Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BÀI 3: CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.23 KB, 10 trang )

TRẢ LỜI CÂU HỎI ÔN TẬP
BÀI 3: CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP WTO
1. Các thay đổi quan trọng trong DSU so với cơ chế giải quyết tranh chấp trong
GATT 1947?
- Thành lập cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO – DSB
- Cơ chế phòng ngừa tranh chấp, giúp làm cân bằng giữa các quyền và nghĩa vụ của các
thành viên WTO
- Với các chức năng của DSU, các bên tranh chấp bắt buộc phải tuân thủ các cam kết của
họ theo các hiệp định liên quan. Các khuyến nghị và phán quyết của Cơ quan giải quyết tranh
chấp mang tính bắt buộc thực thi đối với các bên trong vụ tranh chấp.
-Nguyên tắc quan trọng nhất trong GATT 1947 là nguyên tắc đồng thuận, kể cả khi
chuyển một tranh chấp tới Ban hội thẩm cũng cần có sự đồng thuận. Sự đồng thuận có nghĩa là
không có sự phản đối từ bất kỳ Bên ký kết nào đối với quyết định đó, điều này dẫn đến sự ngăn
cản thành lập Ban hội thẩm của nước bị kiện. Trong khi đó, quyết định thành lập Ban hội thẩm
trong DSU theo nguyên tắc đồng thuận nghịch- sự thay đổi quan trọng, tiến bộ hơn so với GATT
1947.
-Sự thay đổi thứ 2 là việc đẩy nhanh tiến độ. Trong khi các vụ kiện trong GATT có thể
kéo dài mãi, thì đã có một lịch trình nghiêm ngặt cho các thủ tục tại WTO.
- Thủ tục mang tính bắt buộc cao
- Loại trừ khả năng các bên tranh chấp ngăn cản quá trình thành lập Ban hội thẩm hay
không thông qua khuyến nghị của các cơ quan giải quyết tranh chấp (Ban hội thẩm và cơ quan
phúc thẩm)
- Quy định thời hạn cụ thể cho từng bước giải quyết tranh chấp, thiết lập thủ tục phúc
thẩm, nâng cao khả năng giám sát quá trình thực thi khuyến nghị của Ban hội thẩm
- Cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa trong trường hợp có sự bất tuân thủ quyết
định của cơ quan giải quyết tranh châos

2. Vì sao cơ chế giải quyết tranh chấp WTO được cho là đóng một vai trò quan
trọng trong hệ thống thương mại đa phương ?
- Vì cơ chế này sẽ quy định các phương pháp, trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp,
đảm bảo tính công bằng, thống nhất, khách quan trong thủ tục giải quyết các tranh chấp cũng


như đưa ra các biện pháp đảm bảo thi hành khuyến nghị, phán quyết của cơ quan giải quyết tranh
chấp.


