LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng nghiên cứu này được thực hiện là công trình của bản
thân. Số liệu và kết quả trong nghiên cứu này là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng
và tin cậy. Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào trước
đây.
Hà Nội, tháng 2 năm 2016
Tác giả luận văn
Mục lục
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NSNN
Ngân sách nhà nước
HCSN
Hành chính sự nghiệp
BCTC
Báo cáo tài chính
KBNN
Kho bạc nhà nước
BHYT
Bảo hiểm y tế
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp
KPCĐ
Kinh phí công đoàn
TSCĐ
Tài sản cố định
TK
Tài khoản
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tập trung……………………....23
Sơ đồ 1.2: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán……………………….24
Sơ đồ 1.3: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán vừa tập trung vừa phân tán……25
Sơ đồ 1.4 Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức kế toán Nhật ký chung…...39
Sơ đồ1.5:Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức kế toán Nhật ký – Sổ cái…41
Sơ đồ 1.6: Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ…43
Sơ đồ 1.7:Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức kế toán trên máy vi tính….45
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại Ban Quản lý chỉnh trang đô thị
Hà Nội.............................................................................................................57
Sơ đồ 2.2: Quy trình thu tiền mặt…………………………………..……......61
Sơ đồ 2.3: Quy trình chi tiền mặt……………………………………………62
Sơ đồ 2.4: Quy trình thu tiền gửi ngân hàng, kho bạc……………...………..62
Sơ đồ 2.5: Quy trình chi tiền gửi ngân hàng, kho bạc………………..…...…63
Sơ đồ 2.6: Quy trình chi tiền gửi kho bạc…………………………..….....…64
Sơ đồ 2.7: Mô hình tăng TSCĐ………………………………..………….....65
Sơ đồ 2.8: Mô hình thanh lý, điều chuyển tài sản cố định…………………..66
5
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Kế toán với chức năng thông tin và kiểm tra các hoạt động kinh tế- tài
chính của một tổ chức để phục vụ cho nhu cầu quản lý của các đối tượng bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay – giai
đoạn toàn cầu hoá nền kinh tế, sự cạnh tranh mang tính chất phức tạp, khốc
liệt. Có thể nói, chất lượng và hiệu quả của công tác kế toán ảnh hưởng trực
tiếp đến chất luợng, hiệu quả quản lý, điều hành tổ chức để đạt được các mục
tiêu đã đề ra. Kế toán có thể phát huy đầy đủ các chức năng của mình chỉ khi
công tác kế toán của các đơn vị được tổ chức một cách khoa học, hợp lý và có
một hệ thống kế toán hoàn chỉnh.
Nền kinh tế nước ta những năm gần đây đang trong quá trình hội nhập
ngày càng sâu rộng với nền kinh tế quốc tế và khu vực, trong xu thế đó tất yếu
phải từng bước hoàn thiện hệ thống pháp lý phù hợp với các nước trên thế
giới. Theo đó, hệ thống pháp lý kế toán Việt Nam không ngừng được đổi mới
và phát triển từng bước đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường và
xu hướng mở cửa, hội nhập kinh tế-tiếp cận với các chuẩn mực kế toán quốc
tế. Trên cơ sở hệ thống pháp lý về kế toán của Nhà nước, các đơn vị tiến hành
tổ chức công tác kế toán phù hợp với đặc điểm của đơn vị mình. Tổ chức
công tác kế toán trong các đơn vị là một khâu của công tác tổ chức, quản lý và
điều kiện để thực thi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phục vụ công tác quản
lý; những nội dung tổ chức công tác kế toán là trọng tâm xuyên suốt trong quá
trình xây dựng và vận dụng hệ thống pháp lý về kế toán vào từng đơn vị cụ
thể. Tổ chức công tác kế toán tốt sẽ tạo điều kiện cho đơn vị có cơ hội phát
huy tốt hơn thế mạnh và giảm thiểu tối đa những yếu kém trong quá trình hoạt
động và phát triển của đơn vị.
6
Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội được thành lập nhằm thực hiện
quản lý đầu tư xây dựng theo qui hoạch trong địa bàn Hà Nội, theo dõi kiểm
tra giám sát việc sử dụng và khai thác các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô
thị, được ủy quyền quản lý của Nhà nước một số mặt về đầu tư và xây dựng
trên địa bàn Hà Nội… Trong điều kiện hiện nay, việc quản lý đầu tư xây dựng
tại thành phố Hà Nội khá là phức tạp. Điều này đã đặt ra khó khăn cho Ban
quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội, đòi hỏi Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà
Nội cần phải dần dần từng bước kiện toàn bộ máy tổ chức hoạt động để nhằm
đáp ứng được nhu cầu mới, cải cách thủ tục hành chính, định hướng kiểm soát
thị trường bất động sản và thể hiện được vai trò chỉ đạo khớp nối hệ thống hạ
tầng kỹ thuật và xã hội.
