Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một Số Ý Kiến Về Công Tác Kiểm Toán Nhà Nước Trong Thời Kì Hiện Nay Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.83 KB, 22 trang )

Hội khoa học kinh tế việt nam
Chuyên đề cuối khóa
Lớp bồi dỡng kế toán trởng

đề tài: : Một số ý kiến về công tác kiểm toán nhà nớc trong thời kì
hiện nay ở Việt Nam

họ và tên :h.Q.V
hiện là sinh viên lớp: tài chính 40c
khoa :ngân hàng-tài chính.trờng đh ktqd

Năm 2001


lời mở đầu
Thuật ngữ kiểm toánđã đợc xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Nó đợc ra đời
từ thế kỷ thứ III trớc công nguyên. Khi đó, các nhà cầm quyền La Mã đã
tuyển dụng các quan chức để kiểm tra độc lập về tình hình tài chính và nghe
thuyết trình của họ về kết quả kiểm tra độc lập. Vì vậy trong tiếng Anh từ
Auditcó gốc la tinh là Audie(nghe)
ở Vn, kiểm toán mới xuất hiện chính thức từ tháng 5-1991. Tuy nhiên, nó
đợc phát triển một cách nhanh chóng do việc đòi hỏi và nhu cầu cấp thiết của
nền kinh tế để có thể thờng xuyên theo dõi kiểm tra giám sát của kế toán 1
cách chính xác.Từ đó mà đa ra đợc những đánh giá xác thực nhất về tình hình
tài chính của các tổng công ty, các doanh nghiệp, các cở sở sản xuất kinh
doanh để có hớng thay đổi quy cách hoạt động của đơn vị đó .
Một trong những cơ quan kiểm toán ra đời đầu tiên và có uy tín chất nhất ở
Việt Nam đó là kiểm toán nhà nớc. Kiểm toán nhà nớc đợc thành lập theo
nghị định 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ. Nó có chức năng là xem xét
việc chấp hành các chính sách chế độ nguyên tắc quản lí kinh tế tài chính của
nhà nớc ở các đơn vị sử dụng vốn của nhà nớc và kinh phí do nhà nớc cấp. Và


kiểm toán hoạt động để đánh giá tính liên tục và hiệu quả trong hoạt động của
các đơn vị nói trên.
Kiểm toán nhà nớc sẽ nhận xét đánh giá và xác nhận việc chấp hành các
chính sách chế độ và nguyên tắc quản lí kinh tế tài chính của nhà nớc.
Bên cạnh đó , kiểm toán nhà nớc còn có quyền góp ý với các đơn vị đợc
kiểm toán sửa chữa các sai phạm, kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lí các
sai phạm, đề xuất với thủ tớng chính phủ sửa đổi cải tiến chế độ kinh tế tài
chính, chế độ kiểm toán nếu cần thiết.
Để hiểu rõ đợc vai trò của kiểm toán nhà nớc trong thời kì hiện nay, em xin
thực hiện đề tài : Một số ý kiến về công tác kiểm toán nhà
nớc trong thời kì hiện nay ở Việt Nam
Với những nội dung chủ yếu sau đây:


Phần I: Lý luận chung về kiểm toán.
I.
Lịch sử phát triển
II.
Bản chất và chức năng của kiểm toán
III. Sự cần thiết của kiểm toán
IV. Kiểm toán nhà nớc
Phần II: Thực trạng kiểm toán ở Việt Nam và một số ý kiến đề xuất
I.
Thực trạng kiểm toán nhà nớc ở Việt Nam
II.
Tham khảo kinh nghiệm nớc ngoài
III. Một số ý kiến của bản thân


Phần I : Lý luận chung về kiểm toán và sự cần thiết của

kiểm toán Nhà nớc
I- Lịch sử phát triển của kiểm tra tài chính (Kế toán)
Quan niệm về kiểm tra tài chính nói chung và kiểm tra kế toán nói riêng ,
một mặt kiểm tra là yêu cầu tất yếu của quản lí , mặt khác kiểm tra có thể
thực hiện ngay trong các hoạt động quản lí hoặc tách biệt thành hoạt động
độc lập. Mức độ độc lập hay phụ thuộc của hoạt động kiểm tra trong quản lí
là tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lí và khả năng thoả mãn nhu cầu thông tin đó
ở các phân hệ quản lí trớc hết là kế toán. Lịch sử kế toán và kiểm tra đã
chứng minh quan hệ hữu cơ này .
1.Thời kỳ cổ đại :
Kế toán đợc thực hiện chủ yếu bằng những dấu hiệu riêng trên các sợi dây ,
thân cây , lá câyHình thái này phù hợp với giai đoạn đầu củathời kỳ cổ đại
do xã hội còn cha có của cải thừa , nhu cầu kiểm tra trong quản lí còn ít và ở
mức đơn giản . Tuy nhiên vào cuối thời kỳ cổ đại , sản xuất đã phát triển ,
của cải ngày càng thừa nhiều , ngời sở hữu tài sản và ngời quản lí cất trữ tài
sản đã tách rời nhau . Nhu cầu kiểm tra tài sản và các khâu thu chi ngày
càng phức tạp . Hình thức kế toán đơn giản không đáp ứng đợc nhu cầu mới
của quản lí , kiểm tra độc lập đã phát sinh ở :
+La mã : Vào thế kỷ III trớc công nguyên , các nhà cầm quyền đã
tuyển dụng những quan chức chuyên môn kiểm tra và ttrình bày lại kết
quả kiểm tra .Từ Audit có nguồn gốc từ đây .
+Pháp : Từ 768-814, vua đã tuyển các quan chức cao cấp phụ trách
giám sát công việc quản lí đặc biệt là các nghiệp vụ tài chính của các
quan chức địa phơng và trình bày lại các kết quả với nhà vua .Thế kỷ III
sau công nguyên,các vị Nam tớc hàng năm đọc công khai báo cáo về tài
sản trớc các kiểm tra viên.
+Anh :theo văn kiện của nghị viện, nhà vua cho các Nam tớc quyền
tuyển dụng các kiểm tra viên.
2.Thời kỳ trung đại :
Đã có sự hoàn thiện và phát triển dần của kế toán , chẳng hạn với các khoản

giao dịch đã buộc hai bên phải cùng ghi sổ đã hợp thức đợc các quan hệ đối
chiếu .
3.Thời kỳ cận đại(từ thế kỷ 16 trở đi):
Sự xuất hiện của kế toán đã đáp ứng đủ nhu cầu quản lí và an toàn tài sản
bấy giờ. Tiếp đó từ thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ 20, các phơng pháp kế toán
và kỹ thuật thông tin đã phát triển đến mức tinh xảo đáp ứng ngày càn ững g
tốt hơn nhu cầu quản lí.