- Thông qua cơ chế này, các thành viên WTO có thể đảm bảo rằng các quyền của họ theo
các Hiệp định WTO được thực thi. Điều này tạo điều kiện cho mỗi thành viên có thể khởi kiện
chống lại bất kỳ thành viên nào khác vi phạm các chính sách thương mại nhằm bắt buộc các
thành viên đó phải tuân thủ những nghĩa vụ của mình theo các cam kết trong các hiệp định
WTO.
- Cơ chế này thay thế cho các hành động đơn phương của các quốc gia thành viên vốn tồn
tại nhiều nguy cơ bất công, gây trì trệ và xáo trộn trật tự vận hành chung của các quy tắc thương
mại quốc tế.
- Thực hiện có hiệu quả chức năng của WTO và duy trì sự cân bằng thích hợp giữa các
quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trong khuôn khổ hệ thống thương mại đa phương.
3. Các tranh chấp nào được áp dụng DSU để giải quyết ? (phạm vi)
DSU áp dụng để giải quyết tất cả tranh chấp liên quan đến Hiệp định thành lập WTO, các
hiệp định về thương mại hàng hoá (GATT và các hiệp định liên quan), Hiệp định GATS, Hiệp
định TRIPS, các hiệp định thương mại nhiều bên và ngay cả chính DSU. Với thẩm quyền “bắt
buộc” và "duy nhất".
DSU không áp dụng cho Cơ chế Rà soát Chính sách Thương mại và các quyết định, bản
ghi nhớ khác đã thông qua tại Vòng đàm phán Uruguay. Các quy tắc và Thỏa thuận giải quyết
tranh chấp (DSU) sẽ được áp dụng cho những quy tắc và thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung về
việc giải quyết tranh chấp được quy định trong các Hiệp định liên quan (Phụ lục II, DSU). Trong
những trường hợp có sự khác biệt giữa những quy tắc và thủ tục chuyên biệt thì những quy tắc
và thủ tục chuyên biệt trong các hiệp định liên quan sẽ được ưu tiên áp dụng.
4. Hậu quả của thẩm quyền tài phán bắt buộc cho cơ chế giải quyết tranh chấp
WTO đối với các bên tranh chấp ?
Hệ thống giải quyết tranh chấp có tính bắt buộc. Tất cả các thành viên WTO đều phải
tuân thủ nó bởi họ đã ký và phê chuẩn Hiệp định WTO như là cả gói cam kết chung mà DSU là
một phần trong đó.

DSU buộc tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ hệ thống giải quyết tranh chấp đối
với tất cả các tranh chấp phát sinh trong khuôn khổ Hiệp định WTO. Do đó, không giống các hệ
thống giải quyết tranh chấp quốc tế khác, các bên tranh chấp không cần thiết phải có một tuyên
bố riêng hay thỏa thuận riêng về việc chấp nhận quyền tài phán của hệ thống giải quyết tranh
chấp của WTO. Việc chấp thuận quyền tài phán của hệ thống giải quyết tranh chấp đã được hàm
chứa trong việc thành viên gia nhập vào WTO. Kết quả là từng thành viên WTO được bảo đảm
quyền tiếp cận hệ thống giải quyết tranh chấp và không thành viên bị kiện nào có thể trốn tránh
được quyền tài phán này.

5. Ai có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp WTO ? Các doanh nghiệp, hiệp
hội làm thế nào để tiếp cận cơ chế này ?


 Đối tượng được sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp WTO:
Chỉ có các quốc gia thành viên WTO mới là các bên tham gia vào hệ thống giải quyết
tranh chấp và có thể tham gia hệ thống này với tư cách là các bên tranh chấp hoặc bên thứ ba.
 Cách doanh nghiệp, hiệp hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp WTO :
Chỉ các chính phủ thành viên WTO mới có thể đưa tranh chấp lên WTO để giải quyết
nên các cá nhân hoặc công ty tư nhân không trực tiếp tiếp cận với hệ thống giải quyết tranh chấp,
ngay cả khi họ chính là những người bị tác động tiêu cực trực tiếp (với tư cách là nhà xuất khẩu
hoặc nhập khẩu) bởi các biện pháp bị cho là đã vi phạm Hiệp định WTO. Điều này cũng áp dụng
cho các tổ chức phi chính phủ khác có sự quan tâm chung tới vấn đề được xử lý trong hệ thống
giải quyết tranh chấp và họ cũng không thể khởi kiện theo các thủ tục giải quyết tranh chấp của
WTO. Tuy nhiên, các tổ chức này có thể gây ảnh hưởng hoặc thậm chí gây áp lực lên chính
phủ của một thành viên WTO liên quan đến việc đưa ra tranh chấp. Trên thực tế, nhiều thành
viên WTO đã chính thức thông qua luật pháp trong nước mà theo đó các bên tư nhân có thể đệ
đơn lên chính phủ của họ đề nghị đưa tranh chấp ra WTO.

