Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Báo cáo địa lí kinh tế tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.6 KB, 25 trang )


**Đại học tài nguyên và môi trường Hà Nội**
 Khoa Quản lí đất đai 

Môn:
Địa lí kinh tế Việt Nam
Sinh viên thực hiện: Đỗ Hồng Thắm
Mã SV:
DC00100835
Lớp:
ĐH1QĐ3



Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, nằm
trong vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của vùng tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội
- Hải Phòng - Quảng Ninh. Đất đai Thái Bình phì nhiêu màu mỡ, nổi tiếng là “bờ xôi
ruộng mật” do được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình với tổng diện
tích tự nhiên 156.650ha, trong đó diện tích cây hàng năm có 92.057ha. Thái Bình
có 7 huyện, 1 thành phố với 286 xã phường. Số dân nông thôn chiếm 94,2%, nguồn
lao động trong khu vực nông lâm nghiệp chiếm 74,3%. Thành phố Thái Bình là tỉnh
lỵ tỉnh Thái Bình miền bắc Việt Nam. Thành phố còn là trung tâm kinh tế, văn hoá,
xã hội, khoa học, quốc phòng... của tỉnh và cũng là 1 trong 6 đô thị của vùng duyên
hải Bắc Bộ. Nằm cách thủ đô Hà Nội 110km, đồng thời là đầu mối giao thông của
tỉnh; thuận lợi giao lưu với các tỉnh, thành phố vùng như Hải Phòng, Nam
Định đồng bằng sông Hồng qua quốc lộ 10.

Bản đồ hành chính tỉnh Thái Bình

I - Vị trí địa lý
Thái Bình là tỉnh ven biển, thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, nằm trong


vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh.
Phía Bắc giáp với tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng; phía Tây và Tây Nam giáp
với tỉnh Nam Định, Hà Nam; phía Đông giáp với vịnh Bắc Bộ.
Diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 1.546,54 km2. Toàn tỉnh gồm có 7 huyện và


01 Thành phố thuộc tỉnh với tổng số 284 xã, phường, thị trấn.

Khí hậu Thái Bình mang tính chất cơ bản là nhiệt đới ẩm gió
mùa. Thái Bình có nhiệt độ trung bình 23º-24ºC, tổng nhiệt độ
hoạt động trong năm đạt 8400-8500ºC, số giờ nắng từ 16001800h, tổng lượng mưa trong năm 1700-2200mm, độ ẩm
không khí từ 80-90%. Gió mùa mang đến Thái Bình một mùa
đông lạnh mưa ít, một mùa hạ nóng mưa nhiều và hai thời kỳ
chuyển tiếp ngắn.
Là tỉnh đồng bằng nằm sát biển, khí hậu Thái Bình được
điều hòa bởi hơi ẩm từ vịnh Bắc Bộ tràn vào. Gió mùa đông
bắc qua vịnh Bắc Bộ tràn vào. Gió mùa đông bắc qua vịnh Bắc
Bộ vào Thái Bình làm tăng độ ẩm so với những nơi khác nằm
xa biển. Vùng áp thấp trên đồng bằng Bắc Bộ về mùa hè hút
gió biển bào làm bớt tính khô nóng ở Thái Bình. Sự điều hòa
của biển làm cho biên độ nhiệt tuyệt đối ở Thái Bình thấp hơn
ở Hà Nội 5ºC.
Ngay trong phạm vi tỉnh, sự điều hòa nhiệt ẩm ở vùng
ven biển Thái Thụy, Tiền Hải rõ rệt hơn những vùng xa biển.
Biên độ nhiệt trung bình trong năm ở Diêm Điền là 12,8ºC,
còn ở thành phố Thái Bình là 13,1ºC. Tuy nhiên do diện tích
nhỏ, gọn và địa hình tương đối bằng phẳng nên sự phân hóa
theo lãnh thổ tỉnh không rõ rệt.
II - Đặc điểm về địa hình.
2.1. Đặc điểm về địa hình

Nền địa hình Thái Bình là đồng
bằng được hình thành cách đây không lâu. Đường bờ biển hiện nay chỉ mới được
bồi đắp trong vòng 100-200 năm trở lại đây.
Thái Bình có địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc trung bình nhỏ hơn 1%;
cao trình biến thiên phổ biến từ 1m-1,5m so với mặt nước biển, thấp dần từ Bắc
xuống Đông Nam; từ Tây sang Đông dài 54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km.
Tỉnh Thái Bình nằm trong đồng bằng Bắc bộ, có đặc điểm chung của đồng
bằng châu thổ, đồng thời có những nét riêng. Nhìn chung đất Thái Bình được bồi
đắp từ phù sa của các dòng sông lớn: Sông Hồng, sông Trà Lý, sông Hóa. Trong đó
vai trò bồi đắp phù sa của hệ thống sông Hồng là chủ yếu. Quá trình bồi tụ diễn ra


liên tục và từ từ, trải qua thời gian dài (hàng nghìn năm), kết hợp với gió bão, sóng
biển, diễn biến thủy triều của biển Đông, nên ở đây địa hình thấp, bằng phẳng. Song
hành với thời gian diễn ra sự bồi tụ của tự nhiên còn phải kể đến trí tuệ và sức lao
động của con người sống trên mảnh đất này. Họ đã chống chọi với thiên nhiên (bão
tố, ngập lụt, hạn hán…), cải tạo đất đai, san gò, lấp trũng để có được những cánh
đồng thẳng cánh cò bay và quanh năm tươi tốt như ngày hôm nay. Thái Bình trở
thành một trọng điểm lúa nước nằm trong vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ và
cảnước.

Một góc cánh đồng lúa Thái Bình
Thái Bình nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ trừ một phần nhỏ nằm về phía
đông bắc (phía đông huyện Quỳnh Phụ, phía Bắc huyện Thái Thụy) chịu ảnh hưởng
của cả hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Phần còn lại chịu ảnh hưởng của hệ
thống Sông Hồng, tức là đất phù sa bồi tụ hầu như toàn bộ diện tích toàn tỉnh đều
do hệ thống sông Hồng đưa từ thượng nguồn về, kết hợp với phù sa sông Thái Bình
bồi đắp tạo thành dải đất bằng phẳng, màu mỡ.
Phần đất phía đông, gồm huyện Tiền Hải, Thái Thụy và một phần phía đông
nam huyện Kiến Xương có thể coi là diện tích đất mới được bồi tụ, lắng đọng, phần

còn lại nằm sâu trong đất liền phù sa được bồi đắp lâu ngày.
Thái Bình có khoảng 50km bờ biển, đây là nguồn lợi đánh bắt, nuôi trồng
thủy hải sản và giao lưu buôn bán theo đường bờ biển, song đây cũng là mối hiểm
họa của tự nhiên luôn thường trực đe dọa tính mạng, tài sản của cộng đồng dân cư
(bão, thủy triều dâng cao, lốc xoáy…). Tác động bất lợi của tự nhiên gây ra ngập lụt,
vỡ đê, nước mặn xâm nhập vào sâu đất liền gây thiệt hại của tự nhiên, người dân
Thái Bình đã biết huy động trí tuệ, sức lực của mình đắp đê sông, đê biển; Cải tạo
đồng ruộng, san ghềnh, lấp trũng, đào các hệ thống kênh mương chống úng ngập,
tưới tiêu, dùng các biện pháp thủy lợi để thau chua, rửa mặn, biến các vùng đất
mới được bồi đắp thành đồng ruộng tốt tươi, làng xóm trù mật.