Với tư cách là một bộ phận của hệ thống các công cụ quản lý, kế toán
cũng cần có sự đổi mới và hoàn thiện liên tục cho phù hợp. Chính vì vậy, việc
hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại Ban quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội
là một yêu cầu cấp bách và hết sức cần thiết. Luận văn với đề tài: “Hoàn
thiện tổ chức công tác kế toán tại Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội”
được nghiên cứu với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc giải quyết
các vấn đề nêu trên.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài
Năm 2007, luận văn thạc sĩ - Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, tác
giả Ngô Thị Hồng Hạnh đã nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện tổ chức công tác kế
toán tại các Ban quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản trên địa bàn Hà Nội”. Đề
tài đã nghiên cứu lý luận về tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự
nghiệp, trên cơ sở đó làm rõ thực trạng các nội dung tổ chức công tác kế toán
tại các Ban quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản trên địa bàn Hà Nội như: tổ
chức vận dụng chứng từ, tổ chức hệ thống tài khoản kế toán, tổ chức vận dụng
hệ thống sổ kế toán và tổ chức báo cáo kế toán, từ đó luận văn đưa ra những
7
giải pháp cho việc hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại các Ban quản lý đầu
tư và xây dựng cơ bản trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên, các giải pháp luận văn
đưa ra còn chung chung, chưa mang tính cụ thể, tính sát thực.
Năm 2011, công trình luận văn thạc sỹ trường Đại học Đà Nẵng “Tổ
chức công tác kế toán đầu tư xây dựng cơ bản tại Ban quản lý dự án cầu
Rồng” của tác giả Nguyễn Thị Minh Phương. Trên cơ sở phân tích những lý
luận về kế toán xây dựng cơ bản và tổ chức công tác kế toán đầu tư xây dựng
cơ bản, tác giả đã khái quát được những ưu, nhược điểm của tổ chức công tác
kế toán tại Ban quản lý dự án cầu Rồng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tổ
chức công tác kế toán đầu tư xây dựng cơ bản tại Ban quản lý dự án cầu Rồng
với mục tiêu đảm bảo cho công tác kế toán tại đơn vị đi vào hoạt động một
cách có hiệu quả và nề nếp. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ dừng tới việc nghiên
cứu nội dung kế toán xây dựng cơ bản tại Ban quản lý dự án cầu Rồng, chưa
nghiên cứu nội dung kế toán tại Ban quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản, chưa
đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống việc tổ chức công tác kế toán dự án.
Kế thừa các ưu điểm và kết quả nghiên cứu đã đạt được đồng thời khắc
phục những hạn chế của các công trình nghiên cứu, vận dụng vào Ban quản lý
chỉnh trang đô thị Hà Nội tác giả nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện tổ chức công
tác kế toán tại Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội”.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về tổ chức công tác kế toán
tại Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội, từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại đơn vị để có thể nâng cao vai trò
của công tác kế toán trong việc quản lý tài chính tại Ban Quản lý chỉnh trang
đô thị Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu về tổ chức công tác kế
toán trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức công tác
kế toán tại Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn trình bày khái quát, hệ thống hóa và làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự
nghiệp công lập nói chung và tại Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội nói
riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn phân tích và đánh giá về thực trạng tổ chức
công tác kế toán tại Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội. Trên cơ sở đó,
luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại
Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà Nội nói riêng. Từ đó có thể vận dụng cho
các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, tính logic để nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như các vấn
đề thực tiễn tổ chức công tác kế toán tại Ban Quản lý chỉnh trang đô thị Hà
Nội.
Luận văn sử dụng các phương pháp diễn giải, so sánh để khảo sát các
công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài nhằm tìm ra những
vấn đề cần giải quyết về mặt lý thuyết. Trên cơ sở đó, luận văn đã phân tích
và tổng kết những vấn đề nghiên cứu có liên quan đến tổ chức công tác kế
toán và xác định mục tiêu nghiên cứu của mình.
Phương pháp khảo sát, phỏng vấn được thực hiện để thu thập thông tin
trên các đối tượng cần lấy thông tin phục vụ quá trình nghiên cứu, thông tin
9
tài liệu thu thập được khi sử dụng phương pháp này là các tài liệu sơ cấp
mang tính chính xác cao.
Các tài liệu thu thập được dùng để minh chứng các nội dung liên quan
đến tổ chức công tác kế toán như: đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập, cơ
chế quản lý tài chính, nguồn tài chính đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp công
lập.
Phương pháp tổng hợp, phân tích dữ liệu: Dựa vào những thông tin, tài
liệu thu thập được qua các cuộc phỏng vấn, qua việc quan sát tại đơn vị…các
thông tin được lựa chọn, phân loại và sắp xếp một cách có hệ thống.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương sau:
-
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức công tác kế toán trong đơn vị sự nghiệp
công lập.