6. Ngoài tham vấn và xét xử, cơ chế giải quyết tranh chấp WTO có cho phép các
phương thức giải quyết tranh chấp khác?

Ngoài tham vấn và xét xử, cơ chế giải quyết tranh chấp WTO còn cho phép các phương
thức giải quyết tranh chấp khác trong công pháp quốc tế như trọng tài liên quốc gia (interstate
arbitration), trung gian (mediation) và hòa giải (conciliation). Điều 25 thỏa thuận DSU quy định
các nước thành viên có thể giải quyết tranh chấp với nhau thông qua trọng tài đối với những
tranh chấp các nước này thỏa thuận nhất trí sử dụng cơ chế này và chấp nhận tuân thủ quyết định
của trọng tài.
Các nước cũng có thể sử dụng cơ chế trung gian hoặc hòa giải của một bên thứ ba.
Riêng đối với tranh chấp mà một bên là nước kém phát triển thì Tổng giám đốc có thể đứng ra
làm trung gian hoặc hòa giải.
Ngoài cơ chế giải quyết tranh chấp chung ra, một số hiệp định trong thương mại đa
phương của WTO cũng quy định những cơ chế giải quyết tranh chấp đặc biệt. Ví dụ như Hiệp
định về trợ cấp có quy định thủ tục riêng về giải quyết tranh chấp liên quan đến hàng dệt trước
cơ quan giám sát hàng dệt. Trong trường hợp các quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp đặc
biệt khác với những quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp chung thì những quy định trong cơ
chế đặc biệt thắng thế.
7. Vai trò của DSB trong việc giải quyết tranh chấp giữa các Thành viên?
Vai trò của DSB trong thủ tục GQTC của WTO (theo Điều 2 của DSU) bao gồm:
(i)
(ii)

Nhận thông báo tham vấn của bên khởi kiện;
Thành lập và quyết định các thành viên của Ban hội thẩm;


(iii)
(iv)

Thông qua các báo của Ban hội thẩm cũng như Cơ quan phúc thẩm và chịu trách nhiệm về nội
dung của các khuyến nghị của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm.
Theo dõi quá trình thực thi các khuyến nghị và phán quyết. Trong quá trình này, DSB có thẩm

quyền cho phép một bên tranh chấp tạm hoãn thi hành các nhượng bộ nếu cần.
8. Trình bày khái quát các giai đoạn của thủ tục giải quyết tranh chấp ?
Trong khuôn khổ WTO, quy trình GQTC có thể được chia làm 3 giai đoạn chính: giai
đoạn tham vấn, giai đoạn xem xét của Ban hội thẩm (và Cơ quan phúc thẩm nếu có), giai đoạn
thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của Ban hội thẩm (hoặc Cơ quan phúc thẩm nếu có).
1. Tham vấn
Là giai đoạn đầu tiên và là thủ tục bắt buộc
Về yêu cầu tham vấn: Bên có khiếu nại trước hết phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia
(Điều 4 DSU). Đưa ra lý do yêu cầu, chỉ ra biện pháp có vấn đề và cơ sở pháp lý cho việc khiếu
kiện. DSB được thông báo về thủ tục này và có trách nhiệm thông báo cho các quốc gia thành
viên về yêu cầu tham vấn nhưng cơ quan này không trực tiếp tham gia vào thủ tục tham vấn.
Hình thức: Văn bản.
Thời hạn: Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và phải tiến hành tham
vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu (Điều 4.3 DSU).
Thủ tục tiến hành tham vấn: Các bên thiện chí nhằm đưa ra biện pháp thõa đáng (Điều
4.2, 3.10, 4.5 DSU), đặc biệt lưu ý lợi ích của các quốc gia đang phát (Điều 4.10 DSU), thủ tục
này được bảo mật (Điều 4.6 DSU).
Kết quả tham vấn: Mọi giải pháp phải phù hợp với luật WTO, phải được thông báo cho
DSB và cho ủy ban có thẩm quyền (Điều 3.6 DSU).
2. Giải quyết tranh chấp trước Ban hội thẩm
2.1.
Thành lập Ban hội thẩm
Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được lập thành văn bản sau khi Bên được tham vấn
từ chối tham vấn hoặc tham vấn không đạt hiệu quả trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu cầu
tham vấn (Điều 6 DSU). Tuy nhiên như trên đã đề cập, yêu cầu thành lập Ban hội thẩm có thể
đưa ra trước thời hạn này nếu các bên tranh chấp đều thống nhất rằng các thủ tục tham vấn, hòa
giải không dẫn đến kết quả gì. Văn bản yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải nêu rõ quá trình
tham vấn, xác định chính xác biện pháp thương mại bị khiếu kiện và tóm tắt các căn cứ pháp lý
cho khiếu kiện. Yêu cầu này phải được gửi lên DSB để ra quyết định thành lập Ban hội thẩm.
2.2.