Diên tích đất tự nhiên của tỉnh Thái Bình là 1.546km2, vào loại nhỏ so với
các tỉnh trong toàn quốc, nhưng đã trở thành địa bàn sản xuất lúa gạo quan trọng
của đất nước.

2.2. Cấu trúc địa chất
Theo tài liệu mới nhất năm 2003 của Viện Địa lý(Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam) thì đất Thái Bình có nền móng cứng của khu vực nằm sâu dưới
4000-6000 m, được phủ bởi các lớp trầm tích. Trên cùng là trầm tích phù sa hiện
đại đang hình thành lớp phủ thổ nhưỡng dày 1-2m, màu đỏ mịn, luôn luôn bị biến
đổi do được bồi đắp. Tuy quá trình đó bị chậm lại do hệ thống sông đê, làm tăng độ
cao của lòng sông, nhưng lại thúc đẩy quá trình tiến ra biển nhanh hơn. Những
vùng trũng ở độ sâu 1-2m hay gặp xác thực vật. Đới ven biển được phủ bởi trầm
tích Đệ Tứ dày tới 20m, chia làm 3 tầng:




Tầng cuộn, sỏi, cát khô, xen xét sâu 100 đến 150-190m.

Tầng cát mịn dưới dày từ 40-60m đến 100m.
Tầng trên dày trên 40-60m.

Quá trình hình thành và phát triển của châu thổ là sự tổng hòa của các yếu tố
sông – biển. Xen kẽ các dải phù sa là các cồn cát có dạng hình nan quạt hay cánh
cung cong ra biển. Các vùng này bị lấp bằng do tác động của nước và gió.

2.3. Các kiểu địa hình
Về tổng thể, Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, không có đồi núi, bao gồm các
cánh đồng bằng phẳng, xen kẽ các khu dân cư, mạng lưới sông ngòi chằng chịt, độ
cao trung bình của tỉnh không quá 3m so với mực nước biển. Các độ cao trên 3m
được thiết lập là do con người tạo nên bởi việc đắp đê ngăn nước của các con sông
lớn như: sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý, sông Hóa, sông Thái Bình, đê ngăn
nước biển và một số cồn cát sát biển Đông. Phần nội đồng có diện tích lớn tương
đối bằng phẳng. Độ cao của các vùng trong tỉnh cũng có sự chênh lệch tuy không
lớn, song nó quyết định việc trồng cấy, việc xây dựng công trình, đường sá, nhà cửa
và các công trình dân dụng khác. Trong lĩnh vực thủy lợi, dựa vào sự chênh lệch về
độ cao của các vùng để tính toán xây dựng các công trình tưới tiêu hợp lý và khoa
học. Cùng với chất đất, độ cao của từng vùng cũng quyết định đến hướng canh tác
của từng đối tượng cây trồng (cây lúa nước hay trồng màu).


Thu hoạch lúa

Nhìn vào bản đồ địa hình của tỉnh Thái Bình, nếu các đường đồng mức với
độ chênh 1m, ta thấy chỉ có khoảng 4 đường cong. Nhìn bao quát trên bản đồ thì
đất Thái Bình dốc từ tây bắc xuống đông nam. Cụ thể là vùng phía bắc huyện Hưng
Hà, Quỳnh Phụ, phía tây huyện Vũ Thư có địa hình tương đối cao. Vùng phía nam
huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Đông Hưng và và một phần huyện Thái Thụy có độ cao
thấp hơn. Vùng ven biển lại có địa hình cao hơn so với vùng giữa, vùng này bao gồm

phía đông nam huyện Thái Thụy, các xã ven biển của huyện Tiền Hải.
Sông Trà Lý chạy dài từ tây bắc xuống đông nam chia Thái Bình thành hai
khu:
Khu bắc Thái Bình, gồm các huyện Đông Hưng, Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Thái
Thụy: Có địa hình cao ven sông Hồng, sông Luộc, thấp dần về phía đông nam rồi
lại cao dần lên ở dải đất ven biển (từ cửa sông Trà Lý đến cửa sông Thái Bình
và một dải đất cao phía nam sông Hóa.
• Khu Nam Thái Bình, gồm phần lớn thành phố Thái Bình; Các huyện Vũ Thư,
Kiến Xương, Tiền Hải: có đặc điểm địa hình cao ở phía tây bắc, nơi ngã ba sông
Hồng và sông Trà Lý rồi dốc dần về phía đông nam. Thấp nhất là đoạn giữa và
cao dần lên ở đoạn cuối ven biển.


2.4. Các khu vực địa hình
Có thể chia địa hình Thái Bình thành các khu nhỏ như sau:


Loại hình ven sông là đất sa bồi ven sông nằm ngoài đê. Ở Thái Bình,loại hình
đất này không nhiều, gồm một dải đất hẹp ven sông Hồng thuộc các huyện
Hưng Hà, Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải. Một dải đất hẹp nằm về phía hữu ngạn











sông Luộc thuộc các huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ, nhiều nhất là hai xã Quỳnh
Ngọc, Quỳnh Lâm và một số diện tích hẹp nằm dọc theo sông Hóa thuộc huyện
Quỳnh Phụ và Thái Thụy. Cuối cùng là dải đất hẹp chạy dọc theo sông Trà Lý.
Loại hình ven sông này tương đối cao và bằng phẳng, màu mỡ.
Vùng đất cao nhất nằm ở phía Tây bắc tỉnh, thuộc các huyện Quỳnh Phụ, Hưng
Hà, phía bắc huyện Vũ Thư và một phần huyện Đông Hưng. Vùng đất này có
tầng đất dày, màu mỡ.
Loại hình thấp ven sông Hóa chạy dài từ khuỷu sông Luộc và ven sông Hóa. Còn
một phần huyện Quỳnh Phụ, Thái Thụy, một phần huyện Đông Hưng là vùng
đất thấp, địa hình không bằng phẳng, đất kém màu mỡ.
Loại hình đất thấp nằm ở trung tâm của tỉnh có đất đai bằng phẳng, khá phì
nhiêu nhưng thường hay gặp ngập úng (phía đông nam huyện Vũ Thư, huyện
Kiến Xương, phía bắc huyện Tiền Hải, huyện Đông Hưng)
Địa hình tương đối cao ven biển gọi là vùng tiếp giáp biển, gồm các xã phía
đông, nam huyện Tiền Hải, đông nam huyện Thái Thụy. Đây là vùng đất
cao,chịu tác động trực tiếp của sóng gió biển Đông.

Đáng chú ý là những dải đất cao ven biển có địa hình đặc biệt tạo thành vành
đai ven biển. Đất đai được sóng, gió biển Đông tác động, một số nơi tạo thành cồn
cát cao (tối đa 3-4m). Đặc biệt từ cửa Trà Lý đến cửa Ba Lạt, dải đất cao ven biển
có chỗ rộng vài ba km chúng xen kẽ với đất trũng. Tại một số địa phương thuộc
huyện Thái Thụy có những cồn cát cao dài hàng chục km, rộng 1-2km.