Thế giới năm 30- thế kỷ XX này kiểm tra lại có bớc nhảy đột biến: sự phá
sản của các tổ chức tài chính và khủng hoảng kinh tế ,suy thoái về tài chính
là dấu hiệu chứng minh yếu điểm của kế toán và kiểm tra so với yêu cầu
quản lí mới.
ở Mỹ, sau cơn sốt nặng nề về tài chính năm 1929, bắt đầu từ năm 1934, uỷ
ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ(SEC), đã đợc thành lập và quy chế và kiểm
toán bên ngoài đã bắt đầu có hiệu lực . Đồng thời trờng đào tạo kế toán viên
công chứng của Mỹ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm
toán tài khoản của các công ty.
Trong các xí nghiệp ,việc kiểm tra của các kiểm toán viên nội bộ cũng bắt
đầu phát triển.Năm 1941, trờng đào tạo kế toán viên nội bộ đợc thành lập
cũng công bố việc xác định chính thức về chức năng của kế toán nội bộ.
Từ năm 1950, nghiệp vụ ngoại biên đợc bổ xung liên tục về cấu trúc , phơng pháp và kỹ thuật. Đồng thời , hoạt động nội kiểm cũng vợt qua giới hạn
chỉ ở lĩnh vực kế toán tài chính mở rộng sang việc đổi soát và đánh giá cả hệ
thống quản lí của doanh nghiệp.
II- Bản chất và chức năng của kiểm toán
1.Bản chất của kiểm toán .
Thuật ngữ kiểm toán thực sự mới xuất hiện và đợc sử dụng ở nớc ta từ
những đầu năm của thập kỷ 90 này.Vì vậy trong cách hiểu và cách dùng khái
niệm này cha đợc thực sự thống nhất. Có thể hiểu về Kiểm toán theo 3 quan
niệm sau:

1.1.Quan điểm thứ nhất:
Kiểm toán đợc hiểu theo đúng thời cuộc của nó: phát sinh cùng với cơ chế
thị trờng. Đó là kiểm toán của Vơng quốc Anh:
Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài
chính của một xí nghiệp do một kế toán viên đợc bổ nhiệm để thực hiện
những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan.
Theo các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ: Kiểm toán là một quá trình mà qua
đó một ngời độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về thông tin có
thể lợng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích
xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lợng hoá với những
tiêu chuẩn đã đợc thiết lập.
Là quan điểm chính thống trong giáo dục và đào tạo kế toán ở Cộng hoà
Pháp:Kế toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ
chức do một ngời độc lập ,đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tién hành
để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính
thực tế không che dấu sự gian lận và chúng đợc trình bày theo mẫu chính thức
của luật định
Các định nghĩa nêu trên tuy có khác nhau về từ ngữ với ý nghĩa cụ thể xác
định song chung quy đều bao hàm vào các khái niệm kế toán với 5 yếu tố cơ
bản sau:


-Chức năng của kế toán là xác minh và bày tỏ ý kiến. Đây là yếu tố cơ
bản chi phối cả quá trình kiểm toán và bộ máy kiểm toán .
-Đối tợng trực tiếp của kiểm toán là các bảng khai tài chính của các tổ
chức hay một thực thể kinh tế.Thông thờng, các bản khai này đợc hiểu là
các bảng tổng hợp kế toán (bảng cân đối ,bảng kết quả).
-Khách thể kiểm toán đợc xác định là thực thể kinh tế hoặc một tổ
chức.Thực thể hay tổ chức ở đây đợc giải thích là thực thể pháp lí (một
công ty, một ngời sở hữu) hoặc một bộ phận phụ thuộc thậm chí có thể

một cá nhân.
-Ngời thực hiện hoạt động kế toán là những kiểm toán viên độc lập ,có
nghiệp vụ.Quan điểm độc lập ở đây thờng đợc giải thích là có thía độ độc
lập hay tính độc lập về nghiệp vụ; còn trình độ nghiệp vụ thờng đợc giải
thích ở trình độ lựa chọn và tập hợp bằng chứng kế toán.
-Cơ sở thực hiện kiểm toán là những luật định ,tiêu chuẩn hay chuẩn mực
chung.Các luật định hay chuẩn mực này đợc giải thích với khái niệm rộng
bao gồm các trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán hoặc rộng hơn tuỳ theo
từng cuộc kiểm toán.
1.2.Theo quan điểm thứ hai:
Kế toán đợc đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, một chức năng của bản thân kế
toán ,một thuộc tính cố hữu của kiểm toán . Nội dung của hoạt động này là rà
soát các thông tin từ chứng từ kế toán đến tổng hợp cân đối kế toán. Đây là quan
điểm mang tính truyền thống trong điều kiện tra cha phát triển và trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung trong đó nhà nớc đóng vai trò quan trọng. Chức năng kiểm
tra của nhà nớc đợc thực hiện trực tiếp với mọi thực thể kinh tế xã hội thông
qua nhiều khâu kể cả kiểm tra kế hoạch , kiểm tra thực hiện kế hoạch, xét duyện
hoàn thành kế hoạch, kể cả kiểm tra tài chính thờng xuyên.
1.3.Quan điểm thứ ba: Đây là quan điểm hiện đại , phạm vi kế toán rất rộng
bao gồm những lĩnh vực chủ yếu sau:
-Kiểm toán về thông tin: hớng vào việc đánh giá tính trung thực và hợp
pháp của các tài liệu, làm cơ sở pháp lí cho việc giải quyết các mối quan
hệ về kế toán và tạo niềm tin cho những ngời quan tâm đến tài liệu kế
toán .
-Kiểm toán tính quy tắc:hớng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các
thể lệ ,chế độ, luật pháp của đơn vị kiểm toán trong quá trìnhhoạt động.
-Kiểm toán hiệu năng: có đối tợng trực tiếp là sự kết hợp các yếu tố ,các
nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh: mua bán ,sản xuất hay
dịch vụkiểm toán loại này giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính
sách và phơng hớng ,giải pháp cho việc hoàn thiện và cải tổ hoạt động

kinh doanh của đơn vị kiểm toán.
2.Chức năng của kiểm toán:
Có hai chức năng chính:chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến.
2.1.Chức năng xác minh:


Nhằm khẳng định mức độ trung thực các tài liệu và tính pháp lí của việc
thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính.
Xác minh là chức năng cơ bản nhất gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát
triển của hoạt động kiểm toán.Bản thân chức năng này không ngừng phát
triển và đợc thể hiện khác nhau tuỳ đối tợng cụ thể của kiểm toán là bản thân
tài chính hay nghiệp vụ kinh tế cụ thể hoặc toàn bộ tài liệu kế toán.Cho đến
ngày nay, do quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp và yêu cầu pháp lí ngày
càng cao nên việc xác minh bản khai tài chính cần có hai mặt:
Tính trung thực của các con số.
Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính.
Ngày nay theo chuẩn mực của kiểm toán tài chính ,chức năng xác minh này
không chỉ còn một chữ chứng thực nữa mà đợc chuyển hoá thành Báo
cáo kiểm toán thích ứng với từng tình huống khác nhau.
Theo thông lệ Quốc tế phổ biến chức năng xác minh đợc cụ thể hoá thành
các mục tiêu và tuỳ thuộc đối tợng hay loại hình kiểm toán thì mục tiêu có
thể khác nhau.
ở đây ,cơ quan kiểm toán nhà nớc có quyền kiểm tra các tài liệu và tình
hình quản lí của các tổ chức sử dụng ngân sách Nhà nớc để xác minh tính
chính xác và hợp lệ của tài liệu thu chi và quản lí ngân sách .Đồng thời các
cơ quan này cũng có quyền xét xử nh một quan toà bằng các phán quyết của
mình .Để đảm bảo cho các cơ quan này thực hiện chức năng của mình, kiểm
toán viên cao cấp đợc pháp luật của các nớc thừa nhận những quyền đặc biệt
chẳng hạn nh ở Cộng hoà Pháp ,họ đợc pháp luật thừa nhận quyền Bất
năng thuyên chuyển;đặc biệt ở Cộng hoà Liên bang Đức đợc thừa nhận

quyền Bất năng thay đổi.
ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án nớc ngoài,khách thể bắt buộc của
kiểm toán Nhà nớc thờng là khách thể của kiểm toán độc lập.ở đây, chức
năng bày tỏ ý kiến cũng đợc thực hiện qua phơng thức t vấn.Tuy nhiên , do
khách thể chủ yếu là các doanh nghiệp nên chức năng t vấn chủ yếu đợc biểu
hiện dới hình thức các lời khuyên hoặc các dự án. Do đó, trong trờng hợp
này nếu sản phẩm của chức năng xác minh là báo cáo kiểm toán thì sản
phẩm của chức năng t vấn là th quản lí.
Ngoài chức năng t vấn cho quản trị doanh nghiệp , ngày nay các Công ty
kiểm toán chuyên nghiệp còn phát triển chức năng t vấn của mình trong
nhiều lĩnh vực chuyên sâu đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính nh t vấn về
đầu t,t vấn về thuế...
III- Sự cần thiết của kiểm toán:
Kiểm toán là một trong những lĩnh vực không thể thiếu đợc trong nền
kinh tế .Từ xa xa ngời ta đã coi trọng kiểm toán để có thể kiểm tra tài chính
một cách chính xác trong việc sử dụng tài chính trong nền kinh tế .Do đó mà
kiểm toán có một tầm quan trọng đặc biệt ,một lĩnh vực mà những ngời làm
kinh tế còn phải quan tâm đến nó.


Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung báo cáo tài chính của các doanh
nghiệp chủ yếu chỉ là để báo cáo cho các quản lí doanh nghiệp đợc các cơ
quan quản lí Nhà nớc kiểm tra xét duyệt và gần nh ít đợc công khai, khai
thác sử dụng.
Trong nền kinh tế thị trờng, thông tin tài chính của doanh nghiệp cần cho
nhiều ngời và đợc nhiều đối tợng quan tâm ,khai thác sử dụng cho các quyết
định kinh tế .Chúng ta biết rằng kiểm toán không phải là hoạt động tự thân
và vị thân.Kiểm toán sinh ra từ yêu câu của quản lí và phục vụ cho yêu
cầu của quản lí.từ đó có thể thấy rõ ý nghĩa, tác dụng của kiểm toán trên
nhiều mặt nh tạo niềm tin cho những ngời quan tâm đến đối tợng kiểm toán ,

củng cố nền nếp tài chính kế toán và các hoạt động đợc kiểm toán đồng thời
góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lí ...Có thể phân tích ý nghĩa
và tác dụng của kiểm toán trên những mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, kiểm toán tạo niềm tin cho những ngời quan tâm.Trong cơ chế
thị trờng,có nhiều ngời quan tâm tới tình hình tài chính và có sự phản ánh
của nó trong tài liệu kế toán.Trongthế giới những ngời quan tâm có thể kể
đến:
-Cơ quan Nhà nớc cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền
kinh tế bằng hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế của mình với mọi
thành phần kinh tế , mọi hoạt động xã hội. Đặc biệt với ngân sách Nhà nớc ,với vốn liếng và kinh phí đã đầu t cho các đơn vị kinh doanh hoặc sự
nghiệp và với tài sản tài nguyên quốc gia ... càng cần có sự giám sát theo
đúng pháp luật và có hiệu quả. Chỉ có hoạt động kiểm hoạt động trên cơ
sở khoa học thực sự mới đáp ứng đợc những yêu cầu thông tin cho những
quyết sách của Nhà nớc và kế toán mới thực sự trở thànhcái nền vững
chắc cho cả sự can thiệp trực tiếp lẫn quản lí gián tiếp của Nhà nớc.
-Các nhà đầu t cần có tài liệu tin cậy để trớc hết có hớng đầu t đúng đắn,
sau đó có điều hành sử dụng vốn đầu t và cuối cùng có tài liệu trung thực
về ăn chia phân phối kết quả đầu t.Trong cơ chế thị trờng,do tính đa phơng hoá đầu t và đa dạng hoá các thành phần kinh tế nên nhà đầu t
không chỉ có các nhà đầu t trong nớc mà ccả nhà đầu t nớc ngoài. Để thu
hút vốn của các nhà đầu t và tạo cơ hội thuận lợi cho việc sử dụng hợp lí
mọi nguồn đầu t ,cần có những thông tin trung thực và khách quan về
tình hình tài chính thị trờng trớc hết và chủ yếu thông qua kiểm toán toàn
bộ các bảng khai tài chính về tài sản,về thu nhập, về đồng tiền cùng các
bảng thuyết minh kèm theo.
-Các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lí khác cần thông tin
trung thực không chỉ trên các bảng khai tài chính mà còn thông tin cụ thể
về tài chính ,về hiệu quả và hiệu năng của mỗi bộ phận để có những
quyết định trong mọi giai đoạn quản lí kể cả tiếp cận vốn liếng,chỉ đạo và
diều chỉnh các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lí...Những thông
tin đó chỉ có đợc thông qua hoạt động kiểm toán khoa học.