Hoạt động của Ban hội thẩm
Ban hội thẩm có chức năng xem xét vấn đề tranh chấp trên cơ sở các quy định trong các
Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện của mình để giúp
DSB đưa ra khuyến nghị thích hợp cho các bên tranh chấp.


Về nghĩa vụ chứng minh của các bên: Theo tập quán hình thành từ GATT 1947, trường
hợp khiếu kiện có vi phạm thì Bên bị đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm của bên đó
không gây thiệt hại cho Bên nguyên đơn, trường hợp khiếu kiện không có vi phạm thì Bên
nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi không vi phạm của Bên bị đơn gây ra thiệt hại về
lợi ích mà bên đó đáng lẽ phải được hưởng theo quy định của Hiệp định hoặc chứng minh sự cản
trở đối với việc thực hiện một mục tiêu nhất định của Hiệp định.
Thủ tục hoạt động của Ban hội thẩm được quy định tại Điều 12 DSU. Ban hội thẩm sau
khi tham khảo ý kiến của các bên liên quan sẽ ấn định một thời gian biểu cụ thể cho phiên xét
xử đầu tiên (các bên trình bày các văn bản giải trình tình tiết vụ việc và các lập luận liên quan),
phiên xét xử thứ hai (đại diện và luật sư của các bên lần lượt trình bày ý kiến và trả lời các câu
hỏi của Ban hội thẩm – oral hearings). Sau phiên xét xử thứ hai, Ban hội thẩm soạn thảo và
chuyển đến các bên phần Tóm tắt nội dung tranh chấp của báo cáo để họ cho ý kiến trong một
thời hạn nhất định. Trên cơ sở các ý kiến này, Ban hội thẩm đưa ra Báo cáo tạm thời (mô tả vụ
việc, các lập luận, kết luận của Ban hội thẩm). Các bên cho ý kiến về báo cáo này, nếu có yêu
cầu, Ban hội thẩm có thể tổ chức thêm một phiên họp bổ sung để xem xét lại tổng thể các vấn đề
liên quan. Sau đó Ban hội thẩm soạn thảo Báo cáo chính thức để gửi đến tất cả các thành viên
WTO và chuyển cho DSB thông qua.
2.3.

Thông qua báo cáo của Ban hội thẩm

Báo cáo của Ban hội thẩm được chuyển cho tất cả các thành viên WTO và được DSB
thông qua trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Báo cáo được chuyển cho các thành viên trừ khi
một bên tranh chấp quyết định kháng cáo hoặc DSB đồng thuận phủ quyết báo cáo.

3.