2.5. Sự hình thành vành đai ven biển có thể theo một quá trình như
sau:
Ban đầu phù sa các sông lớn chạy ra biển gặp thủy triều dâng cao, tốc độ
chảy chậm lại, và chuyển hướng dòng chảy (sông Hồng ra cửa Ba Lạt có hướng
chảy tùy theo mùa,lúc sang trái, lúc sang phải chạy men theo bờ biển, kết hợp với
sóng biển phù sa được lắng đọng lâu dần chúng hình thành các bãi, cồn nổi dần lên.
Bình thường các bãi mới hình thành khi thủy triều dâng cao ta không nhìn thấy, khi

thủy triều rút chúng lộ dần ra. Trải qua thời gian dài, các loài thực vật ngập mặn
mọc lên (sú vẹt), các cồn cát phù sa được lắng đọng tạo thành các dải đất rộng lớn
cao dần lên. Dưới sự tác động của con người, phù sa bồi đắp đến đâu, người ta lại
quai đê chắn sóng, ngăn nước, lấn biển tới đó. Trải qua quá trình lao động của con
người: Thau chua, rửa mặn, cải tạo bề mặt của những cồn bãi, đã biến chúng thành
đồng ruộng như hiện nay. Điều đó được chứng minh rất rõ ỏ vùng sâu cách biển 1015km hoặc hơn nữa của huyện Tiền Hải, Thái Thụy chỉ cần đào sâu xuống 1-2m đã
thấy cát đen, lẫn xác động vật thực vật biển (vỏ sò, xác thực vật, vảy mi ca..)
Quá trình hình thành các cồn cát ven biển hiện nay vẫn đang tiếp diễn.


2.6. Các nhân tố tác động đến địa hình
Tác động của khí hậu: Tỉnh Thái Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và
ẩm, nhiệt độ trung bình năm trên 20ºC, lượng mưa trên dưới 1.900mm, độ
ẩm cao trên 85%. Trong điểu kiện khí hậu như vậy, quá trình phong hóa vật
lý và hóa học diễn ra mạnh mẽ, tạo thuận lợi cho các quá trình chuyển hóa
và lắng đọng các vật liệu xói mòn được đưa từ thượng nguồn các sông mang
về, tạo nên các vùng đất đai của Thái Bình.
• Tác động của nước: Một yếu tố quan trọng nữa góp phần tạo nên địa hình
của Thái Bình là sóng, dòng chảy của biển Đông.Sóng và dòng chảy của biển
có tác dụng đưa phù sa vào gần bờ và lắng đọng thành các cồn, bãi, chỗ cao,
chỗ thấp khác nhau; Trải qua thời gian dài, chúng được bồi đắp cao dần lên
tạo ra địa hình ven biển có hình nan quạt hướng ra biển.
• Tác động của sinh vật: Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong việc chắn
sóng, cố định phù sa, giúp cho quá trình bồi tụ diễn ra nhanh chóng.
• Hoạt động của con người: Đây là yếu tố quan trọng nhất làm thay đổi địa
hình qua từng thời kỳ lịch sử đất Thái Bình. Bàn tay lao động của con người
đã làm thay đổi địa hình ban đầu, tạo ra địa hình như ngày nay thông qua
việc đào sông ngòi, kênh mương, đắp đường sá, đê điều và lập ra các khu dân
cư, ruộng vườn.



.III – Đặc điểm về thủy văn

Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng
nhiệt đới gió mùa, nên hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.700-2.200mm),
lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước
khi chạy ra biển
3.1. Sông ngòi
Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên hàng năm đón nhận
một lượng mưa lớn (1.700-2.200mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn,
đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển. Mặt khác, do quá trình sản
xuất nông nghiệp, trải qua nhiều thế hệ,người ta đã tạo ra hệ thống sông ngòi dày
đặc. Tổng chiều dài các con sông, ngòi của Thái Bình lên tới 8492km, mật độ bình
quân từ 5-6km/km2. Hướng dòng chảy của các con sông đa số theo hướng tây bắc
xuống đông nam. Phía bắc, đông bắc Thái Bình còn chịu ảnh hưởng của sông Thái
Bình.


Sông Hồng
Hệ thống sông ngoài đê:
Thái Bình được bao bọc và chia cắt bởi các con sông chính sau:
Phía tây, tây nam và phía nam (đoạn ngã ba sông Luộc đến cửa Ba Lạt) có
sông Hồng chảy uốn khúc, quanh co, là nguồn cung cấp nước và phù sa chính cho
Thái Bình.
Phía tây bắc là sông Luộc (một chỉ lưu của sông Hồng), đây là sông cung cấp
nước cho các huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà.
Phía đông bắc là sông Hóa chảy ra cửa sông Thái Bình
Sông Trà Lý (một chỉ lưu của sông Hồng) bắt nguồn từ sông Hồng chảy ra
biển, chia đôi Thái Bình thành hai khu: Khu bắc và khu nam
Sông Diêm Hộ, chảy qua một phần huyện Đông Hưng và chia đôi huyện Thái

Thụy (phần Thụy Anh, phần Thái Ninh cũ) và chảy ra biển thông qua cống Trà Linh
Có thể nói Thái Bình như một vùng đất "cù lao" ba bề là song, một bề là biển.
• Hệ thống sông trong đê:
Ngoài hệ thống sông ngoài đê. Thái Bình còn có hệ thống sông ngòi trong đê
chằng chịt chủ yếu phục vụ tưới tiêu cho đồng ruộng và sinh hoạt của người dân.
Sau đây là một số sông nội bộ của tỉnh:
Khu vực bắc Thái Bình:
Sông Tiên Hưng: Vốn là con sông tự nhiên chạy uốn quanh các huyện Hưng
Hà và Đông Hưng. Sông dài 51km, rộng 50-100m, tưới tiêu cho các vùng đất ven
sông và là đường giao thông thủy quan trọng của vùng này.
Sông Sa Lung: Sông đào, khởi công từ năm 1896 đến năm 1900 thì, dài
khoảng 40km, chảy qua các phủ huyện Hưng Nhân, Duyên Hà (nay là Hưng Hà)
Tiên Hưng, Đông Quan (nay là huyện Đông Hưng), Thái Ninh nay là huyện Thái
Thụy.
Sông Quỳnh Côi: Còn gọi là sông Yên Lộng hay sông Bến Hiệp. Đây là con sông
đào xuyên qua một phần huyện Quỳnh Phụ, xuôi xuống Đông Hưng, có chiều dài
khoảng 15 km, bắt đầu từ cống Bến Hiệp nối với sông Tiên Hưng ở xã Liên Giang.
Sông Đại Nẫm: Cũng là con sông chạy qua huyện Quỳnh Phụ, dài 16km, bắt
nguồn từ cống Đại Nẫm nối với Diêm Hộ.
Sông Diêm Hộ: Là con sông tiêu nước quan trọng nhất trong hệ thống thủy
nông ở khu vực bắc Thái Bình. Hầu hết các con sông nội đồng trong khu vực đều đổ
ra sông Diêm Hộ. Khi chưa có cống Trà Linh, sông Diêm Hộ trở thành con sông
trong đê với chức năng chính là tiêu úng cho các huyện phía bắc Thái Bình.