-Ngời lao động cũng cần có thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh
doanh,về ăn chia phân phối, về thực hiện chính sách tiền lơng và bảo


hiểm...Nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng thông qua hệ thống kiểm toán hoàn
chỉnh.
-Khách hàng , nhà cung cấp và những ngời quan tâm khác cũng cần hiểu
rõ thực chất về kinh doanh và về tài chính của các đơn vị kiểm toán về
nhiều mặt: số lợng và chất lợng hàng hoá ,cơ cấu tài sản và khả năng
thanh toán, hiệu năng và hiệu quả các bộ phận cung ứng, tiêu thụ hoặc
sản xuất ở đơn vị kiểm toán.
Tất cả những ngời quan tâm này không cần hoặc không thể biết tất cả các
kỹ thuật nghiệp vụ của nghề tài chính, kế toán nhng cần thiết thực thị
trờng dạng cầu hoạt động này. Chỉ có kiểm toán mới mang lại cho họ niềm
tin vào những xác minh độc lập và khách quan.Có thể nói việc tạo ra niềm
tin cho những ngời quan tâm là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển
của kiểm toán với t cách là một hoạt động độc lập.
Thứ hai , kiểm toán góp phần hớng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt
động tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị kiểm toán nói
chung.
Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu năng quản lí .Rõ
ràng , kiểm toán không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng t
vấn.
Từ tất cả những điều trình bày trên , có thể thấy rõ kiểm toán có ý nghĩa lớn
trên nhiều mặt: Đó là quan toà công minh của quá khứ, ngời dẫn dắt cho
hiện đại và ngời cố vấn sáng suốt cho tơng lai.
Vì vậy , để nâng cao chất lợng của báo cáo tài chính và nâng cao chất lợng
và độ tin cậy của các thông tin tài chính, bắt buộc phải có hoạt động kiểm
toán. Luật pháp yêu cầu và để yên lòng cho ngời sử dụng thì các báo cáo tài
chính phải đợc kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã đợc kiểm toán

mới là căn cứ tin cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lí.
Tóm lại , kiểm toán đã và đang là một nghề không thể thiếu đợc của hoạt
động kinh tế trong nền kinh tế thị trờng và có sự quản lí và kiểm soát của hà
nớc. Sự phát triển của hoạt động kiểm toán sẽ tăng cờng hiệu quả của công
tác quản lí kinh tế ,góp phần vào sự nghiệp đổi mới hệ thống công cụ quản lí
,cải cách nền hành chính quốc gia. Cùng với sự phát triển của hoạt động
kiểm toán ,cần thiết phải xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm
toán, nhằm đa hoạt động kiểm toán ở nớc ta hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
IV. Kiểm toán nhà nớc:
1.Mô hình của kiểm toán Nhà nớc
Kiểm toán nhà nớc là một bộ máy chuyên môn của nhà nớc thực hiện
các chức năng kiểm toán tài sản của nhà nớc.ở thời kì trung đại, kiểm toán
nhà nớc đã xuất hiện để đối soát tài sản của nhà vua. Qua quá trình phát
triển cho tới nay, kiểm toán nhà nớc ở các nớc đang phát triển đều thực hiện
chức năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng. Chủ thể của kiểm toán
nhà nớc là kiểm toán viên nhà nớc phân nghạch theo công chức nhà nớc
không quy định trình độ chuyên môn cụ thể.


Mô hình của kiểm toán nhà nớc phụ thuộc vào nhiều mối quan hệ: mối
quan hệ dọc hoặc mối quan hệ ngang.
-Mối quan hệ dọc:
Cơ quan iểm toán nhà nớc độc lập với quốc hội và chính phủ. Đó là
thể chế của cộng hoà Pháp, cộng hoà liên bang Đức và một số nớc châu âu.
Cơ quan kiểm toán nhà nớc trực thuộc quốc hội, độc lập cới hệ thống
hành pháp. Đó là thể chế của Mĩ
Cơ quan kiểm toán nhà nớc trực thuộc chính phủ. Là thành viên của
chính phủ. Đó là thể chế của Trung Quốc
Cơ quan kiểm toán nhà nớc trực thuộc tổng thống, không theo quy chế
một bộ nào cả. Đó là thể chế của Cọng hoà Inđônêxia.

Cơ quan kiểm toán nhà nớc trực thuộc chính phủnh quy định trong
Luật ngân sách của nhà nớc ta.
-Mối quan hệ ngang:
+Theo chức năng:
Kiểm toán doanh nghiệp nhà nớc
Kiểm toán những công trình xây dựng cơ bản
Kiểm toán ngân sách
Kiểm toán thu, chi đặc biệt.
+Theo vùng lãnh thổ:
Vùng kinh tế-hành chính(Bắc, Trung, Nam).
Địa phơng:có kiểm toán nhà nớc ở từng tỉnh.
Bang(Mĩ, Đức).
2.Kiểm toán nhà nớc ở Việt Nam:
ở Việt Nam, trong những năm áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
việc xét duyệt các báo cáo quyết toán do các vụ tài vụ của các bộ chủ quản,
phòng tài chính của các sở chủ quản tiến hành. Từ ngày 11/07/1994, kiểm
toán nhà nớc chính thức đợc thành lập theo Nghị định 70/CP với chức
năngxác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu, báo cáo quyết toán
của các cơ quan nhà nớc, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nớc và các
đoàn thể quần chúng , các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà
nớc cấp.
Cũng theo nghị định này, kiểm toán nhà nớc có nhiệm vụ xây dựng kế
hoạch kiểm toán hàng năm. Qua kiểm toán, cung cấp kết quả cho chính phủ
và góp ý kiến với các đơn vị kiểm toán củng cố nền nếp tài chính kế toánvà
kiến nghị với các cấp có thẩm quyễn xử lý những vi phạm....(điều2,nghị
định 70/CP)
Chỉ sau gần 5 năm thành lập, kiểm toán nhà nớc vừa ổn định bộ máy, xây
dựng các văn bản pháp quy, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ kiểm toán và
thực hiện các cuộc kiểm toán có quy mô lớn góp phần chấn chỉnh công tác
quản lý tài chính kế toán và thu nộp cho ngân quỹ hàng trăm tỷ đồng.



