Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 95 trang )

LUẬN VĂN:

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc
đảm bảo định hướng xó hội chủ nghĩa sự
phỏt triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam hiện nay


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong những năm
trước đổi mới, nhiều nước XHCN trong đó có nước ta ở những mức độ nhất định đã mắc
phải những lệch lạc, chủ quan duy ý chí. Đó là một trong những nguyên nhân đẩy nền
kinh tế - xã hội của đất nước rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng.
Nhận thức được những lệch lạc đó, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước và
nghiên cứu, nắm vững thực chất khoa học quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
đúng đắn. Đường lối chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng XHCN là sự vận dụng sáng tạo
quan điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong điều kiện nước ta hiện
nay. Đường lối đó đã mở ra triển vọng vừa giải phóng được mọi năng lực sản xuất, kích
thích kinh tế phát triển, vừa đảm bảo sự định hướng phát triển kinh tế theo mục tiêu chính
trị mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Qua 15 năm thực hiện đường lối đó, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể. Kinh tế phát triển, mục tiêu CNXH vẫn được giữ vững. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới
càng đi vào chiều sâu càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cần phải lý giải, giải quyết.
Thực tiễn cho thấy, quá trình phát triển nền kinh tế ở nước ta bên cạnh những mặt tích
cực còn bộc lộ những khuyết tật có nguy cơ chệch hướng XHCN.
Đối mặt với những nguy cơ này, trong cán bộ đảng viên cũng xuất hiện nhiều
băn khoăn, trăn trở: liệu chúng ta có định hướng chính trị được sự phát triển nền kinh tế


đó hay không? Liệu Nhà nước có quản lý, điều tiết được nền kinh tế đó theo quỹ đạo
XHCN hay không?
Hơn nữa, việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN là chưa có tiền lệ trong lịch sử.


Quá trình này đòi hỏi chúng ta vừa làm vừa phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra
hình thức và bước đi thích hợp. Quá trình đó tất yếu phải có sự lãnh đạo của chính trị
đóng vai trò "người cầm trịch" hướng vào mục tiêu CNXH. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị đặc biệt là tìm ra những giải pháp nâng cao vai
trò của chính trị trong lãnh đạo, quản lý, điều tiết kinh tế để vừa thúc đẩy sự phát triển
kinh tế vừa đảm bảo định hướng XHCN trong sự phát triển của nó vẫn là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Đó là lý do tại sao tác giả luận văn chọn đề tài " Mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc đảm bảo định hướng xó hội chủ nghĩa sự
phỏt triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay " là đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau liên quan
tới luận văn: Khổng Doãn Hợi, "Quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta", Tạp chí
Cộng sản, 6/1993; Lê Hữu Nghĩa, "Vai trò của chính trị trong việc bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, 5/1996; Nguyễn Tiến Phồn, "Vai trò lãnh
đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong điều kiện nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, số 3/1995; Nguyễn Trọng
Chuẩn, "Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và đổi mới chính sách
xã hội", Tạp chí Triết học, số 3/1996; Nguyễn Chí Mỳ, "Xu hướng và các nhân tố bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần", Tạp chí Cộng sản,
số 10/1997;...
Ngoài ra, còn có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đề cập đến các góc độ
khác nhau của đề tài: "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nội dung cơ bản và
những điều kiện chủ yếu để thực hiện", Luận án tiến sĩ Khoa học triết học chuyên ngành

chủ nghĩa cộng sản khoa học, của Nguyễn Văn Oánh; Hà Nội 1994 "Vai trò định hướng xã
hội chủ nghĩa của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với sự phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học của Huỳnh Thanh
Minh, Hà Nội, 1997; "Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự


phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ
Triết học của Nguyễn Văn Ninh, Hà Nội, năm 2001; "Vai trò định hướng xã hội chủ
nghĩa của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ
triết học của Lê Thị Hồng, Hà Nội, năm 2001.
Mặc dù các công trình nghiên cứu đã đề cập đến khá nhiều khía cạnh khác nhau
của đề tài, song việc nghiên cứu vấn đề "mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với việc
đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện
nay" vẫn là vấn đề bức xúc.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá
độ lên CNXH và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm tăng cường vai trò của chính trị trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích thực chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ
lên CNXH.
- Làm rõ sự nhận thức và vận dụng về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và những vấn đề đặt ra hiện
nay.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò của chính trị nhằm đảm bảo định
hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
3.3. Giới hạn của luận văn
Từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, sự nhận thức và vận dụng mối quan hệ đó vào thực tiễn đổi mới của
nước ta, luận án chỉ đi sâu nghiên cứu vai trò tác động của chính trị mà cụ thể là vai trò


của các chủ thể như Đảng và Nhà nước trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
4. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. Từ đó nêu bật vai trò quan trọng của
chính trị trong việc định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chính trị của Đảng và Nhà
nước trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mối quan hệ giữa kinh tế - chính trị.
Luận văn có tham khảo kết quả của nhiều công trình có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp như: Phân tích và tổng hợp, lịch sử
và lôgíc...
6. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc học tập và giảng dạy
môn triết học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 4 tiết.


Chương 1

quan hệ biện chứng giữa kinh tế
và chính trị trong quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều Thành phần ở Việt Nam

1.1. quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH
1.1.1. Quan điểm mác xít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong sự
phát triển xã hội
Kinh tế là một khái niệm được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngày nay, khái
niệm kinh tế được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
- Tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
- Toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ phận của nền kinh tế quốc dân.
Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế và vùng kinh
tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ chế quản lý kinh tế.
Như vậy nói đến kinh tế là nói đến điều kiện vật chất của đời sống xã hội, hay nói
cách khác, đó là phương tiện để con người tồn tại. Chẳng hạn, muốn tồn tại, con người cần
phải có cái ăn, cái mặc, thuốc men để chữa bệnh... Tất cả những gì thuộc kinh tế theo nghĩa
đó - còn gọi là tư liệu sinh hoạt - không phải do thần thánh sinh ra, mà do con người dùng
công cụ lao động của mình tác động vào tự nhiên tạo ra. Ngay cả công cụ lao động mà
con người dùng để làm ra của cải vật chất đó cũng do chính con người tạo ra.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người không thể tiến hành sản
xuất một cách biệt lập, riêng lẻ được, mà trái lại, muốn tiến hành sản xuất, con người
chẳng những phải có quan hệ với tự nhiên mà còn có quan hệ với nhau để cùng hoạt
động, trao đổi kinh nghiệm và kết quả lao động. Khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ
này C.Mác nói: "Người ta không thể sản xuất được, nếu không biết hợp tác với nhau theo