Sông Thuyền Quan: Là con sông đào, nối với sông Tiên Hưng ở ranh giới xã
Đông Giang - Đông Kính, với sông Sa Lung ở xã Đông Vinh, với sông Trà Lý ở ranh
giới xã Đông Lĩnh (Đông Hưng) - Thái Hà (Thái Thụy) dài 9km.
Sông Hệ: Nối sông Hóa với sông Diêm Hộ, dài 12km, chạy qua mấy xã thuộc

Quỳnh Phụ, Thái Bình.
* Khu vực nam Thái Bình
Sông Cự Lâm: Chảy từ sông Trà Lý ở xã Xuân Hòa qua các xã Hiệp Hòa, Song
Lãng, Minh Lãng, Minh Quang, nối với sông Vĩnh Trà ở Thị trấn Vũ Thư, huyện Vũ
Thư. Đoạn sông này dài 14km.
Sông Búng: Chảy qua các xã Hiệp Hòa, Việt Hùng, Dũng Nghĩa, Tân Lập, nối
sông Trà Lý với sông Hồng, dài khoảng 13km.
Sông Bạch: Chảy từ cống Nạng (sông Trà Lý) ở ranh giới xã Tân hòa, Phúc
Thành uốn lượn qua Tân Phong, Tân Bình (Vũ Thư), phường Tiền Phong, xã Phú
Xuân, nối với sông Vĩnh Trà ở phường Phú Khánh Thành phố Thái Bình.
Sông Kiến Giang: Là con sông đào gồm nhiều đoạn khác nhau. Dòng chính nối
từ sông Vĩnh Trà ở Thành phố Thái Bình, qua một số xã ở huyện Vũ Thư rồi chảy
qua huyện Kiến Xương, Tiền Hải, đổ vào Sông Lân, dài 30km. Đây là con sông quan
trọng cho việc tưới tiêu đồng ruộng phía nam Thái Bình và là đường vận tải thủy
quan trọng trong khu vực. Có thể nói, nó là xương sống của hệ thống thủy lợi khu
nam Thái Bình. Nó có hệ thống sông ngòi, mương máng nối với sông Hồng,
sông Trà Lý thông qua các cống. Hầu hết các con sông khác trong khu vực đều có
mối liên hệ với sông Kiến Giang, như sông Nguyệt lâm, Dực Dương... Sông Kiến
Giang là con sông tương đối đẹp, một nơi có đôi bờ là điểm quần tụ dân cư đông
đúc, trù phú, làng mạc xanh tươi.
Sông Nguyệt Lâm: Là sông đào đi từ cống Nguyệt Lâm, lấy nước từ sông Hồng
(xã Vũ Bình, huyện Vũ Thư), nối với sông Kiến Giang ở xã Hòa Bình, huyện Kiến
Xương chiều dài 13km.
Sông Dực Dương: Cũng là sông đào đi từ cống Dực Dương, lấy nước sông Trà
Lý, tại vị trí xã Trà Giang, nối sông Kiến Giang ở xã Bình Minh huyện Kiến Xương dài
13km.
Sông Hương: Nối sông Hồng với sông Kiến Giang, từ xã Bình Thanh huyện
Kiến Xương đến đến xã Phương Công huyện Tiền Hải.
Sông Lân: Trước kia là một nhánh của sông Hồng đổ ra biển. Hiện nay nó trở
thành con sông trong đê, chạy từ ranh giới xã Hồng Tiến (huyện Kiến Xương) - Nam

Hải (Tiền Hải) chảy ròng ra biển. Từ ngày đắp đê, xây dựng cống Lân, nó trở thành
con sông nội đồng. Con sông này tưới tiêu nước cho huyện Kiến Xương và Tiền Hải.
Cống Lân làm nhiệm vụ ngăn nước mặn và tiêu nước mỗi khi ngập úng nội đồng,
đồng thời điều tiết tưới tiêu cho khu vực nam Thái Bình.
Sông Long Hầu: Nối sông Trà Lý với sông Kiến Giang từ xã Đông Quý đến xã
Đông Lâm (Tiền Hải).
Quá trình hình thành các con sông lớn nhỏ của Thái Bình là sự kết hợp giữa
sự phát triển tự nhiên và nhu cầu hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Các
con sông tự nhiên được hình thành do quá trình vận động của các dòng chảy, bắt
đầu từ thượng nguồn, về phía hạ lưu hướng dòng chảy luôn thay đổi do sông uốn


khúc nhiều. Sông Hồng trước đây thường hay thay đổi dòng chảy. Từ khi hình
thành hệ thống đê điều, dòng chảy của sông Hồng ổn định gần như diện mạo hôm
nay. Hệ thống sông trong đê là kết quả quá trình chinh phục của con người, nhằm
hạn chế tác hại của thiên tai, tận dụng các điều kiện tự nhiên để tưới tiêu trong
nông nghiệp. Trải qua nhiều thập niên, người nông dân Thái Bình liên tục cải tạo,
khơi sâu, nắn dòng các con sông nội đồng với mục đích tưới tiêu thuận lợi và một
phần phục vu vận tải đường thủy.

3.2. Ao, hồ, đầm

Trên địa bàn Thái Bình không có các hồ, đầm lớn, chủ yếu là các ao nhỏ, nằm
xen kẽ với làng xóm hoặc ven đê, ven biển do lấy đất đắp đê hoặc do vỡ đê tạo thành
các điểm trũng tích nước. Các ao hồ nhỏ nằm rải rác, xen kẽ các khu dân cư là kết
quả của quá trình tạo lập đất ở. Xưa kia, đất được bồi đắp không bằng phẳng, chỗ
cao chỗ thấp, người ta đào ao lấy đất đăp nền nhà, tạo thành vườn tược, và tận
dụng nguồn nước từ ao hồ quanh nhà để lấy nước sinh hoạt. Vì vậy phần lớn làng
xóm, cư dân của Thái Bình (nhà cửa, ruộng vườn) đều gần với ao đầm. Tổng diện
tích ao hồ gần 6.575ha, chiếm 4,25% đất đai của tỉnh. Các ao hồ của Thái Bình

thường có diện tích không lớn (khoảng 200-300m2). Những năm gần đây, diện tích
một số ao hồ được cải tạo, có xu hướng tập trung thành quy mô trang trại để nuôi
tôm cá theo quy trình bán công nghiệp. Bước đầu một số ao hồ nuôi tôm cá đã đem
lại hiệu quả kinh tế cao, nhất là các vùng nuôi tôm ở các ao đầm ven biển (tôm sú,
tôm rảo..)

3.3. Biển
Biển Thái Bình nằm trong vùng biển vịnh Bắc Bộ, là một phần của Biển Đông.
Biển Đông là một biển lớn thông với Thái Bình Dương qua các eo biển rộng.
Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây bắc biển Đông, thực ra là phần lục địa bị chìm
dưới nước biển do đó biển nông, nơi sâu nhất không quá 200m.

3.4. Nước ngầm
Thái Bình là bộ phận của tam giác châu thổ sông Hồng, thuộc trầm tích bờ rời
Đệ Tứ có nguồn gốc song - biển hỗn hợp. Xét về mặt tổng thể thì trầm tích này có
khả năng chứa nước rất lớn, mực nước ngầm nông, dễ khai thác.
Theo tài liệu nghiên cứu về địa chất và thủy văn, vùng này có sự phân đới thủy
địa hóa theo phương nằm ngang và phương thẳng đứng như sau:
• Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang: lấy sông Trà Lý chảy qua giữa
tỉnh làm ranh giới: Phía bắc sông Trà Lý gồm các huyện Hưng Hà, Đông
Hưng, Quỳnh Phụ và một số xã thuộc huyện Thái Thụy gần khu vực sông
Hóa, nằm trong đới nước ngọt có tổng độ khoáng hóa dao động từ 300500mg/l. Các tầng chứa nước ngọt rất tốt. Phía nam sông Trà Lý bao gồm
các huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải, phần lớn huyện Thái Thụy và Thành
phố Thái Bình nằm trong đới nước mặn. Các lỗ khoan cho thấy, nước khoan
lên có tổng độ khoáng hóa dao động trong khoảng 600-2.500mg/l, nước
thuộc loại Clorua Natri. Do bị nhiễm mặn nên không đạt tiêu chuẩn dùng cho
nước sinh hoạt.
• Phân đới thủy hóa theo phương thẳng đứng: từ mặt đất đến độ sâu 140m
bao gồm các tầng cách nước và chứa nước sau:
+ Tầng chứa nước nghèo thuộc hệ tầng Thái Bình



+ Tầng cách nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II
+ Tầng chứa ít nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II
+ Tầng cách nước thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc I
+ Tầng chứa nước lỗ hổng thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc II
+ Tầng chứa nước trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ Hà Nội