Thủ tục phúc thẩm
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo của Ban hội thẩm
(yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn bản. Khi có yêu cầu này thu tục
phúc thẩm sẽ được bắt đầu.
Phạm vi thẩm quyền của Cơ quan phúc thẩm: Cơ quan phúc thẩm chỉ xem xét các vấn đề
về luật, các vấn đề được ghi nhận trong thông báo kháng cáo. Tuy nhiên, cơ quan phúc thẩm có
quyền kiểm soát sự tuân thủ các quy định về thủ tục của Ban hội thẩm bất cư lúc nào trong quá
trình phúc thẩm.
Trong quá trình làm việc của SAB, các bên tranh chấp và các bên thứ ba có quyền đệ
trình ý kiến bằng văn bản hoặc trình bày miệng tại phiên họp của cơ quan này. Hoạt động của
SAB được giữ bí mật, việc xem xét và đưa ra báo cáo phải được thực hiện với sự tham gia của
các bên tranh chấp.
Cơ quan phúc thẩm ra báo cáo trong vòng 60 ngày kể từ ngày kháng cáo (trường hợp xin
được gia hạn thì có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng phải thông báo lý do cho DSB biết).
Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc loại bỏ các vấn đề và kết luận pháp lý của Ban hội
thẩm. Các bên không có quyền phản đối báo cáo này. DSB thông qua báo cáo của Cơ quan phúc


thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi báo cáo của cơ quan phúc thẩm được chuyển đến tất cả
các thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ quyết.

9. Các biện pháp khắc
phục nào được thực hiện khi
Ban hội thẩm hoặc Cơ quan
Phúc thẩm kết luận một biện
pháp nào đó không phù hợp
với luật WTO?
Khi Ban hội thẩm hoặc

Cơ quan phúc thẩm cho rằng,
một biện pháp do Bên bị khiếu
kiện áp dụng không phù hợp
với quy định của WTO thì Ban
hội thẩm hoặc Cơ quan phúc
thẩm sẽ đưa ra các khuyến nghị
yêu cầu nước vi phạm đưa biện pháp đó phù hợp với các quy định có liên quan. Khi Ban hội
thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm có báo cáo về những khuyến nghị nói trên và những khuyến nghị
này được DSB thông qua thì sẽ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên liên quan. Nếu như
những khuyến nghị được đưa ra không được bên bị khiếu kiện tuân thủ thì có thể dùng tới các
biện pháp tạm thời như bồi thường hay tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ
khác.
Câu 10: Khi nào các quốc gia được sử dụng phương pháp trả đũa?
Theo Điều 22.2 của DSU, nếu các bên không thể thống nhất về số tiền bồi thường , DSU
cho phép bên khiếu kiện có quyền trả đũa bằng 1 biện pháp đối phó. Theo đó, bên khiếu kiện có
thể yêu cầu DSB cho phép họ trả đũa theo các Hiệp định nếu bị đơn không tuân thủ các khuyến
nghị và phán quyết của DSB và nếu họ thất bại trong việc bồi thường cho thành viên bị ảnh
hưởng thắng kiện trông phiên tranh chấp.
Khi pháp quyết giải quyết tranh chấp của DSB không được thực thi trong khoảng thời gian hợp
lý thì được áp dụng chế tài: Bồi thường và trả đũa thương mại.
11. Truy cập vào trang web www.wto.org tìm một Báo cáo bất kỳ của Ban hội thẩm
hoặc Cơ quan phúc thẩm có liên quan đến Việt Nam (chỉ cần nêu ngắn gọn):
 Các dữ kiện chính của vụ việc ? (Facts)
Vụ việc : Hoa Kì - Các biện pháp chống bán phá giá với tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt
Nam
- Nguyên đơn : Việt Nam


- Bị đơn : Hoa Kì
- Yêu cầu tham vấn ngày : 20/02/2012

- Ngày 16/02/2012, Việt Nam yêu cầu tham vấn với Hoa Kì về các biện pháp chống bán
phá giá áp dụng cho sản phẩm tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Ngoài hai lần rà soát hành
chính và rà soát cuối kì (sunset review), yêu cầu tham vấn lần này của phía Việt Nam còn dẫn
chiếu tới pháp luật, quy định, thủ tục và thực tiễn áp dụng của Hoa Kì, bao gồm cả phương pháp
“quy về 0” (zeroing).
Việt Nam khiếu nại rằng các biện pháp trên không tuân thủ các nghĩa vụ của Hoa Kì
theo:


Các điều I:1, VI:1, VI:2 và X:3(a) của Hiệp định GATT 1994;



Các điều 1, 2.1, 2.4, 2.4.2, 6, 9, 11, 17.6(i) và Phụ lục II của Hiệp định về chống bán phá
giá;



Điều XVI:4 của Thỏa thuận WTO;



Các điều 3.7, 19.1, 21.1, 21.3 và 21.5 của Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (DSU); và



Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.