một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất
được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của
họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ

và quan hệ xã hội đó [28, tr. 552]. Vì lẽ đó, khái niệm "kinh tế" đã chứa đựng trong nó cả
những quan hệ giữa người với tự nhiên, lẫn những quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất, tức là quan hệ sản xuất. Khái niệm "kinh tế" cũng có thể dùng để chỉ
tổng thể các quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, tạo nên cơ sở kinh tế của xã hội
đó. C.Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội,
tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị
và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" [29, tr. 15].
Nói đến nền tảng kinh tế của xã hội cụ thể là nói đến toàn bộ những quan hệ sản
xuất cũng như sự tác động lẫn nhau giữa các quan hệ ấy trong một xã hội cụ thể. Trong
các chế độ xã hội tồn tại cho đến nay, bên cạnh quan hệ sản xuất thống trị vẫn còn quan
hệ sản xuất tàn dư của chế độ xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương
lai. Cho nên kinh tế của một xã hội cụ thể được đặc trưng, trước hết, bởi kiểu quan hệ sản
xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội ấy đồng thời bao gồm cả những quan hệ sản xuất tàn
dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Trong cơ sở kinh tế đó, cái giữ địa vị chi phối, có vai
trò chủ đạo và có tác dụng quyết định đối với sự phát triển kinh tế là quan hệ sản xuất
thống trị.
Tóm lại, khái niệm "kinh tế" có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau như đã trình
bày ở trên. Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng khái niệm "kinh tế" theo nghĩa là
toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội cụ thể.
Trong sự phát triển của lịch sử loài người không phải bao giờ cũng tồn tại chính
trị. Chính trị chỉ xuất hiện và tồn tại trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch
sử, đồng thời nó sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Trước khi xã hội có sự phân chia giai cấp và nhà nước, xã hội loài người chưa
xuất hiện vấn đề chính trị. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến một mức độ nhất định,
sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại năng suất lao động cao hơn. Xã hội bắt


đầu có của cải dư thừa, tạo điều kiện khách quan cho sự ra đời của chế độ tư hữu. Sự ra
đời của chế độ tư hữu là cơ sở của sự bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội, đồng thời là
nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các giai cấp đối kháng. Sự đối kháng giữa các giai

cấp ngày càng trở nên gay gắt, không thể điều hòa đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Từ
đó bắt đầu xuất hiện vấn đề chính trị.
"Chính trị" theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc nhà nước, là phạm vi
hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt
nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước [1, tr. 507].
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp, các tập đoàn, các tầng lớp xã hội có vị trí
khác nhau trong việc quản lý nhà nước. Do đó, các giai cấp, các tập đoàn xã hội đấu tranh
với nhau để giành, giữ và sử dụng nhà nước. Như vậy, chính trị là mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tập đoàn, các tầng lớp xã hội về mặt nhà nước.
Chính trị - những quan điểm, tư tưởng chính trị và những thiết chế xã hội tương
ứng với nó như nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị - xã hội... - là một bộ phận
quan trọng của kiến trúc thượng tầng, khái niệm chính trị được sử dụng trong luận văn
này là hiểu theo nghĩa đó.
Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử
triết học. Tất cả các nhà triết học trước Mác đều đi tìm nguyên nhân của các sự biến lịch
sử không phải trong kinh tế mà ở trong chính trị, tôn giáo hoặc trong các nhân tố tinh
thần khác.
Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi tìm nguyên
nhân của các động cơ tư tưởng trong lĩnh vực tồn tại xã hội, tìm nguyên nhân của chính
trị trong lĩnh vực kinh tế.
Theo C.Mác, kinh tế có vai trò hết sức to lớn đối với chính trị. Vai trò quyết định
của kinh tế đối với chính trị được thể hiện ở chỗ: Kinh tế tạo ra những cơ sở cho sự xuất
hiện giai cấp và đối kháng giai cấp; kinh tế tạo ra điều kiện để hình thành các chính đảng
của các giai cấp thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời kinh tế còn là cơ sở cho


sự ra đời của nhà nước... Do đó, khi nói về vai trò quyết định của kinh tế đối với những
quan hệ chính trị, Ph.Ăngghen viết: "Tôi đã nhận thấy rất rõ ràng rằng những sự kiện kinh tế
mà từ trước đến nay, những tác phẩm sử học cho là không đóng một vai trò nào, hoặc có
chăng nữa thì chỉ đóng một vai trò thảm hại, thì ít nhất trong thế giới hiện đại, cũng đã là một

lực lượng lịch sử quyết định" [31, tr. 321].
Trước hết, C.Mác và Ăngghen cho rằng, kinh tế là cơ sở xuất hiện giai cấp và đối
kháng giai cấp. Ph.Ăngghen viết: "Quan niệm duy vật về lịch sử xuất phát từ luận điểm
cho rằng, sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là cơ sở
của mọi chế độ, xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản
phẩm và cùng với sự phân phối ấy là sự phân chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều
được quyết định bởi tình hình: người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào và
những sản phẩm của sản xuất đó được trao đổi như thế nào" [30, tr. 371]. Như vậy, theo
Ph.Ăngghen, kinh tế - sản xuất và trao đổi là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp trong xã hội.
Vì vậy, cần tìm nguyên nhân của sự xuất hiện giai cấp, của những biến đổi xã hội, đặc
biệt là những biến đổi về chính trị, ở ngay trong kinh tế chứ không phải ở những lực
lượng thần bí, hay ở ý thức chủ quan của con người như các nhà xã hội học trước C.Mác
đã làm. Ph.Ăngghen viết: "Phải tìm những nguyên nhân cuối cùng của tất cả những biến
đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong đầu óc người ta, không phải ở
nhận thức ngày càng tăng thêm của người ta..., mà là trong những biến đổi của phương
thức sản xuất và phương thức trao đổi; cần phải tìm những nguyên nhân đó không phải
trong triết học, mà là trong kinh tế của thời đại tương ứng" [30, tr. 371].
Nhưng, kinh tế không chỉ là nguyên nhân làm xuất hiện giai cấp trong xã hội mà
còn là nguyên nhân làm nảy sinh đối kháng giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào chiếm được tư liệu sản xuất thì giai cấp đó chiếm được địa vị thống trị về kinh tế
trong đời sống xã hội. Và tất yếu dẫn đến sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa một bên là giai
cấp bị trị, không có tư liệu sản xuất với một bên là giai cấp thống trị, nắm toàn bộ tư liệu
sản xuất của xã hội. Sự đối lập về kinh tế không thể điều hòa được, tất yếu sẽ dẫn đến
đối kháng giai cấp về chính trị. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng kinh tế là "cơ
sở cho sự xuất hiện của những đối kháng giai cấp hiện nay" [31, tr. 321].