IV – Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
4.1. Tài nguyên đất:
Tổng diện tích tự nhiên 1.546km2, chiếm khoảng 0,5% diện tích của cả nước.
Trong đó, diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 107.500ha và diện tích đất sản xuất
kinh doanh phi nông nghiệp trên 45.851ha.
Đất đai Thái Bình được hình thành về cơ bản là do sự bồi đắp phù sa của hệ
thống sông lớn: Sông Hồng, sông Trà Lý (1 chỉ lưu của sông Hồng), sông Luộc (cũng
là một chi nhánh của sông Hồng), sông Thái Bình.
Sự bồi tụ được tiến hành từ từ trong thời gian dài, tạo ra một châu thổ khá
bằng phẳng, độ cao trên dưới 2m so với mực nước biển. Đất là tổng hợp các yếu tố
tự nhiên: Địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, các loài sinh vật (thực vật) và có sự
tác động tích cực của con người. Đất Thái Bình được thành tạo từ các trầm tích
phù sa cổ, phù sa mới và xác các loài thực vật trôi dạt từ thượng nguồn về, cây cối
mọc lên hình thành sự trao đổi chất hai chiều giữa cây và đất. Đất cung cấp cho cây
nguồn dinh dưỡng khoáng, cây sau một thời gian sinh trưởng, chu kỳ sống thì trả
lại cho đất xác của chúng, làm cho đất ngày càng màu mỡ.
Khí hậu nhiệt đới ẩm, làm cho quá trình phong hóa trong lưu vực diễn ra
mạnh. Mưa tập trung theo mùa mang theo khối lượng phù sa lớn từ thượng nguồn
về bồi tụ cho đồng bằng Thái Bình. Sự nóng, ẩm, mưa nhiều, mực nước ngầm cao
làm cho quá trình phân hủy chất hữu cơ mạnh, tạo thêm độ phì cho đất.
Bàn tay và sức lao động sáng tạo của con người đã cải tạo đất bằng nhiều
biện pháp khác nhau: (Thủy lợi, chọn đối tượng trồng trọt phù hợp với từng loại

đất) thâm canh.. làm cho tính chất hóa lý của đất được cải thiện, dẫn đến mùa
màng bội thu.
Trong qua trình bồi tụ, tuy nói là địa hình Thái Bình bằng phẳng, song thực
vật phù sa bồi tụ tạo nên địa hình chỗ cao, chỗ thấp khác nhau, sự chênh lệch độ cao
của các vùng không lớn. Các vùng có độ cao từ 0,3m hoặc thấp hơn đã hình thành
các vùng ngập nước quanh năm, những vùng này đất bị yếm khí. Các khoáng chất
có trong đất: Fe, Mg bị khử ôxy, tan và chảy theo dòng nước rồi tụ lại thành tầng
gley trong đất. Diện tích này chiếm tỷ lệ không nhiều.


Vùng đất ven biển chịu tác động của thủy triều, nước mặn thường thâm
nhập vào đất liền thông qua các cửa sông, cửa cống tiêu nước, làm cho đất bị
nhiễm mặn. Vùng này bao gồm các xã ven biển của hai huyện Thái Thụy và Tiền
Hải. Nếu đào sâu xuống khoảng 1-3m, thường gặp nước hơi mặn (nước lợ).
Hiện trạng sử dụng đất:
Sản phẩm chính của Thái Bình là lúa gạo, hoa màu, thủy hải sản... Vì vậy đất
là tài nguyên quý giá của tỉnh và là nguồn sinh sống của người nông dân. Là một
tỉnh đã tận dụng mọi diện tích đất bình quân đầu người thấp (đất chật, người
đông), vì thế nông dân Thái Bình đã tận dụng mọi diện tích đất đai hiện có thể phục
vụ việc canh tác tạo ra sản phẩm nhằm duy trì và nâng cao đời sống.
Theo số liệu của Cục Thống kê năm 2000, diện tích đất tự nhiên Thái Bình là
154,224%ha, đất nông nghiệp là 96,567ha chiếm 62,6% diện tích đất tự nhiên của
tỉnh. Dân số 1.801.000 người bình quân gần 12 người sống trên 1ha canh tác.
Diện tích đất tự nhiên của Thái Bình có tăng, song diện tích canh tác có xu
hướng giảm,. Thay vào đó là việc tăng hệ số sử dụng đất nông nghiệp, toàn bộ đất
nông nghiệp được canh tác 2-3 vụ/năm, không còn diện tích chỉ cấy 1 vụ như thời
Pháp thuộc (1890).
Phân theo thành phần quản lý và sử dụng:
- Các hộ gia đình, cá nhân: 67,47% diện tích đất tự nhiên, trong đó có 88,22% quỹ
đất nông nghiệp của tỉnh.

- Các tổ chức kinh tế: 0.58%
- UBND xã: 31,17% tổng diện tích toàn tỉnh.
Đất nông nghiệp của tỉnh tuy chỉ có 96,567ha, bình quân trên đầu người
thấp, nhưng do có nhiều kinh nghiệm sản xuất và áp dụng khoa học - kỹ thuật tiên
tiến trong nông nghiệp nên sản lượng lương thực ngày một tăng: Năm 1976 đạt 6
tấn/ha, năm 1985 đạt 7 tấn/ha, năm 1989 đạt 8 tấn/ha
Diện tích trồng màu có 6.398ha, nhưng trồng xen canh, tăng vụ ngày càng
nhiều, tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong tỉnh và các tỉnh
lân cận.
Phần diện tích bố trí trồng các cây công nghiệp ngắn ngày (đay, mía, cói, dâu
tằm, thuốc lào, thuốc lá, cây tinh dầu và dược liệu... cũng có xu hướng tăng.
• Bên cạnh cây lúa, hoa màu, cây công nghiệp còn có những cây ăn quả như
cam, quýt vải chanh nhãn, táo... được trồng nhỏ lẻ trong vườn hộ gia đình.



Đất lâm nghiệp toàn tỉnh chỉ có 2.560ha ở ven biển Thái Thụy, Tiền Hải.
Rừng trên diện tích này không nhiều, một vài nơi có sú vẹt dưới bãi triều
hoặc phi lao trên bờ cao. Việc bảo vệ và phát triển rừng trên diện tích này là
nhiệm vụ quan trọng góp phần cố định phù sa, mở rộng diện tích tự nhiên
của tỉnh.
• Tổng diện tích mặt nước ao hồ gần 6.748ha. Ao hồ nằm rải rác, xen kẽ với
các khu dân cư, mỗi ao có diện tích không lớn (khoảng 200-300m2). Những
năm gần đây, người nông dân đã chú ý cải tạo ao hồ theo hướng trang trại
để nuôi tôm cá, bước đầu đã có tín hiệu khả quan.
• Theo điều tra gần đây, việc sử dụng đất canh tác của Thái Bình được phân
bổ như sau:


- Thành phố Thái Bình: 2.424ha

- Huyện Quỳnh Phụ: 13.584ha
- Huyện Hưng Hà: 13.223ha
- Huyện Đông Hưng: 13.831ha
- Huyện Vũ Thư: 12.083ha
- Huyện Kiến Xương: 13.870ha
- Huyện Tiền Hải: 12.746ha
- Huyện Thái Thụy: 15.015ha