-
Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tại Ban Quản lý chỉnh trang
đô thị Hà Nội.
-
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tại Ban Quản lý
chỉnh trang đô thị Hà Nội.
10
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN
TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG VÀ QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1.1 Khái niệm và phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
* Khái niệm
Theo quy định của Luật viên chức, đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức
do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hôik thành lập thoe quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp
dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. Như vậy, đơn vị sư nghiệp công lập
được thành lập với mục tiêu đáp ứng và hỗ trợ hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước. Do vậy các đơn vị này thường có nguồn thu từ ngân
sách nhà nước. Điều này khiến cho hoạt động quản lý tài chính nói chung và
công tác tổ chức kế toán nói riêng phải được tuân thủ theo các quy định và
chuẩn mực của Nhà nước.
* Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
Tùy thuộc quan điểm, cách tiếp cận hoặc do các yêu cầu quản lý nhà
nước mà các đơn vị sự nghiệp công lập được phân chia theo các tiêu thức
khác nhau.
Theo tính chất công cộng hay cá nhân của dịch vụ cung cấp thì đơn vị sự
nghiệp công lập bao gồm đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công cộng thuần
túy và đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công cộng có tính chất cá nhân.
Theo chủ thể quản lý thì đơn vị sự nghiệp công lập được phân thành:
-
Đơn vị sự nghiệp công lập do trung ương quản lý, bao gồm: Đài truyền hình
Việt Nam, các bênh viện, trường trung học do trung ương quản lý…
11
-
Đơn vị sự nghiệp công lập do địa phương quản lý, bao gồm: Đài truyền hình
tỉnh, thành phố, các bênh viện, trường học do địa phương quản lý…
Theo quan điểm về thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tại Nghị định 16/2015/CP ngày
14/02/2015 của Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm:
- Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; đơn
vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên
(gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động) là các đơn vị có
nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp luôn ổn định nên đảm bảo được toàn bộ chi
phí hoạt động thường xuyên, NSNN không phải cấp kinh phí cho hoạt động
thường xuyên của đơn vị.
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động
thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp (gọi tắt là đơn vị tự đảm bảo một
phần chi phí hoạt động) là các đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp
nhưng chưa tự trang trải tòan bộ các chi phí hoạt động thường xuyên, NSNN
phải cấp một phần kinh phí hoạt động thường xuyên của đơn vị.
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị sự nghiệp không có nguồn
thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do NSNN
đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp do NSNN
đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động).
Theo lĩnh vực hoạt động thì đơn vị sự nghiệp công lập được chia thành:
- Đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
dạy nghề bao gồm các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân như các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông,
trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, đại học, học viện …
12
- Đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa thông tin
nghệ thuật bao gồm các đoàn nghệ thuật, nhà văn hóa thông tin, bảo tang,
trung tâm thông tin triển lãm, thư viện công cộng, đài phát thanh truyền hình
…
- Đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực thể dục thể thao
bao gồm: Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao, các câu lạc bộ thể dục thể
thao …
- Đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực y tế bao gồm các
cơ sở khám chữa bệnh như các bệnh viện, phòng khám, trung tâm y tế thuộc
các bộ, ngành, địa phương; cơ sở khám chữa bệnh thuộc các viện nghiên cứu,
các trường đào tạo y dược; các cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức năng, các
trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe …
- Đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực
khác bao gồm các viện tư vấn, thiết kế, quy hoạch đô thị nông thôn, các trạm
khuyến nông …
1.1.2 Đặc điểm hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập
Đặc điểm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập rất đa dạng, bắt
nguồn từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường. Tuy các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động ở các lĩnh
vực khác nhau như đều mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, mục đích hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là
không vì lợi nhuận, chủ yếu phục vụ lợi ích cộng đồng. Nhà nước tổ chức,
duy trì và tài trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung cấp những sản phẩm,
dịch vụ cho thị trường trước hết nhằm thực hiện vai trò của Nhà nước trong
việc phân phối lại thu nhập và thực hiện các chính sách phúc lợi công cộng
khi can thiệp vào thị trường. Nhờ đó sẽ hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực
13
kinh tế - xã hội hoạt động bình thường, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài,
đảm bảo nguồn nhân lực, thuc đẩy hoạt động kinh tế - xã hội phát triển và
ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống,
sức khỏe, văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Thứ hai, sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp công lập là sản phẩm mang
lại lợi ích chung có tính bền vững, lâu dài cho xã hội. Sản phẩm, dịch vụ do
hoạt động sự nghiệp công lập tạo ra chủ yếu là những sản phẩm, dịch vụ có
giá trị về sức khỏe, tri thức, văn hóa, đạo đức, xã hội… Đây là những sản
phẩm vô hình và có thể dùng chung cho nhiều người, cho nhiều đối tượng
trên phạm vi rộng.