Trong đấu tranh giai cấp, tất yếu các giai cấp phải lập ra chính đảng của mình để
lãnh đạo phong trào. Như vậy, kinh tế còn là cơ sở gián tiếp của sự hình thành các chính
đảng của các giai cấp và cuộc đấu tranh chính trị giữa các chính đảng đó với nhau.

Thêm vào đó, sự ra đời của nhà nước, sự xuất hiện các quan điểm chính trị của
một giai cấp nhất định có tác dụng chi phối hoạt động của giai cấp, của nhà nước trong xã
hội... đều bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế.
Nhà nước ra đời cùng sự ra đời của chế độ tư hữu và sự phân chia xã hội thành
các giai cấp đối kháng. Giai cấp thống trị không thể duy trì địa vị thống trị nếu không dựa
vào bộ máy bạo lực và các công cụ của nó như quân đội, pháp luật... Tất cả những cái đó
đều bắt nguồn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ những nguyên nhân kinh tế. Do đó
Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Tất cả mọi quyền lực xã hội và tất cả mọi bạo lực chính trị
đều bắt nguồn từ những tiền đề kinh tế, từ phương thức sản xuất, trao đổi của mỗi một xã
hội nhất định trong lịch sử" [30, tr. 303]. Vì vậy, sự ra đời, tồn tại và tiêu vong của Nhà
nước không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân của một giai cấp nào, mà trái lại,
là một tất yếu khách quan, do yêu cầu phát triển tất yếu của các quan hệ kinh tế.
Không những giai cấp, đảng phái, nhà nước và đấu tranh giai cấp đều có nguồn
gốc từ kinh tế mà hệ tư tưởng chính trị chi phối mọi hoạt động chính trị như đấu tranh
giai cấp, hoạt động của Nhà nước, của các chính đảng... cũng đều là biểu hiện của kinh
tế. Mặc dù chưa trực tiếp chỉ rõ rằng, hệ tư tưởng chính trị là biểu hiện của kinh tế nhưng
khi nói về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của một xã hội nhất
định, C.Mác, Ph.Ăngghen đều coi chính trị (gồm có hệ tư tưởng chính trị và các thiết chế
tương ứng cũng như mối quan hệ nội tại giữa chúng) là một bộ phận của kiến trúc thượng
tầng được sinh ra từ quan hệ kinh tế nhất định và phản ánh những quan hệ kinh tế đó.
Vì lẽ đó, những mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị bao giờ cũng là sự phản ánh
của những mâu thuẫn về kinh tế, và ngược lại, những mâu thuẫn trong kinh tế tất yếu sẽ
dẫn đến đấu tranh giai cấp. Đúng như C.Mác đã khẳng định, mâu thuẫn gay gắt giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cuối cùng sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội. Do đó khi
nghiên cứu những cuộc đảo lộn trong xã hội thì bao giờ cũng phải phân biệt cuộc đảo lộn vật


chất trong những điều kiện kinh tế của sản xuất với những hình thái pháp lý, chính trị, tôn
giáo... tóm lại, với những hình thái tư tưởng, trong đó con người ý thức được cuộc xung
đột ấy và đấu tranh để giải quyết nó [29, tr. 15].

Như vậy, mọi nhân tố của chính trị, từ việc hình thành các giai cấp, đối kháng
giai cấp đến đấu tranh giai cấp; từ việc hình thành nhà nước, chính đảng đến những hoạt
động của Nhà nước, của chính đảng cũng như những quan điểm chi phối những hoạt
động đó và toàn bộ lịch sử nói chung đều có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ kinh tế.
Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà C.Mác cho rằng: "Phải lấy những quan hệ kinh tế và
sự tiến triển của những quan hệ ấy để giải thích chính trị và lịch sử chính trị chứ không
phải ngược lại" [31, tr. 321].
Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị không chỉ biểu hiện ở chỗ, kinh tế
sinh ra chính trị, mà còn biểu hiện ở chỗ, những biến đổi căn bản trong kinh tế sớm
muộn sẽ dẫn đến những biến đổi căn bản trong chính trị.
Theo Ph.Ăngghen, kinh tế là cái có trước, còn chính trị là cái có sau và là sự biểu
hiện của kinh tế; kinh tế là tính thứ nhất, còn chính trị là tính thứ hai, cho nên sự biến đổi
của chính trị bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi trong kinh tế. Nhưng không phải cứ có
sự biến đổi nào về kinh tế thì ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi về chính trị... Song, sự
biến đổi của kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chính trị.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi của chính trị càng diễn ra rõ rệt
hơn khi cơ sở kinh tế của xã hội này được thay thế bằng cơ sở kinh tế của xã hội khác. Sự
biến đổi này phù hợp với quy luật khách quan chi phối sự phát triển của xã hội - đó là
quy luật về sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. C.Mác
nói rằng, khi "cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị
đảo lộn ít nhiều nhanh chóng" [29, tr. 15]. Sự đảo lộn trước tiên của kiến trúc thượng
tầng khi cơ sở hạ tầng thay đổi trước hết là chính trị.
Trong tác phẩm "Chống Đuy-rinh", Ph.Ăngghen đã phê phán quan điểm của Đuy
Rinh cho rằng, chính trị quyết định kinh tế, tất cả các hiện tượng kinh tế đều được giải
thích bằng nguyên nhân chính trị. Để đả phá quan điểm đó, Ph.Ăngghen đã cho rằng "bạo


lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế trái lại, là mục đích" [30, tr. 226]. Và do đó "Để
thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương
tiện đơn thuần" [31, tr. 439].