3.Địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nớc ở Việt Nam ngày nay:
Kiểm toán nhà nớc đợc thành lập theo nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994
của Chính phủ và sau đó là quyết định số 61/TTG ngày 21/1/1995 của Thủ tớng Chính phủ ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nớc: Nay thành lập kiểm toán nhà nớc để giúp thủ tớng Chính phủ thực hiện
chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu và số
liệu kiểm toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nớc, các đơn vị sự
nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nớc và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã
hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nớc cấp.
Những văn bản lập quy trên đây là những căn cứ pháp lý đầu tiên của kiểm
toán nhà nớc Việt Nam có ý nghĩa mở đầu một trang lịch sử mới của kiểm
toán nhà nớc ta.
Các văn bản lập quy này qui định thể chế của kiểm toán nhà nớc Việt Nam
trực thuộc thủ tớng chính phủ nh điều1 của nghị định đã nêu rõ.
Trong luật ngân sách nhà nớc đợc quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 20/3/1996 ở điều 73 chơng 7 đã nâng địa vị pháp lý của kiểm toán nhà
nớc lên một bớc mới Kiểm toán nhà nớc là cơ quan thuộc chính phủ. Hơn
thế nữa, trong nghị định 70/CP cha nêu tính độc lập của cơ quan kiểm toán
nhà nớc thì trong luật ngân sách nhà nớc ở điều 74 đã xác định tính độc lập
của kiểm toán nhà nớc: Khi thực hiện nhiệm vụ, cơ quan kiểm toán nhà nớc
có quyền độc lập và chịu trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán với chính
phủ, báo cáo với quốc hội, uỷ ban thờng vụ quốc hội khi có yêu cầu (điều
74).
Đó là những bớc tiến đáng kể trong xác định địa vị pháp lý của kiểm toán
nhà nớc trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên, điều dễ thấy là trong hiến pháp nớc ta cha quy định vị trí của
kiểm toán nhà nớc. Do đó, địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nớc ta cha đợc
luật cơ bản xác định. Chính điều đó đã khiến luật ngân sách nhà nớc xác
định địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nớc cũng cha có căn cứ từ hiến pháp.
Thêm vào đó, trong luật ngân sách nhà nớc nói trên, vị trí của kiểm toán nhà

nớc cũng còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn khi nói đến kiểm toán nhà nớc có
quyền độc lập ( Điều 74) thì về mặt thể chế cha làm rõ đợc độc lập với ai và
nh thế nào? Hơn nữa ngay trong luật ngân sách nhà nớc cũng cha tạo ra điều
kiện cần thiết để kiểm toán nhà nớc thực thi chức năng và nhiệm vụ. Cơ
quan này phải có trách nhiệm làm các vấn đề do quốc hội , hội đồng nhân
dân yêu cầu khi cha phê chuẩn quyết toán ngân sách, nhng lại không đợc
cung cấp dự toán và quyết toán nhà nớc ở các cấp Trong trờng hợp quyết
toán ngân sách cha đợc quốc hội, hội đồng nhân dân phê chuẩn thì chính
phủ, uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và cơ
quan kiểmm toán nhà nớc đã kiểm toán phải tiếp tục làm rõ những vấn đề
mà quốc hội, hội đồng nhân dân yêu cầu để trình trớc quốc hội, hội đồng
nhân dân vào thời gian do quốc hội, hội đồng nhân dân quyết định(Điều
70).


Trong các luật thuế, pháp lệnh kế toán- thống kê, luật về công ty cổ phần,
luật doanh nghiệp...thì vị trí của kiểm toán cha đợc làm rõ.
Nhng thực tế cho thấy rằng, kiểm toán nhà nớc tuy đã hoạt động và đang
phát triển ngày một rộng lớn hơn,nhng về địa vị pháp lý cần phải đợc làm
sáng tỏ hơn nữa.
4. Chức năng của kiểm toán nhà nớc:
4.1 Các chức năng của cơ quan kiểm toán nhà nớc:
Trong một nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoạt động của cơ quan
kiểm toán nhà nớc với t cách là một cơ quan kiểm tra phải thực hiện 4 nhiệm
vụ quan trọng sau đây:
- Kiểm toám nhà nớc cần phải báo cáo và t vấn cho quốc hội, không những ở
chừng mực quốc hội là cơ quan giám sát, cơ quan hành pháp mà cả trong
việc thực hiện nhiệm vụ của mình với t cách là cơ quan ban hành luật ngân
sách và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
- Kiểm toán nhà nớc cần phải báo cáo và t vấn cho chính phủ, cụ thể là

không những cho cấp quản lý hành chính nhà nớc trong thực hiện nhiệm vụ
của mình, mà còn cho các cấp lãnh đạo trong công tác lãnh đạo cơ quan
hành chính nhà nớc cũng nh về tác động tài chính của những biện pháp đề
ra: Cung cấp kết quả kiểm toán cho chính phủ và các cơ quan nhà nớc khác
theo quy định của chính phủ(Điều 2 nghị định 70/CP)
-Kiểm toán nhà nớc thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe đối với bộ
máy hành chính nhà nớc chống lại việc sử dụng lãng phí và lạm dụng các
phơng tiện tài chính của nhà nớc. Thông qua hoạt động kiểm toán, góp ý
kiến với các cơ quan đợc kiểm toán sửa chữa những sai sót, vi phạm để chấn
chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị; kiến nghị với các cấp
có thẩm quyền xử lý những vi phạm trong chế độ kế toán, tài chính của nhà
nớc( Điều 2 nghị định 70/CP).
- Kiểm toán nhà nớc cần thông báo cho công luận về việc sử dụng các phơng
tiện tài chính nhà nớc của chính phủ và quốc hội.
Hoàn thành những chức năng này là sự biểu hiện của sự hoạt động thành
công của một cơ quan kiểm toán nhà nớc với cơng vị là một cơ quan kiểm
tra.
4.2.Tiền đề cho việc thực hiện những chức năng này:
Để cơ quan kiểm toán nhà nớc với t cách là một cơ quan kiểm toán tối cao
có thể đảm nhiệm đợc những nhiệm vụ của mình thì cần phải đáp ứng đợc 3
yêu cầu cơ bản sau:
a.Tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nớc với các cơ quan quyền lực
khác của nhà nớc phải đợc đảm bảo bằng luật.
Đảm bảo tính độc lập về thiết chế và của ngời lãnh đạo, đảm bảo chủ quyền
của cơ quan kiểm toán nhà nớc trong việc cụ thể hoá nội dung kiểm toán.
Đảm bảo uyền đợc thông báo với công luận về mọi thông tin đợc kiểm toán.
b.Nguyên tắc kiểm toán đầy đủ phải đợc quy định bằng luật, điều đó có
nghĩa là:
-Về nguyên tắc, cơ quan kiểm toán Nhà nớc phải có thẩm quyền kiểm toán
tất cả các chức năng Nhà nớc có tác động đến ngân sách, không phụ thuộc