Thứ ba, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập luôn gắn liền với
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Tóm lại, đặc điểm, lĩnh vực hoạt động và mục đích hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập được xem là một trong những nhân tố ảnh hưởng
đến tổ chức công tác kế toán trong đơn vị sự nghiệp công lập.
1.1.3 Quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Quản lý tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong các đơn
vị sự nghiệp công lập, bao gồm lên kế hoạch sử dụng các nguồn vốn, đảm bảo
thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh và theo dõi tình hình thu chi, tình
hình quyết toán ngân sách để từ đó thực hiện báo cáo cho các cấp lãnh đạo …
do đó, việc quản lý tài chính có hiệu quả hay không là nguyên nhân dẫn đến
sự thành công hay thất bại của các đơn vị, tổ chức không kể đó là đơn vị lớn
hay nhỏ. Chính vì vậy, công tác quản lý tài chính sẽ chi phối và tác động rất
lớn đến tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
14
1.1.3.1 Cơ chế quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Cơ chế quản lý tài chính có vai trò quyết định đến việc hình thành, tạo
lập và sử dụng nguồn tài chính, nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động của đơn vị.
Bên cạnh đó, việc tổ chức công tác kế toán của các đơn vị sự nghiệp công lập
phải đảm bảo tuân thủ cơ chế tài chính do Nhà nước quy định.
Hiện nay, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập được tuân thủ
theo quy định của Nghị định 16/2015/NĐ-CP ban hành ngày 14/02/2015 về
việc “quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”. Theo Nghị định
16/2015/NĐ-CP thì đơn vị sự nghiệp công lập được tự chủ trong việc thực
hiện nhiệm vụ, tự chủ về tổ chức bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài
chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị
để cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu nhằm từng
bước giải quyết thu thập cho người lao động. Nhà nước thực hiện chủ trương
xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự đóng góp của
cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bước giảm dần
bao cấp từ NSNN.
Đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
phải tuân thủ theo nguyên tắc:
- Hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Thực hiện công khai, dân chủ theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện quyền tự chủ phải gắn với chịu trách nhiệm trước cơ quan
quản lý cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về những quyết định của mình;
đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
15
- Bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các đơn vị sự nghiệp công lập
được tự chủ trên các mặt sau:
1.1.3.2 Nguồn tài chính đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp công lập
Muốn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển, các đơn vị sự
nghiệp công lập cần được huy động các nguồn tài chính để đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị chuyên môn, trả lương cho viên chức và đội
ngũ cán bộ quản lý, nhân viên phục vụ…Vì vậy, việc huy động, khai thác,
quản lý và sử dụng các nguồn tài chính đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp tác
động đến tổ chức công tác kế toán ở các khâu huy động, quản lý và sử dụng
nguồn tài chính của đơn vị. Cụ thể:
- Nguồn ngân sách nhà nước cấp để thực hiện nhiệm vụ được giao. Đây
là nguồn thu mang tính truyền thống và có vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo nguồn tài chính cho các hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập. Các
đơn vị sự nghiệp công lập khi sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo sử dụng
đúng mục đích, nội dung dự toán được giao, đúng tiêu chuẩn, định mức của
Nhà nước. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật nguồn tài chính đầu tư
cho các đơn vị sự nghiệp công lập có tác động và chi phối đáng kể đến tổ
chức công tác kế toán trên một số nội dung cụ thể như tổ chức hệ thống chứng
từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ sách kế toán, báo cáo kế
toán, công tác kiểm tra kế toán…
- Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công, bao gồm cả nguồn
ngân sách nhà nước đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá tính
đủ chi phí; nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy
định và nguồn thu khác. Cùng với việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ tài
16
chính, tỷ trọng nguồn thu này trong các đơn vị sự nghiệp công lập có xu
hướng ngày càng tăng. Điều này đòi hỏi các đơn vị phải tổ chức khai thác các
nguồn thu này hợp pháp nhằm tăng cường nguồn lực tài chính cho đơn vị.
- Nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật. Đây là
các khoản thu không thường xuyên, không dự tính trước được nhưng có tác
dụng hỗ trợ đơn vị trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
1.1.3.3 Quy trình lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán ngân sách
tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Công việc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm các
công việc: lập dự toán ngân sách, chấp hành dự toán và quyết toán ngân sách.
Cụ thể:
-Lập dự toán ngân sách:
Lập dự toán ngân sách là quá trình phân tích, đánh giá giữa khả năng và
nhu cầu các nguồn tài chính để xây dựng các chỉ tiêu thu, chi ngân sách hàng
năm một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học và thực tiễn.