4.2. Tài nguyên nước
a) Tài nguyên nước mặt
Tài nguyên nước trong dòng chảy mặt ở Thái Bình rất phong phú. Mật độ sông
ngòi dày đặc chứa và lưu thông một lượng nước mặt khổng lồ. Nguồn cung cấp
hàng tỷ m3 từ các con sông lớn như sông Hồng, sông Trà Lý, sông Thái Bình, cộng
vào đó là lượng nước mưa nhận được hàng năm cũng rất lớn (hàng tỉ tấn). Đây là
điều kiện thuận lợi để cư dân sử dụng tài nguyên nước mặt phục vụ cho sinh hoạt
và sản xuất ở mọi nơi trong tỉnh. Các dòng chảy mặt đã được sử dụng tưới tiêu
cho đồng ruộng thông qua hệ thống thủy lợi: mương, máng tưới tiêu, hệ thống
cống tự chảy...
Trên hệ thống đê sông lớn có rất nhiều cống lấy nước từ các con sông tưới cho
đồng ruộng, nguồn nước lấy từ sông Hồng, sông Trà Lý, sông Thái Bình..., đem lại


nguồn nước tưới cho đồng ruộng về theo đó cung cấp một lượng phù sa đáng kể,
giúp cho đồng ruộng của Thái Bình ngày càng thêm màu mỡ.
Dòng chảy mặt của các con sông nội đồng ngoài tác dụng tưới cho đồng ruộng,
phục vụ sinh hoạt của cư dân, còn mang theo các chất thải ở thể lỏng chảy ra biển
Đông (nước thải sinh hoạt, nước thau chua, rửa mặn đồng ruộng).
Hệ thống dòng chảy mặt, nhất là hệ thống sông ngòi nội đồng chảy quanh co,
ngang dọc trên đất Thái Bình làm thành cảnh quan, tạo ra một khung cảnh sông
nước, đồng ruộng, vườn cây trái, hài hòa, yên bình, thơ mộng.

vậy, những năm gần đây do việc sử dụng nguồn tài nguyên nước mặt ở một số
nơi không hợp lý và khoa học, việc sử dụng nước mặt thiếu ý thức của một bộ phận
dân cư đã dẫn đến việc nguồn nước mặt ở một số nơi bị ô nhiễm, chất lượng nước
ở những nơi này thường kém, không đủ tiêu chuẩn nước sinh hoạt. Vì vậy, cần phải
giáo dục trong cộng đồng ý thức bảo vệ nguồn nước, tài nguyên nước mà thiên
nhiên ban tặng cho con người.
Để bảo vệ tốt tài nguyên nước mặt, ngoài giáo dục cộng đồng ý thức bảo vệ
nguồn nước, cần phải có các biện pháp đồng bộ:
- Quản lý chặt chẽ các nguồn nước thải công nghiệp, nước sinh hoạt (nhất thiết
phải qua xử lý các chất độc hại trước khi đổ ra hệ thống sông ngòi.
- Khơi thông các dòng chảy bằng biện pháp nạo vét các dòng sông nội đồng thường
xuyên. Hạn chế việc lấn chiếm các hệ thống sông ngòi gây cản trở dòng chảy.
- Phối hợp điều tiết dòng chảy thông qua hệ thống tưới tiêu thật nhịp nhàng và
khoa học.
- Rác thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt ở các khu đông dân cư, cần gom xử lý,
không vứt bừa bãi xuống các dòng sông gây ô nhiễm, làm tắc nghẽn dòng chảy.
- Trong sản xuất nông nghiệp, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phải tuân thủ sự chỉ
đạo của cơ quan chuyên môn và phải kiểm tra chặt chẽ, không để thuốc bảo vệ thực
vật làm ô nhiễm nguồn nước mặt.
- Các nguồn nước dùng trong sinh hoạt của cộng đồng cần được xử lý, đảm bảo
nước sạch cho sinh hoạt.

b)Tài nguyên nước ngầm
Như trên đã cho thấy, tài nguyên nước ngầm tầng mặt và tầng sâu của Thái
Bình tương đối phong phú, song đa phần không thể sử dụng ngay được cho sinh
hoạt.


Các tầng chứa nước nông đều có hàm lượng sắt cao, vượt quá tiêu chuẩn
cho phép. Để dùng được phải qua xử lý, khử bớt sắt mới đảm bảo tiêu chuẩn cho

phép. Hầu hết các giếng khoan đã có biểu hiện ô nhiễm các chất hữu cơ do tàn tích
của các loài thực vật, xuất hiện các ion độc hại như NH4, NO2, P04, S...
Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ tầng Hà Nội sâu
80-140m có khả năng chứa nước lớn, có giá trị cung cấp cả về số lượng lẫn chất
lượng cho những trạm xử lý và cung cấp nước trung bình và nhỏ. Do tầng chứa
nước ở dưới sâu nên khả năng gây ô nhiễm nguồn nước trong tầng này được bảo
vệ bởi các tầng chứa nước phía trên. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn khi khai thác
và sử dụng, cần lưu ý biện pháp bảo vệ, khai thác với mức độ hợp lý.
Nước ngầm tầng mặt của Thái Bình, về mùa khô chỉ đào sâu xuống 1-1,5m,
mùa mưa chỉ đào sâu chưa đến 1m. Tuy nhiên, đây chỉ là nước ngầm trên mặt, nếu
đào sâu xuống sẽ gặp nước mặn và chua, độ trong không đảm bảo, không thể dùng
trong sinh hoạt ngay được mà cần phải xử lý. Càng sâu trong đất liền (Quỳnh Phụ,
Hưng Hà) thì mức độ mặn, chua giảm hơn.

4.2. Tài nguyên khoáng sản:
Thái Bình có mỏ khí đốt tại Tiền Hải được khai thác từ năm 1986, sản lượng
mỗi năm hàng chục triệu m3 khí thiên nhiên, phục vụ cho các ngành sản xuất đồ
sành sứ, thuỷ tinh, gạch ốp lát và VLXD khác. Ngoài khơi Vịnh Bắc bộ có trữ lượng
khí đốt ước tính khoảng 40 tỷ m3.


Mỏ nước khoáng Tiền Hải ở độ sâu 450m, trữ lượng tĩnh khoảng 12 triệu
m3, đã khai thác từ năm 1992, sản lượng 9,5 triệu lít/năm, được trong và ngoài
nước biết đến với các nhãn hiệu nước khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải.
Trong lòng đất Thái Bình còn có bể than chất lượng cao, với trữ lượng thăm
dò là rất lớn (210 tỷ tấn) phân bổ ở độ sâu từ 600m đến 1.600m.

4.3. Tài nguyên sinh vật.
a) Thực vật.
Thưc vật trên địa bàn tỉnh Thái Bình, có các kiểu thảm thực vật trong hệ sinh

thái ven bờ như sau:
Thảm thực vật tự nhiên:
- Rừng ngập mặn: Trong số 51 loài thực vật ngập mặn đặc trưng tại Việt Nam thì
tỉnh Thái Bình có 6 loài đặc trưng được mô tả cụ thể như sau:


+ Cây trang:Là loài cây thân gỗ, có chiều cao trung bình từ 2-3m, có mật độ từ
4400-6500 cây/ha.
+ Cây sú: là loài cây thân gỗ, có chiều cao từ 2-2,5m.
+ Cây vẹt
+ Cây bần chua
+ Cây tra
+ Cây ô rô


Tại vùng ven biển Thái Bình hiện nay có 11.750 ha rừng ngập mặn, trong đó
rừng nguyên sinh có hơn 500 ha, rừng bần và 3000 ha rừng sú, vẹt nguyên sinh, còn
lại hơn 7000 ha là rừng trồng.
Các quần xã thực vật tự nhiên:
+ Quần xã rau muống biển + cỏ chuông
+ Quần xã bần + ô rô+ vẹt
+ Quần xã trang + sú + vẹt
+ Quần xã sú + ô rô
+ Quần xã mắm + vẹt + sú
+ Quần xã cỏ ngập mặn thứ sinh
Ngoài các quần xã thực vật trên, dọc bờ biển Thái Bình còn gặp các quần xã dứa
dại,+ sài hồ, chúng chiếm một diện tích rất nhỏ trên các đụn cát cố định gần các khu
dân cư; Các quần xã cỏ may + cỏ gà tồn thành từng đám dày, thân bò rễ chìm, bám
rộng vào bề mặt đất, khả năng tái sinh và xâm nhập mạnh, phân bố dọc theo các
triền đê biển, được sử dụng làm bãi chăn thả tự nhiên cho gia súc.