vào việc những chức năng đó đợc thực hiện dới hình thức pháp lí nào. Còn
nếu muốn để chống việc kiểm toán một lĩnh vực nào đó, thì phải xác định rõ
ràng bằng luật và phải thông báo cho công luận biết.


-Thẩm quyền kiểm toán của cơ quan kiểm toán Nhà nớc phải không bị
hạn chế ,điều đó có nghĩa là nó bao gồm không những việc kiểm tra tính hợp
pháp,tính tuân thủ mà kiểm tra cả tính kinh tế .
c.Phải có một tài phán độc lập để cơ quan kiểm toán Nhà nớc có thể khiếu
kiện khi tính độc lập của mình và thẩm quyền kiểm toán của mình bị xâm
hại.
-Khi tính độc lập của mình bị xâm hại thì con đờng pháp lí mở ra đối với
cơ quan kiểm toán là kiện lên toà án tối cao.Đối với kiểm tra tài chính khi có
thắc mắc về thẩm quyền kiểm toán thì con đờng giải quyết về mặt pháp lí sẽ
thông qua các toà án có thẩm quyền .
-Việc đáp ứng những tiền đề này đến đâu thì ở 175 nớc có cơ quan kiểm
toán của mình là thành viên của INTOSAI cũng rất khác nhau và chắc chắn
là chừng mực nào đó hiệu lực của chúng cũng khác nhau.
4.3. Nghĩa vụ của chính cơ quan kiểm toán:
Để các cơ quan kiểm toán nhà nớc-với t cách là cơ quan kiểm toán tối cao
có thể chấp hành đợc những nhiệm vụ đã nêu ở trên ,thì không những phải
đáp ứng ba tiền đề tối thiểu đã nêu ở trên mà cơ quan kiểm toán Nhà nớc
cũng phải hoàn thành hai nghĩa vụ của riêng mình .
-Cơ quan kiểm toán Nhà nớc phải chấp hành những nghĩa vụ báo cáo nhất
định. Điều đó có nghĩa là thông qua hoạt động báo cáo đầy đủ của mình cơ
quan kiểm toán phải tạo cho Quốc hội hàng năm có thể nắm đợc tính tuân
thủ và tính kinh tế của việc quản lí kinh tế và tài chính của chính phủ.
-Trong hoạt động và báo cáo của mình cơ quan kiểm toán Nhà nớc phải chú
ý giữ tính độc lập về chính trị, có nghĩa là không đa ra ý kiến xét đoán về
các quyết định chính trị của Chính phủ hoặc Quốc hội.



Phần II: Thực trạng kiểm toán nhà nớc ở Việt nam
và một số ý kiến đề xuất.
I-Thực trạng của kiểm toán nhà nớc ở Việt nam hiện nay:
1.Những thành tựu đã đạt đợc:
Năm 1998 là năm cả nớc đã trải qua nhiều khó khăn, thử thách do thiên tai
và nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực đã gây ra, nhng do
có chủ trơng đúng đắn của nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII ,với sự
quyết tâm phấn đấu của toàn dân, sự chỉ đạo nhạy bén và sáng suốt của
chính phủ mà chúng ta đã từng bớc vợt qua mọi khó khăn ,thử thách đã giữ
vững và phát huy những thành tựu của tiến trình đổi mới , ổn định chính
trị ,nền kinh tế tăng trởng gần 6%, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội
đợc giữ vững, đời sống nhân dân đợc cải thiện rõ rệt, vị thế của Việt Nam
trên trờng quốc tế tiếp tục đợc nâng cao.
Trong bối cảnh chung đó,công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia đòi
hỏi phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của Nhà nớc trong đó cần tăng
cờng kiểm tra, kiểm soát quá trình lập và chấp hành các quyết toán ngân
sách Nhà nớc trong thời gian qua. Hoạt động của kiểm toán Nhà nớc đã góp
phần đáng kể vào sự nghiệp chung của cả nớc.
Qua báo cáo kiểm toán Nhà nớc ,trong năm 1998 đã tiến hành hơn 600 cuộc
kiểm toán đối với ngân sách Nhà nớc ở các tỉnh,thành phố ,các bộ,các
ngành,các doanh nghiệp nhà nớc và các chơng trình dự án quốc gia. Qua đó
đã phát hiện nguồn thu của ngân sách Nhà nớcdo các doanh nghiệp chiếm
dụng hoặc trốn lậu khá lớn;chi tiêu ngân sách nhà nớc sai chế độ,chính sách
hàng trăm tỉ đồng;từ đó giúp các đơn vị đợc kiểm toán chấn chỉnh,khắc phục
những sai phạm trong việc sử dụng ngân sáchvà công tác kế toán, quyết
đoạn theo đúng quy định của nhà nớc,góp phần lập lại trật tự kỉ cơng trong
quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nớc và đấu tranh chống
tham nhũng . Đồng thời cũng là bài học cho các đơn vị cha đợc kiểm toán tự

xem xét lại và điều chỉnh những sai sót trong hoạt động tài chính của mình.
Qua kết quả kiểm toán, đã cung cấp thêm cho chính phủ, quốc hội những
thông tin xác thực để kiểm soát ,điều hành và hoàn thiện các chính sách ,chế
độ quản lýkinh tế tài chính của nhà nớc; đồng thời là cơ sở quan trọng,đảm
bảo nâng cao hiệu lực về kiểm tra, giám sát của chính phủ trong lĩnh vực tài
chính công.
Nhìn lại năm 1998, kiểm toán Nhà nớc có những bớc phát triển đáng kể về
tổ chức bộ máy; số lợng và chất lợngcông chức kiểm toán đã đợc tăng cờng ;
cơ sở vật chất kĩ thuật khá hơn các năm trớc;kiểm toán nhà nớc một số khu
vực đợc thành lập và đi vào hoạt động bớc đầu có hiệu quả; công tác bồi dỡng cán bộ, kiểm toán viên, công tác nghiên cứu khoa học, đối ngoại đều có
những chuyển biến tích cực.