Khi lập dự toán ngân sách, các đơn vị sự nghiệp công lập phải phản ánh
đầy đủ các khoản thu, chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan
có thẩm quyền ban hành, kể cả các khoản thu, chi từ nguồn viện trợ và các
khoản vay. Trong quá trình lập dự toán ngân sách phải lập đúng mẫu biểu,
thời gian theo đúng quy định và lập chi tiết theo mục lục NSNN. Dự toán
ngân sách của các đơn vị sự nghiệp công lập được gửi đúng thời hạn đến các
cơ quan chức năng theo quy định của pháp luật.
- Chấp hành dự toán ngân sách:
Chấp hành dự toán là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế
tài chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong dự toán ngân sách của đơn
17
vị thành hiện thực. Trên cơ sở dự toán ngân sách được giao, các đơn vị sự
nghiệp công lập chủ động tổ chức triển khai thực hiện, đưa ra các biện pháp
cần thiết đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ thu – chi được giao, đồng thời phải
có kế hoạch sử dụng kinh phí ngân sách theo đúng mục đích, đúng chế độ, tiết
kiệm và có hiệu quả. Để theo dõi quá trình chấp hành dự toán ngân sách, các
đơn vị sự nghiệp công lập cần tiến hành tổ chức hệ thống chứng từ kế toán, hệ
thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ sách kế toán để theo dõi chi tiết, cụ thể
từng nguồn thu, từng khoản chi, quản lý quỹ lương, các quỹ và quản lý tài sản
của đơn vị.
+ Quá trình chấp hành dự toán thu: Các đơn vị sự nghiệp công lập thực
hiện nhiệm vụ thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu. Đối với các
đơn vị được sử dụng nhiều nguồn thu đồng thời, cần có biện pháp quản lý
thống nhất nhằm sử dụng các nguồn thu đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm.
Chính vì vậy, để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi các đơn vị sự nghiệp công
lập phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó phải tổ chức hệ thống
thông tin để ghi nhận đầy đủ, kịp thời và liên tục quá trình chấp hành dự toán
đã được xây dựng. Muốn vậy các đơn vị phải tổ chức công tác kế toán khoa
học từ việc tổ chức hệ thống chứng từ ghi nhận các khoản thu, trên cơ sở đó
tiến hành phân loại các khoản thu, ghi chép trên hệ thống sổ kế toán và định
kỳ thiết lập các báo cáo tình hình huy động các nguồn thu.
+ Quá trình chấp hành dự toán chi: Các đơn vị sự nghiệp công lập phải
có kế hoạch theo dõi việc sử dụng các nguồn kinh phí đúng mục đích để hoàn
thành nhiệm vụ được giao trên cơ sở minh bạch, tiết kiệm và hiệu quả. Trong
cơ chế tự chủ tài chính, thước đo các khoản chi của đơn vị có chấp hành đúng
dự toán hay không chính là quy chế chi tiêu nội bộ. Quy chế chi tiêu nội bộ là
căn cứ để thủ trưởng đơn vị điều hành việc sử dụng và quyết toán kinh phí từ
nguồn NSNN cấp cho hoạt động thường xuyên và nguồn thu sự nghiệp của
18
đơn vị, là cơ sở pháp lý để KBNN kiểm soát chi. Những nội dung chi trong
quy chế chi tiêu nội bộ đã có tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền
ban hành thì phải thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước. Những nội
dung chi cần thiết phục vụ cho hoạt động của đơn vị trong quy chế chi tiêu
nội bộ nhưng Nhà nước chưa ban hành chế độ thì thủ trưởng đơn vị có thể
xây dựng mức chi cho từng nhiệm vụ, nội dung công việc trong phạm vi
nguồn tài chính của đơn vị.
Việc phải tính toán sao cho với chi phí thấp nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả
cao nhất là vấn đề quan tâm hàng đầu của quản lý tài chính. Muốn vậy các
đơn vị sự nghiệp công lập phải sử dụng đồng thời nhiều biện pháp khác nhau,
trong đó có tổ chức vận dụng hệ thống phương pháp kế toán để thu thập, ghi
nhận, xử lý và cung cấp thông tin kịp thời các khoản chi theo từng nội dung
chi, từng nhóm chi, mục chi và thường xuyên tổ chức phân tích, đánh giá,
tổng kết rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó đề ra biện pháp tăng cường quản lý
chi.
+ Quản lý quỹ lương.