Ngày 17/01/2013, Việt Nam yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) thành lập Ban
hội thẩm. Tuy nhiên, tại cuộc họp ngày 28/01/2013, DSB đã trì hoãn việc này.

Ngày 27/02/2013, Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên Hợp Quốc, Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva (Thụy Sỹ) đã đề nghị lập
Ban Hội thẩm tại phiên họp chính thức của Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) đối với Mỹ và
đã được DSB chấp thuận.
− Vấn đề đặt ra cho cơ quan xét xử để giải quyết ? (Issues)
Việt Nam đã đưa ra 11 khiếu kiện liên quan tới 05 vấn đề chính: (i) Phương pháp quy về
0; (ii) Thuế suất toàn quốc (NME-wide entity); (iii) Mục 129(c)(1) của Đạo luật thực thi các
Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay (URAA); (iv) Quyết định của cuộc rà soát cuối kỳ
(sunset review); (v) dỡ bỏ lệnh áp thuế chống bán phá giá cho một số doanh nghiệp Việt Nam.
− Cơ sở pháp lý để giải quyết ? (Law)
Hiệp định thành lập WTO: Điều XVI:4
Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (DSU): Điều 3.7, 19.1, 21.1, 21.3, 21.5
Hiệp định chống bán phá giá (Điều VI của GATT 1994): Điều 1, Phụ lục II, 6, 9, 11, 2.1,
17.6(i), 2.4, 2.4.2
GATT 1994: Điều VI:2, 1.1, VI:1,VI:2(a), X
− Kết luận của cơ quan giải quyết tranh chấp ? (Holdings)


Ngày 17/11/2014, Báo cáo của Ban hội thẩm được gửi tới các thành viên. Ban hội thẩm
nhận định rằng các biện pháp của Hoa Kỳ là không phù hợp với GATT 1994 và Hiệp định chống
bán phá giá; đồng thời, đề nghị Hoa Kỳ có các biện pháp liên quan phù hợp hơn với những nghĩa
vụ của nước này theo các Hiệp định.
− Lập luận chính của cơ quan giải quyết tranh chấp để đưa đến kết luận ?
(Reasoning)
Phán quyết sơ bộ giải quyết các phản đối của Hoa Kỳ về thẩm quyền Ban hội thẩm
Ngày 26/9/2013, Ban hội thẩm đã đưa ra một phán quyết sơ bộ trong đó bác bỏ lập luận
của Mỹ rằng lần rà soát hành chính thứ sáu không nằm trong phạm vi xem xét. Ban hội thẩm
cũng từ chối đưa ra bất kỳ quyết định nào đối với những phản đối còn lại của Hoa Kỳ trước
những ám chỉ của Việt Nam rằng nước này sẽ không theo đuổi những cáo buộc tương ứng.
Các khiếu nại đối với phương pháp quy về không trong rà soát hành chính