Tóm lại, kinh tế có vai trò quyết định đối với chính trị, cho nên mọi hoạt động
chính trị đều nhằm đạt đến mục đích kinh tế.
Chính trị được sinh ra từ những nguyên nhân kinh tế và mọi sự biến đổi của nó
đều do kinh tế quyết định một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng chính trị không phải
là yếu tố thụ động mà có tác động trở lại kinh tế. Khẳng định điều đó Ph.Ăngghen viết:
"Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v... đều
dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và
ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế" [33, tr. 271].
Trong tất cả các nhân tố của chính trị, nhà nước đóng một vai trò hết sức quan
trọng và có tác dụng to lớn đối với kinh tế. Được nảy sinh trên một cơ sở kinh tế nhất
định, nhà nước tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, trong xã hội có
giai cấp đối kháng, các giai cấp đấu tranh với nhau để giành, giữ chính quyền cũng là để
tạo cho giai cấp mình một sức mạnh kinh tế. Vì thế, khi nói về cuộc đấu tranh chính trị
của giai cấp vô sản, Ph.Ăngghen viết: "Chúng tôi đấu tranh cho chuyên chính chính trị
của giai cấp vô sản để làm gì, nếu quyền lực chính trị bất lực về kinh tế? Bạo lực (tức là
quyền lực nhà nước) - cũng là một lực lượng kinh tế" [32, tr. 683]. Dựa vào nhà nước, giai
cấp nắm chính quyền không ngừng phát triển lực lượng kinh tế của mình ngày càng vững
mạnh. Khi kinh tế phát triển lại là cơ sở đảm bảo cho quyền lực nhà nước càng được tăng
cường mạnh mẽ. Có như vậy, địa vị và quyền lực kinh tế của giai cấp nắm chính quyền
nhà nước luôn luôn được đảm bảo vững chắc. Nghĩa là cơ sở kinh tế của một xã hội nhất
định được ổn định và vững chắc là phần lớn nhờ vào sự vững mạnh của chính quyền nhà
nước tương ứng.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ được thể hiện thông qua sự
tác động của nhà nước mà còn thể hiện ở vai trò của hệ tư tưởng chính trị - một nhân tố
quan trọng của chính trị. Nhưng hệ tư tưởng chính trị tự nó chưa có vai trò gì đối với kinh


tế. Vai trò tác động của hệ tư tưởng chính trị đối với kinh tế được thực hiện thông qua
thực tiễn chính trị của nhà nước, của chính đảng của một giai cấp nhất định. Chỉ thông
qua những hoạt động đó, hệ tư tưởng chính trị mới có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ

hoặc xóa bỏ chế độ kinh tế hiện đang tồn tại.
Cũng như sự tác động của nhà nước, hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp tác
động đến kinh tế theo hai chiều. Nếu hệ tư tưởng chính trị phản ánh một cách khoa học
và được cụ thể hóa trong các cương lĩnh, đường lối của các chính đảng, trong pháp luật
và các chính sách của nhà nước của giai cấp nắm chính quyền thì sẽ có tác dụng bảo vệ
và thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng. Ngược lại, sẽ cản trở sự phát triển của kinh
tế.
Như vậy, thông qua sự tác động của hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất
định trong xã hội, thông qua hoạt động của nhà nước, chính đảng của giai cấp đó, chính
trị có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế, ở một mức độ nhất định, chính trị
có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế. Vai trò của chính trị đối với kinh tế có thể tác động
theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Chính trị sẽ có tác động tích cực, nếu nó tác
động cùng chiều với các quy luật phát triển kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trái lại,
sự tác động ngược chiều của chính trị đối với các quy luật kinh tế sẽ dẫn đến sự xung đột
giữa kinh tế và chính trị, lúc đó chính trị là chướng ngại vật cản trở sự phát triển của kinh
tế.
1.1.2. Thực chất quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ ở
nước Nga, V.I.Lênin đã có nhiều đóng góp quan trọng vào lý luận về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị.
Theo V.I.Lênin, khi giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền, chưa nắm
được quyền lực nhà nước thì giai cấp vô sản chưa có quyền lực kinh tế. Giai cấp vô sản


chỉ có được quyền lực ấy khi hoàn thành nhiệm vụ chính trị là lật đổ chính quyền của giai
cấp tư sản và thiết lập nên chính quyền của giai cấp vô sản.
Trong tác phẩm "Làm gì", Lênin viết: "Từ chỗ quyền lợi kinh tế đóng một vai trò
quyết định, tuyệt nhiên không thể kết luận được rằng cuộc đấu tranh kinh tế (có tính chất
nghiệp đoàn) lại có một tầm quan trọng bậc nhất, vì những quyền lợi chủ yếu, "quyết định"

của các giai cấp, nói chung, chỉ có thể thỏa mãn được bằng những cuộc cải biến chính trị căn
bản; còn quyền lợi kinh tế trọng yếu của giai cấp vô sản, nói riêng, chỉ có thể thỏa mãn được
bằng cuộc cách mạng chính trị thay thế chuyên chính của giai cấp tư sản bằng chuyên chính
vô sản" [39, tr. 59]. Theo V.I.Lênin, trong bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào, giai
cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành chính quyền thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản
khác được đề lên hàng đầu, đó là thiết lập một chế độ xã hội mới cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp vô sản phải đưa ra được cách tổ chức lao động cao hơn,
tức là nhiệm vụ kinh tế [41, tr. 228]. Do đó, sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền
nhà nước, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị biểu hiện ở chỗ, giai cấp vô sản đã thiết lập
được bộ máy nhà nước của mình, có quyền sử dụng bộ máy nhà nước đó để giải quyết
những nhiệm vụ tiếp theo trong lĩnh vực kinh tế, tổ chức lại và phát triển kinh tế quốc dân,
quản lý sản xuất. Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chính trị giữ địa
vị phụ thuộc so với nhiệm vụ kinh tế. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: "nhiệm vụ quản lý
nhà nước trước hết và trên hết được quy lại thành nhiệm vụ thuần túy kinh tế, hàn gắn những
vết thương do chiến tranh gây ra trên đất nước, khôi phục lại các lực lượng sản xuất, tổ
chức công tác kiểm soát đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm, nâng cao năng suất
lao động. Nói tóm lại, nhiệm vụ đó được quy thành nhiệm vụ tổ chức lại nền kinh tế" [41,
tr. 63].
Như vậy, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước ngoặt chính trị dường như diễn
ra trước bước ngoặt về kinh tế. Từ đó, một số người có quan niệm sai lầm cho rằng, kiến
trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không phải do cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa sinh ra.
Ngược lại, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa còn tạo ra và quyết định cơ sở hạ tầng
của xã hội xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ quan niệm đó, họ đi đến kết luận: chính trị kiến trúc thượng tầng quyết định sự xuất hiện biến đổi của kinh tế, của cơ sở hạ tầng. Do


