp hành nghiêm túc, cái gì
chưa có nhưng đã có định hướng thì tổ chức làm thí điểm và triển khai ra diện
rộng để có kinh nghiệm. Đây là hai mặt chỉ đạo quan trọng của Ban giám đốc
trong thời kỳ đầu. Ngoài ra Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh còn nhanh
chóng tiếp nhận việc bàn giao tài sản, hồ sơ tài liệu và cán bộ của các ngân
hàng, tiến hàng xây dựng quy chế làm việc của Ban giám đốc, chế độ chức
trách, nhiệm vụ quy trình nghiệp vụ của các phòng và mối quan hệ trong quản
lý và điều hành của Ban giám đốc với các phòng, các ngân hàng huyện, quan hệ
với khách hàng nhằm tạo ra sự thống nhất cao trong hoạt động kinh doanh.
Trong công tác ổ định tổ chức, chi nhánh Ngân hàng phát triển Nông
nghiệp tỉnh thành lập một Đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Dân chính Đảng tỉnh Hà
Sơn Bình Ngân hàng Ban chấp hành có 7 uỷ viên, do đồng chí Lê Văn Sở là

phó bí thư. Toàn Đảng bộ có 31 đảng viên, tổ chức thành ba chi bộ. Về đoàn
thể, Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh thành lập tổ chức công đoàn, chi
đoàn Thanh niên và trung đội tự vệ cơ quan. Tổ chức Công đoàn Ngân hàng
Nông nghiệp tỉnh do đồng chí Trần Văn Lợi làm Chủ tịch.
Về mặt chính quyền, để sớm ổn định tổ chức bộ máy mới, Ban giám đốc
chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh căn cứ vào công văn số 87/CV –
NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kết hợp với việc xem xét năng lực
cán bộ, tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm. Kết quả đã lựa chọn, bổ nhiệm được 11
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đồng chí là trưởng phó phòng ngân hàng tỉnh; 6 đồng chí là giám đốc, phó giám
đốc, trưởng phó phòng các chi nhánh ngân hàng huyện. Bộ máy tổ chức, cán bộ
các ngân hàng huyện cơ bản đã ổn định.
Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, ngân hàng huyện đã
đúc rút được nhiều kinh nghiệm, suy nghĩ tìm tòi về phương pháp công tác
nhằm đáp ứng nhu cầu củanhiệm vụ mới. Một số huyện đã tiếp thu tốt sự chỉ
đạo của ngân hàng tỉnh, đã kịp thời phân tích công tác tài chính trong 6 tháng
đầu năm để có biện pháp cho tháng sau, quý sau. Nhiều ngân hàng huyện đã coi
trọng tăng thu, đúng chế độ, chính sách, tiết kiệm giảm chi phí không cần thiết.
Điêù đó chứng tỏ, ngay trong tháng đầu tiên khai trương, trong khi Ngân hàng
Trung ương chưa ban hành chế độ tài chính, Ngân hàng phát triển Nông nghiệp
Hà Sơn Bình đã sớm có ý thức coi trọng hiệu quả kinh tế. Chống bao cấp trong
chi phí. Các huyện: Phú Xuyên, Mỹ Đức, Quốc Oai, Chương Mỹ, Tân Lạc,
Lương Sơn đã giảm lỗ và có lãi.
Về công tác tín dụng, tính đến ngày 30/07, nguồn vốn có 5.213 triệu. So
với tháng 6/1988, số dư tiền tiết kiệm giảm khoảng 60 triệu. Dư nợ là 5.394.613
ngàn đồng, trong đó dư nợ vốn lưu động là 4.552 triệu, dư nợ vốn cố định là
579 triệu, dư nợ tư nhân cá thể là 263 triệu, dư nợ cho vay thoả thuận lãi suất
cao 827 triệu.Sau một tháng hoạt động, ngày 03/08/1988, Ngân hàng phát triển
Nông nghiệp Hà Sơn Bình tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm một tháng khai

trương ngân hàng và bàn mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 tháng cuối năm
1988. Hội nghị thống nhất đánh giá với những mặt nổi bật là: “ ổn định được bộ
máy tổ chức và cán bộ, triển khai cơ chế tín dụng, tiền tệ với khách hàng, bước
đầu thích ứng với chức năng, nhiệm vụ mới, tạo được sự thống nhất từ nhận
thức đến hàng động, từ tỉnh đến huyện”.
Đầu năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng có chỉ thị 202 chuyển hướng công
tác tín dụng sang cho vay trực tiếp hộ nông dân, Ngân hàng nông nghiệp Hà
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sơn Bình đã chỉ đạo thí điểm ở huyện Phú Xuyên về việc cho hộ nông dân vay
vốn. Việc làm này đã được Thường trực tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh đồng
ý, hoan nghênh, được một số ban ngành như: Ban kinh tế Tỉnh uỷ, Hội Nông
dân, Sở nông nghiệp, Ngân hàng Nhà nước thống nhất chủ trương, có biện pháp
phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh tổ chức triển khai. Ngân hàng tổ
chức điều tra nghiên cứu ở 23 hộ thuộc xã Liên Hoà (Phú Xuyên) với hình thức:
trực tiếp trao đổi mạn đàm, kết hợp với quan sát hoàn cảnh từng hộ nông dân để
xem xét và quyết định cho vay.
Điều tra cho thấy:
- Hoạt động của ban quản lý hợp tác xã trong chế độ khoán 10 còn lúng
túng, thiếu đồng bộ, còn gây khó khăn phiền hà cho người nhận khoán
và chưa tạo cho tín dụng Ngân hàng thâm nhập vào hộ nông dân.
- Đại bộ phận nông dân thiếu vốn sản xuất§, nạn cho vay nặng lãi, bán
lúa non xuất hiện nhiều nơi nhưng bản thân nông dân chưa muốn vay
vốn Ngân hàng vì nhiều lý do thủ tục giấy tờ, đi lại nhiều lần, nhiều
hộ nông dân không có tài sản thế chấp theo quy định.
Từ đánh giá trên, các ngành cùng Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Phú
Xuyên và dư luận xã hội tán thành và hoan nghêng chủ trưng của Ngân hàng về
cho vay trực tiếp hộ nông dân. Bước đầu Ngân hàng đã cho vay trực tiếp được
44 hộ, với số tiền 37, 7 trệu đồng, cho vay qua hợp tác xã nông nghiệp bảo lãnh
là 3.923 hộ, với số tiền 183.483 ngàn đồng. Việc cho vay trực tiếp hộ nông dân