2.Những hạn chế và thiếu sót còn tồn tại.
-Hiệu lực của hoạt động kiểm toán còn hạn chế, cha đủ mạnh để đi sâu
làm rõ những sai phạm trong quản lý, trong việc chấp hành pháp luật, trong
điều hành, phân phối, sử dụng ngân sách Nhà nớc; nhất là việc phát hiện
ngăn ngừa những hành vi gian lận, tham nhũng trong hoạt động của nền tài
chính công và trong bộ máy Nhà nớc.
-Hoạt động của kiểm toán Nhà nớc phạm vi còn hẹp, mức độ còn thấp(cả
năm 1998 mới kiểm toán đợc khoảng 21% tổng số thu và trên 14% tổng số
chi ngân sách Nhà nớc năm 1997), chất lợng kiểm toán cha cao, mới chỉ
dừng lại ở việc xem xét, xử lý những vấn đề riêng lẻ của từng đối tợng kiểm
toán cha đi sâu phân tích tổng hợp để đa ra các giải pháp có tính chất vĩ mô.
Kết quả của kiểm toán Nhà nớc cha đảm bảo đợc giá trị pháp lý với độ tin
cậy cao và trong việc giải toả hoặc gắn trách nhiệm cho các tổ chức, cá nhân
khi kết quả kiểm toán có hiệu lực.
-Nhìn chung, đội ngũ kiểm toán viên có bản lĩnh chính trị tốt, cần cù chịu
khó trong công việc, nhng trình độ của đội ngũ kiểm toán viên cha tơng
xứng với đòi hỏi của nhiệm vụ, còn thiếu nhiều chuyên gia đầu ngành; còn

nể nang, nơng nhẹ trong đấu tranh chống những vi phạm và gian lận. Một số
kiểm toán viên bắt đầu có những hành vi nhũng nhiễu, yêu sách đối với các
đơn vị.
-Cơ sở vật chất, phơng tiện làm việc, kinh phí cho hoạt động của kiểm toán
Nhà nớc tuy còn nhiều khó khăn, hạn hẹp; đây là khó khăn chung của cả nớc, không phải chỉ riêng ngành kiểm toán Nhà nớc, nhng cách thức tổ chức
và chi phí cho hoạt động kiểm toán cha đợc tích cực; phần lớn chi phí cho
những cuộc kiểm toán thờng đẩy sang các địa phơng, các đơn vị đợc kiểm
toán, ít nhiều đã hạn chế tính khách quan, vô t của kết quả kiểm toán và có
phần không đúng chế độ hiện hành.
3.Sự chồng chéo giữa kiểm toán Nhà nớc và thanh tra Nhà nớc.
Trên một số mặt công tác nào đó thì hoạt động kiểm toán của kiểm toán
Nhà nớc và hoạt động thanh tra có thể là rất gần nhau. Tuy nhiên, hoạt động
thanh tra và hoạt động kiểm toán có sự khác nhau cơ bản thể hiện ở một số
đặc điểm sau đây: Hoạt động thanh tra chấp hành chính sách pháp luật đợc
tiến hành trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội(kinh tế, văn hoá,an ninh,
quốc phòng) Còn phạm vi hoạt động của kiểm toán Nhà nớc chỉ bao gồm
các cơ quan đơn vị có sử dụng ngân sách Nhà nớc. Nội dung hoạt động
thanh tra chủ yếu hớng vào thanh tra trách nhiệm của ngời quản lý( kể cả ở
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế) để thông qua đó đánh giá
chất lợng, hiệu quả quản lý cũng nh việc chấp hành chính sách pháp luật.
Qua thanh tra đa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật;
trờng hợp có vi phạm thì yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quản lý. Còn hoạt
động kiểm toán là nhằm xác định tính chính xác của các số liệu kế toán, qua
đó xem xét việc chấp hành pháp luật tài chính- kế toán để rút ra kết luận về
tình hình tài chính, tài sản của chủ thể đợc kiểm toán.


Ngoài ra xuất phát từ sự khác nhau về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan thanh tra và cơ quan kiểm toán mà phơng pháp tiến hành thanh
tra và kiểm toán cũng có sự khác nhau.

Tuy nhiên trên thực tế hoạt động của hai cơ quan này nhìn ở một góc độ
nào đó vẫn còn có sự trùng lặp và chồng chéo nhau. Nguyên nhân chính của
vấn đề là do có một số cơ quan thanh tra chỉ lấy nhiệm vụ thanh tra tài
chính, ngân sách là chính, xem nhẹ và không thực hiện đầy đủ thanh tra
trách nhiệm của ngời quản lý, hoặc ngợc lại có những cơ quan thanh tra lại
tiến hành thanh tra các mặt hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có cả nội
dung tài chính nhng kiểm toán vẫn làm lại.
Để tránh trùng lặp và chồng chéo giữa công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm
toán thì trớc hết phải có sự phân phối chặt chẽ giữa các cơ quan thanh tra và
cơ quan kiểm toán ngay từ khi xây dựng chơng trình kế hoạch công tác hàng
năm. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động của mình cán bộ thanh tra, cán bộ
kiểm toán phải đựơc thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
mà pháp luật quy định để hạn chế các hành vi lạm quyền dẫn đến nảy sinh
những sự chồng chéo không cần thiết.
II.Tham khảo kinh nghiệm nớc ngoài.
Chúng ta có thể tham khảo thêm kinh nghiệm tổ chức ,điều hành ,hoạt
động về kiểm toán của một trong những nớc có nền kinh tế lớn mạnh nhất
thế giới.
1.GAO- Văn phòng Tổng Kế toán Hoa Kỳ.
Văn phòng Tổng kế toán Hoa Kỳ (GAO) đợc thành lập vào năm 1921 trên
cơ sở Luật Ngân sách và Kế toán bộ Luật đợc ban hành nhằm cải tiến và
củng cố các chức năng kế toán và ngân sách của chính quyền Liên bang.Bộ
luật này đã đem lại cho Tổng thống Hoa Kỳ các quyền lực đã đợc nâng cao
đối vứi ngân sách Liên bang thông qua việc thành lập văn phòng ngân sách
nay đợc gọi là cơ quan quản lí ngân sách.Để làm cho cân bằng các chức
năng này của Tổng thống,Quốc hội đã lập ra GAO với mục đích tự đem lại
cho mình các phơng tiện tốt hơn để điều khiển việc chi tiêu ngân sách của
Liên bang.
a.Mô hình tổ chức:
Đứng đầu GAO là Tổng thanh tra với nhiệm kỳ công tác là 15 năm.Tổng