đó, muốn giải thích các hiện tượng xã hội, các hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng thì
phải xuất phát từ chính trị, từ kiến trúc thượng tầng của xã hội chứ không phải từ kinh tế,
từ cơ sở hạ tầng của xã hội.
Thực tiễn xây dựng CNXH ở các nước khác nhau cho thấy, quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa không thể được thiết lập trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản

xuất xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được thiết lập sau khi giai cấp vô sản đã đánh đổ được sự
thống trị của giai cấp thống trị. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản sử dụng
chính quyền đó để từng bước cải tạo, xóa bỏ quan hệ sản xuất đã lạc hậu, lỗi thời, cản trở
sự phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời thiết lập nên quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phù hợp với lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, có tính chất xã hội hóa ngày
càng cao, nhằm thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Rõ ràng, cơ sở khách quan để dẫn đến bước ngoặt chính trị, thay thế chính quyền
nhà nước của giai cấp tư sản bằng chính quyền nhà nước của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động, đã nảy sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, sự phát
triển cao của lực lượng sản xuất, cùng với tính chất xã hội hóa ngày càng cao của nó đã
dẫn đến mâu thuẫn trong sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn đó là mâu
thuẫn giữa các giai cấp ngày càng gay gắt và không thể điều hòa được. Nói một cách
khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất trong lòng xã hội tư bản chủ
nghĩa dẫn đến mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị. Đó là điều kiện khách quan dẫn đến
bước ngoặt chính trị trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, sau khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, các giai cấp vẫn
còn tồn tại, địa vị của các giai cấp có những thay đổi và quan hệ giữa các giai cấp cũng
biến đổi. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản là giai cấp bị tước đoạt hết mọi
quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, bị áp bức bóc lột và bị thống trị. Sau khi lật đổ
được sự thống trị chính trị của giai cấp tư sản, thiết lập được chính quyền của mình và sử
dụng chính quyền nhà nước đó, giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị xã hội về
chính trị; nắm lấy tư liệu sản xuất đã lớn mạnh và đã được xã hội hóa dưới xã hội tư bản
chủ nghĩa, biến nó thành tài sản xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi đó, giai cấp vô sản mới có thể


thực hiện được quyền lực kinh tế của mình. Và giai cấp vô sản chỉ có thể dựa vào cơ sở
kinh tế của mình và sử dụng nó để cải tạo nền kinh tế của đất nước theo hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì thế, quyền lực chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chỉ có thể
được đảm bảo, giai cấp vô sản chỉ có thể lãnh đạo toàn bộ xã hội, xây dựng xã hội mới
khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã nắm được trong tay mình quyền lực về kinh

tế.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị
còn biểu hiện ở chỗ, nhu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế quyết định phương
hướng hoạt động của đảng, của nhà nước của giai cấp vô sản, quyết định tính chất và khả
năng ảnh hưởng của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Nghĩa là, chính trị là sự phản
ánh tập trung của kinh tế. Sự phản ánh đó biểu hiện thông qua việc hình thành các tổ
chức chính trị, những chính sách, từ đó giải quyết những vấn đề, quyết định mục tiêu và
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Sự phản ánh tập trung nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế được thể hiện ở
các chính sách kinh tế, ở phương thức hoạt động của các bộ phận trong hệ thống chính
trị. Đúng như V.I.Lênin đã khẳng định: "Bất cứ một vấn đề chính trị nào cũng có thể là
một vấn đề tổ chức, và ngược lại... Không thể tách những vấn đề tổ chức khỏi những vấn
đề chính trị được. Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại" [42, tr. 147]. Trong thời kỳ
quá độ, mặc dù chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với kinh tế, song giải quyết những vấn đề
chính trị cũng chính là vì mục tiêu kinh tế: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh
tế".
Tuy nhiên, trong sự tác động biện chứng với kinh tế, chính trị không phải là nhân
tố thụ động mà là nhân tố tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế. Vai trò của chính trị
đối với kinh tế thể hiện trong luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin về vị trí ưu tiên của chính
trị đối với kinh tế.
Trong cuộc đấu tranh với những người theo "chủ nghĩa kinh tế", V.I.Lênin đã
nêu lên vai trò hàng đầu của chính trị đối với kinh tế của các giai cấp. Trong cuốn "Lại
bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơrốtxki


và Bukharin", tư tưởng về vai trò hàng đầu của chính trị so với kinh tế lại được V.I.Lênin
khẳng định một lần nữa. V.I.Lênin viết: "Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng
đầu so với kinh tế. Lập luận một cách khác đi, tức là quên mất những điều sơ đẳng của
chủ nghĩa Mác" [44, tr. 349].
Theo V.I.Lênin, vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế là việc thừa nhận ý