Thảm thực vật cây trồng và quần xã thủy sinh:

- Quần xã cây trồng trong khu dân cư: Bao gồm các loại cây lâu năm như: Bạch
đàn, xà cừ, bưởi, cam, hồng xiêm..
- Quần xã cây công nghiệp lâu năm: Chủ yếu là các cây dâu tằm, đan lấy sợi, tinh
đầu bạc hà, hương nhu, thanh hao hoa vàng..
- Quần xã lúa nước: Là đối tương canh tác chính của vùng.
- Quần xã cây rau màu: Tương đối phổ biến, bao gồm cây rau màu vụ đông như:
Khoai lang. khoai tây, đỗ, đậu , cà chua...
- Quần xã cói trồng: Quần xã thuần loại, chủ yếu là giống cói trắng, dùng để dệt
chiếu và hàng thủ công mỹ nghệ.
- Quần xã phi lao trồng:


- Quần xã rừng ngập mặn trồng: Quần xã đơn ưu. Loại cây trồng chính là cây trang,
hay còn gọi là cây vẹt đìa.
- Đầm ao nuôi trồng thủy hải sản.
- Quần xã thủy sinh: Bao gồm diện tích ao, hồ, sông ngòi trong nội đồng có rong,
tảo, bèo sen, bèo đồng, bèo cái, bèo tấm.
Các nhóm cây tại Thái Bình:
Thái Bình không có đồi núi nên các nhóm cây tự nhiên rất nghèo nàn chủ yếu
là cây trồng.
- Cây lương thực: Là nhóm cây chủ đạo tại Thái Bình: Gồm lúa nếp, lúa tẻ, ngô,
khoai, vừng, lạc, kê...
- Rau quả
- Cây cho gỗ: Xoan, bạch đàn, xà cừ, mít...

- Tre trúc
- Mây
- Cây dược liệu: Cây hòe, thanh hao hoa vàng, thảo quyết minh, nấm linh chi, ích
mẫu, ngưu tất, hoài sơn...
- Cây tinh dầu và cây dầu béo:
- Cây lấy tinh dầu: Bạc hà, hương nhu, lá lốt...
- Cây để lấy tinh dầu béo: Lạc, vừng...
- Cây cho chất nhuộm:
- Cây cho chất nhuộm màu thực vật: Quả gai, lá cau, lá tre....
- Cây cho chất nhuộm vải: Cây sồi, cây sú, cây vẹt
- Cây cảnh

b) Động vật
Đặc điểm địa lý Thái Bình là ít có quỹ đất cho thực vật tự nhiên phát triển, vì
vậy khó có chỗ trú ẩn cho các loài động vật tự nhiên.
- Các loài thú:Thái Bình rất nghèo các loài thú, chỉ có một vài loài cáo, chồn nhưng
rất hiếm, bởi vì chúng không có chỗ trú ẩn.
- Các loài chim:Tại Thái Bình, các nhà điều tra được 149 loài chim, đặc biệt là tìm ra
được hai khu vực sinh cảnh có tầm quan trọng quốc tế đó là vùng chim Thái Thụy,
Tiền Hải. Hai vùng này được xếp loại 2 và 3 trong tổng số 5 loại của quốc gia và đạt
25,19 điểm/44 điểm. Cả hai vùng này đều nằm ở ven biển có rừng ngập mặn. Cũng
theo kết quả điều tra, ngoài các loài chim phổ biến như chích chòe, rẻ quạt, diều
hâu, cú mèo... thì các vùng sinh cảnh đặc biệt thuộc Thái Thụy, Tiền Hải có hơn một
trăm loài đã được ghi nhận.


- Các loài bò sát:Là vùng đồng bằng ven biển, Thái Bình đất chật người đông nên đã
tạo ra sự nhiễu động vốn không thích hợp để các loài bò sát phát triển. Ngoài các
bò sát như rắn, thằn lằn, ba ba, loài bò sát đáng chú ý nhất là vích có ở các vùng
biển Thái Bình nhưng rất hiếm.

- Các loài cá:
+ Cá biển: Tại vùng biển Thái Bình có 94 loài, 65 giống, 41 họ, chiếm khoảng 10%
tổng số loài trong vịnh Bắc Bộ. Một số loài tương đối nhiều như cá bống trắng (13
loài), họ cá trỏng (7 loài), họ cá đối (6 loài), họ cá bơn (5 loài)
+ Cá nước ngọt: Thái Bình là tỉnh đồng bằng ven biển có mật độ ao, hồ, sông,
mương máng rất lớn lên đến hàng nghìn hecta. Ngoài việc cấp nước, tưới tiêu, đây
còn là nơi có trữ lượng các loại cá nước ngọt rất lớn.
Cá nước ngọt tự nhiên: Các loại như: Cá chép, cá măng, cá rói, cá ngao, cá bò, cá
trê....
- Các loài tôm:
+ Tôm biển: Vùng biển Thái Bình có 18 loài tôm, nhưng quan trọng hơn cả là những
loài: Tôm he, tôm lột, tôm sú, tôm he nhật, tôm nương, tôm rảo, tôm hộp...
+Tôm nước ngọt: Bao gồm: Tôm càng xanh, tôm càng, tôm trứng, tôm rịu..
- Côn trùng: Có hai loại côn trùng có lợi và côn trùng có hại

V - Tiềm năng du lịch
Thái Bình có cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết của miền đồng
bằng ven biển. Khu dự trữ sinh quyển trải dài trên 3 tỉnh là: Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình tạo nên tiềm năng du lịch vô cùng phong phú. Có các khu du lịch nghỉ
dưỡng như: Đồng Châu, Cồn Vành, Cồn Đen. Ngoài ra, còn có nhiều lễ hội truyền
thống và các công trình văn hoá được xếp hạng như: chùa Keo, nhà lưu niệm Bác
Hồ, đền Tiên La, Đồng Bằng, đền thờ vua Trần...


Chùa Keo(tiêu biểu cho kiến trúc thời Lê)

Bãi biển Cồn Vành-huyện Tiền Hải-Thái Bình

III – Một số thành tựu trong những năm gần đây và những thế mạnh,
hạn chế của tỉnh Thái Bình .