Các đơn vị sự nghiệp công lập phải chấp hành đúng quỹ tiền lương được
duyệt tương ứng với số công chức, viên chức được giao theo chỉ tiêu biên chế
hàng năm. Nghiêm cấm việc sử dụng quỹ lương cho các mục đích khác và
ngược lại. Bên cạnh đó, việc chi trả quỹ tiền lương thực hiện đồng thời với
việc trích nộp BHXH, BHYT, BHTN và các khoản trích nộp khác theo quy
định. Việc lập dự toán, cấp phát và hạch toán quỹ tiền lương phải đúng mục
lục NSNN. Việc cấp phát, thanh toán quỹ tiền lương ở các đơn vị sự nghiệp
công lập phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan tài chính, cơ quan chủ
quản và cơ quan KBNN.
19
+ Quản lý tài sản nhà nước trong đơn vị sự nghiệp công lập phải đảm
bảo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mọi tài sản nhà nước đều được Nhà nước giao cho đơn vị quản
lý, sử dụng.
Thứ hai, tài sản nhà nước phải được đầu tư, trang bị và sử dụng đúng
mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ, đảm bảo công bằng, hiệu quả, tiết
kiệm.
Thứ ba, tài sản nhà nước phải được hạch toán đầy đủ về hiện vật và giá
trị theo quy định của pháp luật. Việc xác định giá trị tài sản trong quan hệ
mua, bán, thuê, cho thuê, liên doanh, liên kết, thanh lý tài sản hoặc trong các
giao dịch khác được thực hiện theo cơ chế thị trường, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Việc hạch toán đầy đủ về hiện vật và giá trị tài sản nhà
nước đảm bảo cho các đơn vị sự nghiệp công lập nắm được số lượng, giá trị
và tình trạng tài sản, từ đó đề ra các biện pháp quản lý phù hợp và phục vụ tốt
công tác hoạch định chính sách, chế độ.
Thứ tư, tài sản nhà nước được bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ
quy định.
Thứ năm, việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được thực hiện công
khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước phải đươc xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, về mặt quản lý và tổ chức thì những nguyên tắc quản lý tài sản
nhà nước có ảnh hưởng đáng kể đến tổ chức công tác kế toán của các đơn vị
sự nghiệp công lập từ khâu bắt đầu hình thành tài sản đến quản lý, sử dụng tài
sản.
- Quyết toán thu-chi ngân sách.
20
Quyết toán thu-chi ngân sách là công việc cuối cùng của chu trình quản
lý tài chính. Đây là quá trình kiểm tra, tổng hợp số liệu về tình hình chấp hành
dự toán trong kỳ và là cơ sở để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho các kỳ tiếp theo. Để có thể tiến
hành quyết toán thu – chi, các đơn vị phải hoàn tất hệ thống báo cáo tài chính
và báo cáo quyết toán ngân sách.
Nôi dung chính của hệ thống BCTC và báo cáo quyết toán là trình bày
một cách tổng quát, toàn diện về tình hình thu, chi và cân đối ngân sách; tình
hình tiếp nhận, huy động, sử dụng các nguồn tài chính và sự vận động của các
tài sản sau một kỳ kế toán. Báo cáo quyết toán NSNN được lập trên cơ sở số
liệu phải chính xác, trung thực, nội dung phải theo đúng các nội dung ghi dự
toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi mục lục NSNN. Báo cáo
quyết toán năm trước khi gửi các cơ quan có thẩm quyền để xét duyệt hoặc
tổng hợp phải có xác nhận của KBNN đồng cấp.
Ngoài các nhân tố trên, khi tiến hành tổ chức công tác kế toán cũng cần
quan tâm đến các nhân tố khác như nhu cầu thông tin kế toán, yêu cầu quản ly
đơn vị, yêu cầu kiểm soát trong đơn vị…
1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN
TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.2.1 Khái niệm, vai trò của tổ chức công tác kế toán
*Khái niệm
Thực chất quan điểm về tổ chức kế toán được hình thành và định hình
thông qua các định nghĩa về kế toán. Thực tế, do có nhiều cách tiếp cận về kế
toán nên tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về kế toán. Tuy có nhiều điểm
khác nhau nhưng các định nghĩa này đều thống nhất với nhau rằng: kế toán là
một hệ thống của những khái niệm và phương pháp, hướng dẫn chúng ta thu
21
thập, đo lường, xử lý và cung cấp thông tin cần thiết cho việc ra những quyết
định tài chính hợp lý.
Do vậy, tổ chức công tác kế toán được hiểu là một hệ thống các phương
pháp cách thức phối hợp sử dụng phương tiện và kỹ thuật cũng như nguồn lực
của bộ máy kế toán thể hiện các chức năng và nhiệm vụ của kế toán đó là:
Phản ánh, đo lường, giám sát và thông tin bằng số liệu một cách trung thực,
chính xác, kịp thời đối tượng kế toán trong mối liên hệ mật thiết với các lĩnh
vực quản lý khác.
Theo giáo trình Tổ chức công tác kế toán, Học viện Tài chính thì: “Tổ
chức công tác kế toán là tổ chức việc thu nhận, hệ thống hóa và cung cấp
thông tin về hoạt động của đơn vị”.