nghĩa quyết định của việc giành chính quyền nhà nước, thay thế chính quyền của giai cấp
tư sản bằng chính quyền nhà nước của giai cấp vô sản để thực hiện lợi ích kinh tế cơ bản
của giai cấp vô sản, để giải quyết những nhiệm vụ kinh tế. Vì vậy, cần phải có thái độ
chính trị đúng đắn đối với tất cả các vấn đề kinh tế, văn hóa, và tổ chức (đặc biệt là vấn
đề tổ chức). Do đó, khi nói về vai trò của công đoàn, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, xét về mặt
chính trị mà nói, nếu chúng ta có thái độ sai đối với công đoàn thì chính quyền Xô viết
và chuyên chính vô sản sẽ tiêu tan. Trong một nước nông dân như nước Nga, nếu có
sự chia rẽ giữa đảng với công đoàn, do sai lầm của đảng gây ra thì chắc chắn là chính
quyền xô viết sẽ bị sụp đổ [44, tr. 349]
Xuất phát từ luận điểm trên, V.I.Lênin đã kiên quyết chống lại "chủ nghĩa chiết
chung" của Bukharin. V.I.Lênin cho rằng, Bukharin là người đặt quan điểm chính trị bên
cạnh quan điểm kinh tế đối với công đoàn, mà không thấy được mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị. Ông coi đó là một sai lầm nghiêm trọng, bởi vì giai cấp vô sản
không thể giữ được chính quyền trong một nước nông dân, nếu có quan điểm chính trị sai
lầm. Những sai lầm trong chính trị (mà Tơrốtxki và Bukharin đã phạm phải) đã làm cho
Đảng cộng sản phải bỏ nhiệm vụ kinh tế và các công tác sản xuất vì mất thời gian để sửa
chữa những sai lầm đó. Do đó "không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp
nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng
không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất" [44, tr. 350].
Sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, được tự do về chính trị và hoàn
thành về căn bản nhiệm vụ đấu tranh lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản, thì những
vấn đề về kinh tế, về tổ chức nền kinh tế quốc dân, quản lý sản xuất, nổi lên vị trí hàng


đầu. V.I.Lênin gọi đó là nhiệm vụ chính trị chủ yếu hàng đầu sau khi giành chính quyền.
Ông viết:
Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt
kinh tế, để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn,
để sử dụng được những lúa mì và than đó được hợp lý hơn sao cho không có
người đói nữa. Chính trị của chúng ta phải là như vậy... Chúng ta sẽ chuyển

hướng sang thực hiện chính trị trong lĩnh vực kinh tế [43, tr. 483].
Vì thế, theo V.I.Lênin, chính cơ sở của chính quyền, cũng như thực chất của thời
kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa lại là ở chỗ, các nhiệm
vụ chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với các nhiệm vụ kinh tế [40 tr. 162].
Vấn đề đặt ra là, phải chăng tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có chứa đựng mâu thuẫn? Bởi vì,
theo cách diễn đạt của V.I.Lênin, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với
kinh tế, trong khi đó, ở một chỗ khác, V.I.Lênin lại cho rằng, trọng tâm của chính trị cần
phải chuyển sang lĩnh vực kinh tế và các nhiệm vụ chính trị lại giữ địa vị phụ thuộc so
với các nhiệm vụ kinh tế.
Trên thực tế, những luận điểm đó của V.I.Lênin không có gì mâu thuẫn nhau cả.
Bởi vì, mỗi tư tưởng của V.I.Lênin đều xuất hiện trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và
đều đề cập đến nhiệm vụ cụ thể của giai cấp vô sản. Trong thời kỳ giai cấp vô sản chưa
được tự do về chính trị - tức là khi vấn đề chính quyền chưa được giải quyết thì vấn đề
giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm của Đảng cộng sản của giai cấp vô sản. Toàn bộ
hoạt động của Đảng cộng sản của giai cấp vô sản đều tập trung vào nhiệm vụ đó. Khi đó,
bọn tư sản, địa chủ là người chủ trong nền kinh tế và quản lý sản xuất, vì thế, nhiệm vụ
cải tạo nền kinh tế chưa được đặt ra một cách trực tiếp và cấp thiết, vấn đề kinh tế lúc bấy
giờ chỉ là nhu cầu kinh tế hàng ngày- như tiền lương, bánh mì, giảm giờ làm, v.v... gắn
liền vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Bởi vì, "Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa giai
cấp vô sản là một giai cấp bị áp bức, một giai cấp bị tước đoạt mất mọi quyền sở hữu tư


liệu sản xuất" [42, tr. 319]. Lúc bấy giờ, giai cấp vô sản không có quyền lực về kinh tế
và quyền lợi về chính trị thì bị bó hẹp trong vòng thống trị của giai cấp tư sản.
Sau khi giành được chính quyền, ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, những vấn đề kiểm tra, kiểm soát của giai cấp vô sản đối với nền sản xuất,
đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, mà trong đó, giai cấp vô sản là người lãnh
đạo cách mạng và đa số nhân dân lao động là người làm chủ, mới trở thành hiện thực.
Công cuộc xây dựng nền kinh tế là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Khi nói về thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin cho xây dựng nền kinh tế là hoạt
động chính trị có ý nghĩa nhất. Ông viết: "Dưới chế độ tư sản, người kinh doanh là bọn
chủ chứ không phải là những cơ quan của nhà nước, nhưng trong nước ta, công tác kinh tế
phải là sự nghiệp chung của tất cả mọi người. Đối với chúng ta, đó là hoạt động chính trị có
ý nghĩa nhất" [45, tr. 396-397]. Khi đã trở thành giai cấp thống trị - nắm lấy quyền sử dụng
bộ máy nhà nước và trở thành giai cấp lãnh đạo toàn xã hội, thông qua tổ chức Đảng của
mình - giai cấp vô sản hướng nhiệm vụ của mình vào việc giải quyết những vấn đề cấp
thiết, mấu chốt trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Bởi vì,
theo quan điểm của V.I.Lênin, "ngày nay và có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử cận đại của
các dân tộc văn minh, đây là một sự quản lý trong đó cái có ý nghĩa trọng đại hơn cả
không phải là chính trị mà là kinh tế" [41, tr. 162].
Tuy nhiên, trong điều kiện của một nước tiểu nông như nước Nga V.I.Lênin cho
rằng, giai cấp vô sản không thể củng cố nền sản xuất, công xưởng và nhà máy, không thể
phát triển được nền kinh tế quốc dân của nước mình, nếu không hồi sinh ở một mức độ
nhất định giai cấp tiểu tư sản và sự trao đổi của nó. Chính vì vậy, giai cấp vô sản cần phải
có một thời kỳ dài để chuyển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sang kinh tế xã hội chủ nghĩa,
cải tạo chế độ xã hội cũ và xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Như
vậy, về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại đan xen cả những yếu tố của
xã hội cũ và những nhân tố của xã hội mới. Theo V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ đó, có
những bộ phận, những phần, những mảnh của cả kinh tế tư bản chủ nghĩa lẫn kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Do đó, việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; cải tạo toàn bộ nền
kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa trở


thành chỉ đạo chi phối thắng lợi các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, là những
nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp, không thể hoàn thành trong một thời gian ngắn.
Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để phát triển được kinh tế, phát
triển được đời sống xã hội, thì mọi hoạt động của Đảng, của nhà nước, của giai cấp vô
sản phải được tổ chức một cách thận trọng, tránh những sai lầm trong chính trị, vì bất cứ
một sai lầm nào trong chính trị cũng gây khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế.