Đối với những cáo buộc của Việt Nam liên quan đến “bản thân quy định” (as such) của
phương pháp quy về không trong rà soát hành chính (vào tháng 4 năm 2012, USDOC đã sửa đổi
phương pháp tính toán của mình trong rà soát hành chính), Ban hội thẩm nhận định rằng Việt
Nam đã không chứng minh được có sự tồn tại của một biện pháp được coi như một quy tắc hay
tiêu chí chung và có sự áp dụng theo định hướng. Do đó, Ban Hội thẩm bác bỏ các cáo buộc của
Việt Nam rằng có sự vi phạm Điều 9.3 của Hiệp định Chống bán phá giá và Điều VI: 2 của
GATT 1994.
Đối với các lập luận về "cách áp dụng" (as applied) của Việt Nam, Ban Hội thẩm cho
rằng việc USDOC sử dụng phương pháp “quy về không” để tính toán biên độ phá giá của các
nhà sản xuất và xuất khẩu riêng lẻ của Việt Nam trong ba đợt rà soát hành chính là không tuân
thủ Điều 9.3 của Hiệp định chống bán phá giá và Điều VI:2 của GATT 1994.
Các khiếu nại đối với việc áp tỷ lệ biên độ phá giá chung của USDOC
Đối với việc gán tỷ lệ biên độ phá giá chung của USDOC, Ban hội thẩm kết luận rằng
Việt Nam đã thành công khi chứng minh được sự tồn tại của một tỷ lệ biên độ phá giá chung như
một quy ước hay tiêu chuẩn chung và có sự áp dụng theo định hướng là không hợp lý, và như
vậy Việt Nam đã chứng minh được rằng, trong các vụ kiện chống bán phá giá liên quan đến các
nước có nền kinh tế phi thị trường (NME), USDOC đã áp dụng giả định cho rằng tất cả các công
ty của một nước NME cấu thành nên một thực thể duy nhất, và do đó đã áp dụng một tỷ lệ biên
độ phá giá chung cho toàn bộ các công ty ở một nước NME. Ban hội thẩm cho rằng biện pháp
này khi áp dụng trong rà soát hành chính lần thứ tư, thứ năm và thứ sáu là không phù hợp với các
Điều 6.10 và 9.2 của Hiệp định chống bán phá giá.
Ban hội thẩm cho rằng Việt Nam đã không chứng minh được USDOC đã sử dụng một
phương pháp tương tự như một quy tắc hay một tiêu chuẩn chung và có sự áp dụng theo định
hướng liên quan đến cách tính tỷ lệ biên độ phá giá chung, đặc biệt đối với việc sử dụng các lập
luận sẵn có. Do đó, Ban hội thẩm đã bác bỏ lập luận của Việt Nam khi cáo buộc rằng biện pháp


này là không phù hợp với các Điều 6.8, 9.4 và Phụ lục II của Hiệp định chống bán phá giá. Tuy
nhiên Ban hội thẩm cho rằng tỷ lệ biên độ chống bán phá giá chung áp dụng cho Việt Nam và
các công ty Việt Nam trong những đợt rà soát hành chính là không phù hợp với Điều 9.4. Ban