Theo giáo trình Nguyên lý kế toán, Học viện Tài chính: “Tổ chức công
tác kế toán cần được hiểu như một hệ thống các yếu tố cấu thành gồm: tổ
chức bộ máy kế toán, tổ chức vận dụng các phương pháp kế toán, kỹ thuật
hạch toán, tổ chức vận dụng các chế độ, thể lệ kế toán… mối liên hệ và sự tác
động giữa các yếu tố đó với mục đích đảm bảo các điều kiện cho việc phát
huy tối đa chức năng của hệ thống các yếu tố đó.”
Tóm lại, tổ chức công tác kế toán là tổ chức vận dụng một cách khoa
học các phương pháp hệ thống chứng từ, hệ thống tài khoản kế toán, hệ
thống sổ sách kế toán, các phương pháp tính giá và hệ thống báo cáo tài
chính, tổ chức kiểm tra kế toán. Quan điểm toàn diện và thống nhất này đảm
bảo cho việc phân công thực hiện các nhiệm vụ kế toán được tiến hành một
cách khoa học và hiệu quả.
* Vai trò của tổ chức kế toán
Trong quá trình hoạt động, mục tiêu của các đơn vị sự nghiệp công lập
là tối đa hóa lợi ích. Việc tổ chức kế toán một cách hợp lý và khoa học sẽ giúp
22
đơn vị đạt được hiệu quả lớn nhất với chi phí thấp nhất. Vai trò quan trọng
của tổ chức công tác kế toán trong quản lý được thể hiện qua một số nội dung
cơ bản sau:
Thứ nhất, giúp kiểm tra, kiểm soát tình hình sử dụng tài sản, nguồn
kinh phí và các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị.
Thứ hai, cung cấp thông tin, tài liệu tổng hợp và chi tiết phục vụ cho
việc điều hành quản lý các hoạt động của đơn vị. Các thông tin này không chỉ
đơn thuần là các thông tin hiện tại mà còn bao gồm những thông tin quá khứ.
Việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác sẽ nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý và ra quyết định trong đơn vị.
Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn kinh phí được cấp phát từ NSNN
cũng khiến cho tổ chức công tác kế toán phải tuân theo các chuẩn mực của kế
toán ngân sách nhà nước. Công tác kế toán tại đơn vị sự nghiệp công lập phải
cân đối giữa các hoạt động kinh doanh và nhiệm vụ chính trị được giao.
1.2.2 Nhiệm vụ của tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp
công lập
Kế toán là một trong các công cụ quản lý quan trọng của đơn vị sự
nghiệp công lập. Do vậy, tổ chức công tác kế toán khoa học và hợp lý là điều
kiện cần thiết để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và vai trò của kế toán,
đảm bảo được chất lượng và hiệu quả của công tác kế toán ở đơn vị sự nghiệp
công lập.
Những nhiệm vụ chính của tổ chức công tác kế toán trong đơn vị sự
nghiệp công lập là:
Một là, tổ chức hợp lý bộ máy kế toán ở đơn vị phù hợp với đặc điểm,
điều kiện tổ chức hoạt động, tổ chức quản lý và phân cấp quản lý tài chính ở
23
đơn vị, đảm bảo đủ số lượng, có chất lượng, đảm bảo hoàn thành mọi nội
dung công việc kế toán của đơn vị với chi phí tiết kiệm nhất. Thực hiện kế
hoạch hóa công tác kế toán, có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng cho từng
nhân viên kế toán. Xác định được mối quan hệ công việc giữa bộ phận kế
toán với các bộ phận quản lý khác trong đơn vị.
Hai là, xác định rõ mối quan hệ giữa các bộ phận trong bộ máy kế toán
với các bộ phận quản lý khác trong đơn vị về các công việc liên quan đến
công tác kế toán và thu nhận, cung cấp thông tin kinh tế tài chính liên quan
cho các nhà quản lý.
Thực tế, để cung cấp thông tin phục vụ đáp ứng yêu cầu các ngành
quản lý, quản trị trong đơn vị, đòi hỏi sự liên quan và phối kết hợp giữa các
bộ phận chức năng trong toàn đơn vị. Mỗi bộ phận có nhiệm vụ riêng nhưng
lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành bộ máy quản lý toàn đơn vị.
Do vậy, khi tổ chức bộ máy kế toán cần xác định rõ nhiệm vụ và mối quan hệ
về cung cấp thông tin giữa bộ phận kế toán với các bộ phận chức năng liên
quan trong toàn đơn vị.
Ba là, tổ chức vận dụng chế độ kế toán, Luật kế toán đã ban hành với
việc lựa chọn một hình thức kế toán phù hợp với điều kiện cụ thể của đơn vị.