Trong khi nêu lên vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế, V.I.Lênin cho
rằng, trong thời quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, việc củng cố chính
quyền vô sản là tuyệt đối cần thiết. Bởi vì, sau khi giai cấp vô sản giành được chính
quyền, các giai cấp vẫn còn tồn tại, mặc dù quan hệ giữa giai cấp có những biến đổi; sự
chống đối của giai cấp bóc lột (đã mất chính quyền) ngày càng gay gắt; nền kinh tế còn
tồn tại nhiều thành phần. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò to lớn đối với sự
phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong thời kỳ này, sự lãnh đạo nền kinh tế quốc dân là
nhiệm vụ chủ yếu và cơ bản của Đảng cộng sản và của nhà nước xã hội chủ nghĩa, vì
công tác kinh tế là sự nghiệp của nhân dân lao động. Do đó, nếu giai cấp vô sản không
thiết lập bộ máy nhà nước của mình và sử dụng nó để quản lý, kiểm kê, kiểm soát được
các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối sản phẩm trong nền kinh tế thì giai cấp vô sản
không thể nào giữ vững được chính quyền và không thể xây dựng được chế độ xã hội chủ
nghĩa mà còn có nguy cơ quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này đã được
V.I.Lênin nêu rõ trong tác phẩm "Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết". Ông
viết "Nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc sản xuất
và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ
không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách của chủ nghĩa tư
bản" [41, tr. 224].
Rõ ràng, cũng như nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có chức
năng kinh tế. Song nhà nước xã hội chủ nghĩa khác về căn bản với nhà nước tư sản (đặc
biệt là nhà nước tư sản trong giai đoạn độc quyền) trong việc thực hiện chức năng kinh
tế. Nhà nước tư sản cũng thực hiện chức năng kinh tế, sử dụng hàng loạt những đòn bẩy


kinh tế để quản lý kinh tế, phân phối lại thu nhập quốc dân, nhưng nhằm phục vụ lợi ích
của bọn độc quyền, để tăng cường bóc lột người lao động. Cái chính trong hoạt động của
nhà nước tư sản là trấn áp những người bị bóc lột - tức đa số những người lao động nhằm bảo vệ nền tảng của chế độ tư bản chủ nghĩa. Trái lại, hoạt động của nhà nước xã
hội chủ nghĩa trong việc quản lý nền kinh tế đất nước nhằm phục vụ lợi ích của đa số
nhân dân lao động; còn chức năng trấn áp của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với sự
chống đối của giai cấp bóc lột chỉ là hoạt động thứ yếu; nó sẽ mất đi cùng với việc xóa bỏ

giai cấp bóc lột.
Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa chủ yếu thực hiện chức năng quản lý kinh
tế, xây dựng đất nước. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước gắn liền với sự quá độ từ nền kinh tế nhiều
thành phần sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất. Bởi vì, theo V.I.Lênin, chủ
nghĩa xã hội là sự xóa bỏ giai cấp, nhiệm vụ này không phải làm một lần là xong ngay
được. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn; nó chỉ có thể thực hiện được bằng cách cải tạo
toàn bộ nền kinh tế xã hội, bằng cách chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ, cá thể, riêng lẻ
sang nền kinh tế tập thể lớn [42, tr. 315-316]. Có như vậy, Đảng và Nhà nước của giai
cấp vô sản mới có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình là xây dựng chủ nghĩa cộng
sản. Vì chủ nghĩa cộng sản không thể xây dựng trên cơ sở của một nền kinh tế nghèo nàn,
lạc hậu mà chỉ có thể được ra đời trên cơ sở phát triển cao của nền sản xuất. Điều này đã
giải thích tại sao Đảng và Nhà nước của giai cấp vô sản lại nêu lên nhiệm vụ chủ yếu của
mình trong thời kỳ quá độ là xây dựng nền kinh tế quốc dân, kiểm kê, kiểm soát đối với
sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phổ biến kinh nghiệm thực tiễn... Việc xóa bỏ
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm
thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào việc xây dựng cơ sở kinh tế kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Những nhiệm vụ đó được giải quyết có hiệu quả hay
không lại tùy thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vào vai trò quản lý của nhà nước.
Do đó, sự hoạt động của Đảng cộng sản, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò hết
sức to lớn để tạo ra sự phát triển của kinh tế - xã hội; tạo ra sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội đối với chủ nghĩa tư bản. Vì thế, V.I.Lênin đã cho rằng, để có thể chiến thắng được


giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải đưa ra và thực hiện cho được một kiểu tổ chức lao
động xã hội mang lại năng suất cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Rõ ràng, với những chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản, của nhà nước xã hội
chủ nghĩa, với sự kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của giai cấp vô sản có vai trò rất to lớn trong sự phát triển nền kinh tế quốc dân, trong
cuộc đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản, trong việc bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, theo quan điểm của V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực của đời sống xã hội có mối quan hệ biện chứng
với nhau, trong đó kinh tế, xét đến cùng, là nhân tố quyết định sự hình thành phát triển
của chính trị, song chính trị, có vai trò hết sức to lớn, nó tác động trở lại đối với sự phát
triển của kinh tế. Điều này thể hiện trước hết là ở chỗ; mọi hoạt động kinh tế, mọi sự phát
triển của nền kinh tế không chỉ gắn liền với việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
các giai cấp, các dân tộc, mà còn là điều kiện đảm bảo cho hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa vững mạnh, đảm bảo cho chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong
thực tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó cũng chính là cơ sở vững chắc cho
sự thắng lợi của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa đối với chế độ xã hội cũ. Tất
cả những điều đó có ý nghĩa chính trị to lớn. Ngược lại, chính sách kinh tế của Đảng
cộng sản, sự quản lý của nhà nước, v.v... đối với kinh tế đều tạo ra động lực thúc đẩy cho
kinh

tế



hội

chủ

nghĩa

phát

triển

trong


thời

kỳ

quá

độ

lên

chủ nghĩa xã hội. Vì thế, V.I.Lênin quan niệm rằng, chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế và chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Đó là hai kết
luận cơ bản của Lênin về biểu hiện của sự tác động biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Thực trạng của sự nhận thức và vận dụng quan điểm mác xít về quan hệ
giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam


1.2.1. Phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN - một tất
yếu khách quan
Tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị đã trở thành lý luận khoa học và cách mạng cho việc nhận thức và cải tạo xã hội,
đặc biệt là đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN.
Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất, trên cơ sở nhận định đúng những
đặc điểm cơ bản của tình hình cách mạng đất nước và xu thế của thời đại, Đảng ta chủ
trương đưa cả nước tiến lên CNXH, đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế trong cả
thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy nhiên, trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn,
bên cạnh những thành công, Đảng và Nhà nước ta cũng đã vấp phải một số những hạn
chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Trong một thời gian dài

(trước thời kỳ đổi mới) chúng ta đã mắc phải những lệch lạc cực đoan, chủ quan, duy ý
chí, cường điệu vai trò của chính trị, ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng "chính trị là
thống soái". Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến sâu sắc chế độ xã hội cũ và xây
dựng chế độ xã hội mới, là thời kỳ còn tồn tại đan xen giữa những yếu tố của chế độ cũ
lẫn những nhân tố của chế độ xã hội mới, CNXH mới ra đời nhưng còn non yếu... do đó,
chính trị đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, chính trị phải trên cơ sở phản
ánh kinh tế tức là phản ánh thực trạng kinh tế và các quy luật kinh tế khách quan mới có
tác động tích cực. Ngược lại, nếu chính trị chỉ dựa trên ý chí, mong muốn chủ quan, bất
chấp kinh tế thì như thực tế đã chỉ ra, sẽ đẩy nền kinh tế - xã hội rơi vào tình trạng khủng
hoảng trì trệ - thực tế nước ta trước thời kỳ đổi mới đã chứng tỏ điều đó.
Thời kỳ quá độ lên CNXH phải tiến hành cải tạo XHCN nền kinh tế của đất nước
đó là sự cần thiết. Nhưng cải tạo kinh tế phải vận dụng một cách chủ động, sáng tạo các
quy luật kinh tế mà trước hết là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
của lực lượng sản xuất. Song, quy luật này ở nước ta chưa được nhận thức và vận dụng
một cách đúng đắn. Thực tế lực lượng sản xuất ở nước ta còn ở trình độ thấp, sản xuất
manh mún, công nghệ lạc hậu, tính chất xã hội hóa chưa cao, xóa bỏ một cách nóng vội
các thành phần kinh tế phi XHCN, xây dựng một cách ồ ạt nền kinh tế thuần nhất XHCN


dưới hai hình thức tập thể và quốc doanh là không phù hợp. Vả lại, trong xây dựng quan
hệ sản xuất XHCN không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức, phân phối; quản lý
điều hành nền kinh tế theo kiểu kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bằng mệnh lệnh hành
chính... đã tạo thành lực cản kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, kìm hãm sức
sản xuất của xã hội, năng suất lao động thấp và theo đó, thu nhập và đời sống của nhân
dân ngày càng giảm sút.
Qua kinh nghiệm thực tiễn với những thành công và thất bại, trong đường lối đổi
mới Đảng ta đã nhận thức được rằng "lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng
bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất" [9, tr.
57]. Từ đó, Đảng ta cũng nhận rõ, muốn phát triển lực lượng sản xuất, bên cạnh việc thay

đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, cần phải chú trọng đến việc thay đổi cơ cấu thành
phần kinh tế, coi trọng các hình thức kinh tế trung gian quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô
nhỏ đến quy mô lớn. Trên cơ sở vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Đảng ta xác định:
Đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong
suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm
cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
luôn luôn có tác động thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất [9, tr. 58].
Xuất phát từ những bài học kinh nghiệm trong cải tạo XHCN trong những năm
1976 - 1986, từ thực trạng kinh tế - xã hội đất nước, từ sự vận dụng quan điểm của V.I.
Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần như một đặc trưng của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã
đề ra chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế nhằm khai thác mọi khả
năng của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần đã được Đảng ta coi "là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần giải
phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý" [9, tr. 56], nhằm khắc phục những sai lầm trong việc cải tạo và xây dựng CNXH


trước đây, khai thác và phát huy được hết công suất, thiết bị, đất đai, tài nguyên, nguồn
nhân lực cho sự phát triển kinh tế.
Quán triệt quan điểm có tính nguyên tắc nêu trên, Đảng ta đã chủ trương chuyển
từ nền kinh tế thuần nhất XHCN, kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN.
Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước ở nước ta là sự trở lại với chính mình để tiến lên CNXH một cách
đúng đắn có hiệu quả hơn, để sớm đạt được mục tiêu XHCN chứ không phải là chúng ta
từ bỏ mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Điều đó có nghĩa là,
Đảng ta sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần như một phương tiện để đạt được mục
tiêu XHCN, chứ không phải là thay đổi mục tiêu XHCN.

Chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là chủ trương phản ánh đúng
đắn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta.
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Tuy CNXH đang lâm
vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, toàn diện với sự sụp đổ của của hàng loạt các nước
XHCN, song tính chất của thời đại vẫn không thay đổi. Lựa chọn con đường phát triển
đất nước theo định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn, vừa phù hợp với xu thế của
thời đại, vừa đáp ứng nguyện vọng lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Bối
cảnh thế giới với xu hướng toàn cầu hóa đã mở ra nhiều khả năng mới để các nước lạc
hậu có thể tận dụng những cơ hội, rút ngắn khoảng cách vươn tới trình độ văn minh, hiện
đại. Song, đó cũng là quá trình lâu dài, gian khổ, đầy khó khăn, phức tạp.
Để thực hiện bước quá độ lên CNXH, trước hết cần phải có lực lượng sản xuất
phát triển. Chúng ta tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, đó là xu hướng và khả năng
khách quan của thời kỳ lịch sử hiện nay. Song chúng ta không thể bỏ qua những tiền đề
về kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội cần thiết cho sự quá độ đó. Lực lượng sản xuất ở


×