Trong năm 2010, mặc dù bùng phát dịch lùn sọc đen, rầy nâu và sâu cuốn lá
hại lúa, thời tiết diễn biến bất thường nhưng sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình vẫn
giành được thắng lợi toàn diện. Năng suất lúa cả hai vụ cao nhất từ trước đến nay
đạt 132,79 tạ/ha. Sản lượng thóc đạt trên 1.1 triệu tấn. Cơ cấu giống lúa, mùa vụ
chuyển biến mạnh. Diện tích lúa xuân muộn, lúa mùa, trà cực sớm và diện tích gieo
trồng cây có giá trị kinh tế cao tăng nhanh. Giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác
đạt 66,65 triệu đồng/ha. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm tăng 51%/năm. Mặc
dù diện tích trồng lúa hàng năm giảm nhưng sản lượng lương thực luôn đạt ổn
định trên 1,1 triệu tấn/năm, đảm bảo an ninh lương thực cho tỉnh và góp phần ổn
định an ninh lương thực quốc gia.
Công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã được các địa phương tích
cực triển khai: Diện tích giống lúa ngắn ngày tăng khá; giống lúa chất lượng cao
chiếm 28%, tăng 15% so với năm 2006. Diện tích cây màu và cây vụ đông được mở
rộng, đạt bình quân 56.470ha/năm, trong đó diện tích vụ đông đạt 32.870ha (riêng
2010, cây vụ đông đạt 39276ha, tăng 40% so với 2006 và tăng 45% diện tích); Đã
chuyển đổi được 8200ha cấy lúa kém hiệu quả sang trồng cây, con có hiệu quả kinh
tế cao hơn.
Trong đó giai đoạn 2006- 2010, tỉnh đã chuyển đổi được 1330ha. Chất lượng
chuyển đổi được nâng lên. Cơ sở hạ tầng vùng chuyển đổi sang chăn nuôi, thủy sản
từng bước được đầu tư xây dựng. Các vùng chuyển đổi đều mang lại hiệu quả kinh
tế cao hơn vùng trồng lúa, bước đầu tạo ra vùng sản xuất hàng hóa làm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ, góp phần giảm nghèo và giải
quyết công ăn việc làm ở nông thôn. Thái Bình đã hoàn thành quy hoạch vùng lúa
chất lượng cao, vùng cây màu và cây vụ đông.
Trong chăn nuôi, Thái Bình thường xuyên có những giải pháp tích cực khống
chế dịch bệnh, đặc biệt là dịch tai xanh xảy ra trên đàn lợn ở một số địa phương. Do


chủ động trong phương án xử lý dịch nên một thời gian ngắn, dịch bệnh đã được
khống chế. Chăn nuôi tiếp tục phát triển trở lại đạt giá trị 1.895 tỷ đồng, tăng 54%

so với năm 2005, tăng bình quân 9,1%/năm. Tỷ trọng chăn nuôi chiếm 36,4% trong
giá trị sản xuất nông nghiệp. Đàn trâu bò đạt gần 70.000 con, đàn lợn 1,13 triệu
con, tăng 1,8%; đàn gia cầm 9,06 triệu con tăng 3,9%...Chăn nuôi trang trại, gia trại
và chăn nuôi gia công quy mô lớn theo công nghiệp hiện đại gắn với công tác vệ
sinh an toàn thực phẩm có xu hướng phát triển tốt. Đến 2010, toàn tỉnh đã có 1.035
trang trại chăn nuôi đạt tiêu chí tăng gấp gần 2 lần năm 2006, trong đó có 12 trang
trại chăn nuôi qui mô trên dưới 2.500 con lợn thịt/ha.
Thủy sản cũng đạt được nhiều kết quả đáng mừng cả về nuôi trồng và khai
thác chế biến. Năm 2010, giá trị sản xuất thủy sản đạt gần 770 tỷ đồng, tăng 49,5%
so với năm 2006. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 11,1%/năm cao hơn so
với bình quân 5 năm trước. Sản lượng thủy sản năm 2010 đạt 114.254 tấn, tăng
36% so với kế hoạch và tăng 59,2% so với năm 1996; Đã hình thành được 16 vùng
nuôi thủy sản tập trung với phương thức bán thâm canh. Năng lực khai thác thủy
sản tăng cả về số lượng tàu thuyền và công suất. Đến nay, tổng số tàu thuyển khai
thác là 1.572 chiếc, tổng công suất 54.635CV, tăng 39,4%. Đội tàu tập trung và đánh
bắt xa bờ được chuyển đổi về số lượng, nâng cao công suất để tập trung khai thác
sản phẩm có giá trị kinh tế và góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven bờ. Chương
trình trồng 5 triệu ha rừng và phong trào trồng cây phân tán nội đồng được triển
khai thực hiện có hiệu quả. Cây phân tán nội đồng đã góp phần quan trọng bảo vệ
các tuyên đê sông, đê biển và môi trường sinh thái. Công tác bảo vệ môi trường,
giám sát, kiểm tra, phòng ngừa ô nhiễm môi trường được tăng cường. Tỉnh đã
hoàn thành kế hoạch hành động đa dạng sinh học đến năm 2020.
Đạt được những thành tựu khá toàn diện về an ninh lương thực, chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chăn nuôi, thủy sản, trồng rừng... là do nhiều yếu tố và
nguyên nhân hợp thành mà công tác quản lý nhà nước chiếm vai trò quan trọng.
Việc xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất, đẩy mạnh ứng
dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp... được coi
trọng và thực hiện tích cực.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, sản xuất nông nghiệp ở Thái
Bình vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Việc chuyển sang sản xuất hàng hóa chưa

mạnh và hiệu quả sản xuất còn thấp; trình độ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp
chưa cao; chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi còn chậm, phát triển vụ đông có
chuyển biến khá nhưng chưa tạo ra vùng sản xuất hàng hóa lớn; kết quả dồn đổi
ruộng đất chưa mạnh; hướng quy hoạch phát triển ổn định cho từng vùng, từng
cây trồng vật nuôi chưa thật rõ và hiệu quả còn thấp. Chăn nuôi tăng trưởng chưa
vững chắc, diễn biến phức tạp của dịch bệnh vẫn còn nguy cơ tiềm ẩn và tái phát
gây thiệt hại cho sản xuất làm giảm tốc độ tăng trưởng chung; các khu chăn nuôi
tập trung hình thành chậm, hiệu quả chưa cao. Sản xuất thủy sản chưa khai thác
hết lợi thế, tiềm năng giá trị xuất khẩu thủy, hải sản đạt thấp. Phương thức nuôi
vẫn chủ yếu là quảng canh cải tiến nên năng suất chất lượng sản phẩm chưa cao....


Từ thực tế và những thành tựu đạt được, thời gian tới, thực hiện Nghị quyết
18 của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết XI của Đảng, Thái Bình đã có những giải pháp
tích cực để phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện, đảm bảo an ninh lương thực
vững chắc, nông thôn mới phát triển.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ 18 nhiệm kỳ
2010- 2015 nêu rõ: “Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu
quả bền vững và xây dựng nông thôn mới. Đưa năng suất lúa bình quân đạt 130 tạ
trở lên/1 ha/ năm, giá trị sản xuất chăn nuôi tăng 8,5%, giá trị sản xuất thủy sản
tăng 9% trở lên/năm; đến năm 2015 diện tích lúa chất lượng cao đạt 40% trở lên,
diện tích vụ đông bằng 50% diện tích canh tác, chăn nuôi chiếm tỷ trọng 46% giá
trị sản xuất nông nghiệp. Tập trung sản xuất nông thôn mới với mục tiêu: sản xuất
phát triển; cuộc sống sung túc; diện mạo sạch sẽ; thôn xã văn minh và quản lý dân
chủ, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao,
hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường... phấn
đấu đến năm 2015 có 20% số xã hoàn thành nông thôn mới”.
Hiện Thái Bình đã triển khai thực hiện mô hình nông thôn mới ở 8 xã điểm
và quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới ở tất cả các xã trong tỉnh: Có 131/235
xã hoàn thành báo cáo quy hoạch chung. Ngân sách tỉnh, huyện, xã và vốn ODA đã

đầu tư 144 tỷ đồng để xây dựng hạ tầng kỹ thuật, nhân dân đóng góp 120,5 tỷ đồng
(ngày công và đất đai) để đầu tư vào xây dựng nông thôn mới./.


×