Tổ chức công tác kế toán ở đơn vị sự nghiệp công lập có nhiệm vụ tổ chức
thực hiện các phương pháp kế toán, tổ chức thực hiện và vận dụng các nguyên
tắc kế toán, Luật kế toán, chế độ kế toán theo quy định vào đơn vị cho đúng
và phù hợp để thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin kế toán đáp ứng yêu cầu
quản lý đơn vị, đảm bảo kế toán thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Việc lựa
chọn một hình thức kế toán phù hợp với điều kiện cụ thể của đơn vị cũng là
một trong các nhiệm vụ của tổ chức công tác kế toán, nhằm giúp đơn vị tổ
chức thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin phù hợp và hiệu quả nhất.
24
Bốn là, tổ chức áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, khoa học
quản lý; từng bước trang bị và sử dụng các phương tiện kỹ thuật tính toán
hiện đại. Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ cho
cán bộ kế toán. Tổ chức phổ biến hướng dẫn các chế độ thể lệ về tài chính kế
toán cho công chức viên chức trong đơn vị. Tổ chức kiểm tra kế toán trong
nội bộ.
Trong điều kiện hiện nay, khoa học kỹ thuật thông tin phát triển rất
nhanh và tin học đã xâm nhập sâu vào khoa học quản lý, trở thành một yếu tố
và phương tiện quan trọng, không thể thiếu. Do đó, khi tổ chức công tác kế
toán ở đơn vị sự nghiệp công lập cần quán triệt nhiệm vụ ứng dụng những
thành tựu khoa học tiên tiến, hiện đại, sử dụng các chương trình phần mềm,
trang thiết bị kỹ thuật hỗ trợ tính toán, thiết lập hệ thống thông tin, khai thác
và lưu trữ thông tin cho hiệu quả.
Để phát huy tốt nhất các nội dung của tổ chức công tác kế toán thì các
nhiệm vụ cần phải được triển khai đồng bộ.
1.2.3 Những nguyên tắc tổ chức công tác kế toán tại đơn vị sự nghiệp
công lập
Tổ chức kế toán trong đơn vị sự nghiệp công lập một cách khoa học và
hợp lý không những có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng của công tác kế
toán mà còn là nhân tố quan trọng thực hiện tốt quản lý kinh phí và bảo vệ tài
sản, tiền vốn của đơn vị, thực hiện tốt vai trò của kế toán là công cụ quản lý
tài chính trong đơn vị.
Muốn vậy trong hoạt động thực tiễn tổ chức công tác kế toán cần phải
tuân theo những nguyên tắc nhất định, dựa trên những nguyên tắc của bản
thân hoạt động kế toán và quan hệ giữa kế toán với các bộ phận khác trong hệ
thống quản lý. Bao gồm những nguyên tắc sau:
25
Nguyên tắc phù hợp: Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức công tác kế toán
phải phù hợp với đặc điểm cụ thể của đơn vị về: quy mô hoạt động, loại hình
hoạt động, đặc thù về quản lý của đơn vị, phù hợp với năng lực của cán bộ kế
toán ở đơn vị, phù hợp với thiết bị trang bị cho công tác tổ chức kế toán.
Không dập khuôn, cứng nhắc trong công tác tổ chức kế toán.
Nguyên tắc thống nhất: Tổ chức công tác kế toán phải đảm bảo mối
liên hệ với các bộ phận trong bộ máy quản lý trên các mặt về nhận và cung
cấp thông tin, thống nhất các bộ phận về nội dung, phương pháp tính các chỉ
tiêu kinh tế, thống nhất về đơn vị hạch toán và ký hạch toán, bảo đảm tính so
sánh được của các tài liệu kế toán với các tài liệu quản lý khác.
Nguyên tắc tuân thủ: Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức công tác kế toán phải
tuân theo các văn bản pháp luật liên quan, tuân thủ điều lệ tổ chức kế toán
Nhà nước.
Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả: Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức công tác
kế toán phải thực sự khoa học, hiệu quả: nghiệp vụ đơn giản, dễ làm, dễ đối
chiếu và đảm bảo nhiệm vụ cung cấp thông tin cho nhà quản lý.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức công tác
kế toán phải thực hiện phân công, phân nhiệm rõ ràng, một số công việc cần
được phân công cho nhiều người, tránh phân công cho một người kiêm nhiệm
như kế toán tiền mặt không được kiêm thủ quỹ...
Những nguyên tắc trên phải được triển khai đồng bộ mới có thể phát
huy được tốt các nội dung của tổ chức công tác kế toán. Tổ chức công tác kế
toán chính là liên kết một cách có định hướng, mang tính hệ thống thông qua
yếu tố con người với mục đích tạo điều kiện cho công tác kế toán thực hiện
tốt chức năng và phát huy được vai trò của nó trong quản lý kinh tế.