hội thẩm cũng bác bỏ lập luận của Việt Nam rằng tỷ lệ trên vi phạm Điều 6.8 và Phụ lục II.
Khiếu nại liên quan đến mục 129 (c) (1) của URAA
Ban hội thẩm kết luận rằng Việt Nam đã thất bại trong việc chứng minh các lập luận của
mình là căn cứ theo sự thực, trong đó cho rằng mục 129 (c) (1) của URAA đã giúp chính quyền
Mỹ trì hoãn việc thực hiện các khuyến nghị của DSB đối với bút toán không được định trước.
Trong trường hợp trên, Ban hội thẩm bác bỏ cáo buộc của Việt Nam đối với quy định này của
luật pháp Hoa Kỳ.
Các khiếu nại đối với quyết định của USDOC trong rà soát cuối kỳ
Khi đánh giá các khiếu nại của Việt Nam đối với quyết định của USDOC trong vấn đề rà
soát cuối kỳ, Ban hội thẩm đã đồng ý với kết luận của các Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm
trong các vụ tranh chấp trước đó rằng cơ quan điều tra nên căn cứ trên các biên độ phá giá khi
quyết định một trường hợp có khả năng bán phá giá hay không, và việc tính toán những biên độ
phá giá này phải phù hợp với nguyên tắc của các hiệp định đã ký kết hoặc không vi phạm Điều
11.3. Ban hội thẩm cho rằng khi đưa ra quyết định một trường hợp có khả năng là bán phá giá,
USDOC đã dựa trên một số biên độ phá giá được xác định là trái với quy định của Hiệp định
Chống bán phá giá và GATT 1994, đặc biệt là biên độ phá giá với từng trường hợp cụ thể được
tính bằng phương pháp quy về không và tỷ lệ biên độ chống bán phá giá chung cho tất cả các
doanh nghiệp của Việt Nam. Ban hội thẩm kết luận rằng việc DOC dựa trên những biên độ phá
giá không thống nhất trong các quy định của WTO để xác định một trường hợp có khả năng bán
phá giá, là trái với Điều 11.3.
Yêu cầu hủy bỏ thuế chống bán phá giá đối với một số công ty cụ thể
Khi xem xét yêu cầu hủy bỏ thuế chống bán phá giá đối với một số công ty cụ thể của
Việt Nam, Ban hội thẩm lưu ý rằng Điều 11.2 buộc các cơ quan chức năng phải có nghĩa vụ tiến
hành rà soát lại sự cần thiết đối với việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá trong trường hợp: (i)
nhận được yêu cầu từ một bên liên quan; (ii) sau khi đã hết một khoảng thời gian hợp lý; (iii) yêu
cầu cơ quan điều tra xem xét một trong ba vấn đề được quy định tại dòng 2 Điều 11.2; và (iv)
yêu cầu kèm với thông tin xác thực chứng minh cần có sự rà soát lại.
Ban hội thẩm cho rằng những yêu cầu của các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam trong
đợt rà soát hành chính lần thứ tư và thứ năm đã thoả mãn được các điều kiện trên, nhưng
USDOC lại quyết định không thu hồi phán quyết và cũng không thực hiện bất kỳ việc xem xét

cần thiết nào đối với việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá; và do đó các nhà sản xuất và xuất
khẩu đã có đơn yêu cầu thu hồi phán quyết áp thuế chống bán phá giá khi không được kiểm tra
riêng lẻ trong rà soát hành chính. Trên cơ sở đó, Ban hội thẩm đã giữ nguyên khiếu nại của Việt
Nam khi cho rằng cách DOC giải quyết các yêu cầu thu hồi thuế chống bán phá giá của các nhà
sản xuất và xuất khẩu Việt Nam là trái với quy định của Điều 11.2.


Ban hội thẩm cũng xem xét sâu hơn đối với vấn đề nếu một cơ quan lựa chọn dựa vào các
biên độ phá giá được xác định trong tương lai theo Điều 11.2, thì cách xác định biên độ phá giá
đó phải nhất quán với nguyên tắc của các hiệp định. Theo đó, trong quá trình tố tụng, USDOC đã
dựa vào biên độ phá giá được tính bằng phương pháp quy về không khi xem xét yêu cầu thu hồi
lệnh áp thuế chống bán phá giá, do vậy Ban hội thẩm giữ nguyên khiếu nại của phía Việt Nam
đối với cách giải quyết của USDOC trước những yêu cầu từ Việt Nam.
Ngày 06/01/2015, Việt Nam đã thông báo cho DSB về quyết định kháng cáo lên Cơ quan
Phúc thẩm một số vấn đề về pháp luật và sự giải thích luật pháp trong báo cáo của Ban hội thẩm.
Ngày 03/3/2015, DOC đã công bố kết quả sơ bộ đợt rà soát hành chính lần thứ 9 đối với
sản phẩm tôm của Việt Nam, theo đó thuế chống bán phá giá cho khoảng thời gian từ 02/1/2013
đến 31/01/2014, với mức thuế trung bình xuống dưới 1%, giảm hơn 5 điểm phần trăm so với đợt
rà soát hành chính lần thứ 8.



×