là đúng hướng, phù hợp với khoán 10, mở ra bước đi trong hoạt động kh của
Ngân hàng.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, kỳ họp thứ 9 (Quốc hội khoá
VIII) diễn ra từ ngày 27/07 – 12/08/1991 đã ra quyết định tách tỉnh Hà Sơn
Bình trở về hai tỉnh cũ: Hà Tây và Hoà Bình, chuyển các huyện, thị như: Ba Vì,
thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây từ Hà Nội trở
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lại Hà Tây. Hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình sẽ chính thức làm việc theo đơn vị
hành chính mới từ ngày 01/10/1991.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 30/08/1991, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã ra Quyết định số 126/NH-QĐ quyết định giải thể chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Sơn Bình để thành lập chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
Tóm lại, thành tựu nổi bật của Ngân hàng trong giai đoạn này là sớm
định rõ phương châm “Đi vay để cho vay”, “vừa làm vừa học”, coi nguyên tắc
tập trung dân chủ trong chỉ đạo cũng như trong kinh daonh là khâu then chốt.
Ngân hàng Nông nghiệp Hà Sơn Bình đã vượt qua những khó khăn, bỡ nhỡ
ban đầu, dám nghĩ dám làm để tiến vào kinh doanh thương mại do Ngân hàng
Trung ương, Tinh uỷ và Uỷ ban nhân dân Tỉnh giao cho.
Thời gian hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp Hà Sơn Bình tuy ngắn,
nhưng cũng đủ để rút ra những bài hoạc kinh nghiệm ban đầu là:
- Sự ra đời và hoạt động của Ngân hàng chuyên doanh là đúng nhưng
phải gắn với hành lang pháp lý và cơ chế hoạt động kinh doanh, thông
qua thực tiễn kinh doanh mà bổ sung hoàn chỉnh cơ chế, hoàn chỉnh
về những định mức các loại công việc và quy trình nghiệp vụ tiền tệ –
tín dụng, làm cơ sở cho việc xác lập đội ngũ cán bộ và điều hành quản
lý, góp phần vào điều tiết nền kinh tế thị trường.
- Trong chỉ đạo điều hành, nhất là trong kinh doanh tiền tệ tín dụng
phải tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững nguyên tắc Kế

toán – Tài chính, chính sách lãi suất phải thích hợp với điều kiện kinh
tế trong từng thời kỳ.
I.2. Các năm 1991 - 1996
Năm 1992 là năm đầu tỉnh Hà Tây được tái lập, năm khởi đầu Ngân hàng
Nông nghiệp tỉnh thực sự tiến vào kinh doanh theo cơ chế lãi suất dương. Ngay
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từ đầu năm, mọi hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh đã bám
sát vào sự chỉ đạo của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, đi sâu đỏi mới cả về tổ chức, bộ máy và
công tác chuyên môn.
Trong việc củng cố tổ chức, năm 1992, Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam điều đồng chí Phạm Trác, Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hoà
Bình về làm Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Tây; điều đồng chí
Đặng Văn Đính về Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam công tác. Ban giám đốc
Ngân hàng củng cố lại tổ chức ở các phòng nghiệp vụ. Đồng chí Đỗ Việt Hưng
làm Trưởng phòng Tổ chức và đào tạo. Đồng chí Nguyễn Trịnh Thân là Trưởng
phòng tín dụng. Đồng chí Nguyễn Hồng Dương là Trưởng phòng hành chính.
Đồng chí Đặng Tiến Ninh là Trưởng phòng ngân quỹ. Đồng chí Nguyễn Ngọc
Thanh là Trưởng phòng vốn. Từ tháng 08/1992 đồng chí Phạm Văn Vũ là
Trưởng phòng kinh tế kế hoạch. Đồng chí Nguyễn Văn Thông là Trưởng phòng
Kiểm soát. Ban giám đốc Ngân hàng chỉ đạo tổ chức Công đoàn toàn chi nhánh
tiến hành đại hội (ngày 30/03/1992) bầu Ban chấp hành chính thức, do đồng chí
Trần Văn Lợi làm Chủ tịch, đồng chí Phạm Văn Tiến là Phó chủ tịch.
Trong việc đi vay để cho vay, rút kinh nghiệm những năm trước, sự chỉ
đạo của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh đã bám sát vào thực tiễn và có
nhiều đổi mới về phương thức hoạt động. Ngay trong những tháng đầu
năm1992, Ban giám đốc Ngân hàng đã triển khai một số biện pháp chỉ đạo sát
hợp với tình hình để vươn tới cơ chế lãi suất dương.
Về huy động vốn, Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh đã quán triệt bình diện

toàn cục không bó hẹp ở một địa phương. Bên cạnh các hình thức huy động vốn
truyền thống như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi các tổ chức kinh tế, để giảm bớt
khoảng cách giữa tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, đầu năm 1992, Ban giám
đốc triển khai hình thức huy động vốn theo kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích,
25

×