thanh tra đợc Tổng thống bổ nhiệm theo sự tiến cử của Quốc hội .Tổng
thanh tra chỉ bị bãi nhiệm khỏi chức vụ của mình trong trờng hợp có sự
đồng ý của cả Quốc hội và Tổng thống.Quá trình bổ nhiệm này giúp cho
việc củng cố bản chất không đảng phái của GAO và giúp cho việc bảo vệ
tính độc lập của nó.GAO có khoảng 5000 nhân viên,2/3 số này làm việc tại
thủ đô Washington-nơi có trụ sở chính của GAO.Số còn lại làm việc tại các
văn phòng khu vực và hai văn phòng đặt tại nớc ngoài.Cơ cấu của tổ chức
GAO đợc sắp xếp theo các lĩnh vực nh:thơng mại, vận tải,giáo dục,nông
nghiệp-nông nghiệp thực phẩmhoặc các lĩnh cực y tế công cộng và quốc
gia chứ không phải theo hớng chia thành các đơn vị để theo dõi từng
bộ,từng nghành riêng biệt. Các lĩnh vực chia theo mô hình trên đợc tập hợp


lại thành từng vụ lớn hơn và chúng có thể đợc thành lập và giải tán để giúp
cho GAO đợc linh hoạt và dễ dàngcho việc đáp ứng các yêu cầu của đất nớcvà Quốc hội đề ra.
Cơ cấu các văn phòng khu vựcvà nớc ngoài đem lạichoGAO một vị trí lớn
hơn và các kiến thức đợc thu thập tại chính các khu vực đó giúp cho GAO
có thể tổng hợp số liệu và phân tích các vấn đểtong nớc và quóc tế một
cách có hiệu quả hơn.
Ngoài các chức năng kiểm toán và đánh giá thì GAO còn có một số các
chức năng khác. Các hoạt động kế toán ngày nay của GAO bao gồm việc
định ra các nguyên tắc kế toán và các chuẩn mựckiểm toán để sử dụng ở
mọi cấp chính quyền Hoa Kỳ. Đánh giá hệ thống kế toán mà các bộ và các
ban nghành hiện đang sử dụng. GAOcòn có quyền giải quyết các khiếu lại
do Chính phủ đa rahoặc cáclại với Chính phủkhi giải quyết khiếunại cảu
một cơ quanchức năngkhông thoả đáng. Cuối cùng GAO có thể đa ra các
quyết định pháp luậtvề các vấn đề có liên quan đến các khoản thu chi của
Chính phủ. Cácquyết địng này mang tích chất bắt buộcđối với các bộ
nghành có liên quan.
b.Việc lập kế hoạch hoạt động:

Do GAO ngày càng trở nên hoàn thiện hơn và khối lợng công việc của
nó không ngừng tăng lên nên việc lập ra kế hoạch động càng trở nên quan
trọng đối với khả năng không ngừng tạo ra các công việc có chất lợng của
GAO. Ngày nay, khoảng 80 85% khối lợng công việc của GAO là yêu
cầu của quốc hội .GAOthiết lập đợc mối quan hệ làm việcchặt chẽ với các
uỷ bancủa quốc hội vì vậy nó có thể dự đoán đợc tốt hơn các tyêu cầuvà
các vấn đề sắp tới, lập ra kế hoạch của mình một cách có hiệu quả hơn.
-Lập kế hoạch theo chơng trình:hàng năm, những ngời phụ trách các lĩnh
vực công tác phải chuẩn bị kế hoạchcông tác cho mình.Kế hoạch này phải
đợc cập nhật thờng xuyên để nắm bắt đợccác yêu cầu và thay đổi của quốc
hội.
-Lập kế hoạch dự án: các yêu cầu của quốc hội cũng nh các công việc
theo luật định trong khuôn khổ của GAO đợc đi qua một quá trình lập kế
hoạch theo qui định. Các chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan sẽ xác
định vấn đề và các mục tiêu của nó, thờng có sự tham khảo ý kiến của
những ngời có chức năngtại quốc hội.GAO xác định nguồn lực cần thiết,
hệ phơng pháp đợc sử dụng và kế hoạchđợc thực hiện. Việc thành lập kế
hoạch là một công việc cần thiết , một khi công việc của án đợc bắt đầu nó
sẽ chỉ đạo cách thức thu thập số liệu,cách thức giám sát các dự án và cách
thức kiểm tra kết quả phân tích .
c.Công tác bao cáo công việc của GAO:
GAO báo cáo về các phát hiện của mình theo từng lĩnh vực, thờng là
với những nhà luật phápnào yêu cầuphải cung cấp thông tin. Phần lớncác
cuộc kiểm toán và đánh giáđợc tóm tắt trong báo cáo công việc.Trong một
số trờng hợp các báo cáo nàybao gồm cả các kiến nghịcủa GAO đợc gửi
trực tiếp cho ngơì đứng đầu cơ quanchức năng có liên quan. Trong những


năm gần đây, GAO đã đa ra áp dụng các hình thức mới về việc thông báo
phát hiện kiểm toán. Đó là các báo cáo tóm tắt, các bảng nêu sự kiện, các

báo cáo dới dạng băng hình(vi deo) và các báo cáo tổng hợp không chính
thức gửi cho các thành viên trong quốc hội,các nhân viên và các quan chức
hành chính trong quốc hội.
III.Một số kiến ngị của bản thân:
1.Nâng cao địa vị pháp lí của kiểm toán Nhà n ớcvì chỉ có một địa vị
pháp cao kiểm toán Nhà nớcmới có đủ điều kiện để hoạt động có hiệu quả.
-Quốc hội nên bổ sung thêm điều luật về kiểm toán Nhà nớc trong hiến
pháp là rất cần thiết. Bởi vì công việc đó không những xác định địa vị pháp lí
của kiểm toánNhà nớc,một cơ quan nhà nớc đợc hoạt động theo luật đảm bảo
cho kiểm toán nhà nớc đợc thực thi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn một
cách đúng đắn,có hiệu lực,hiệu quả mà còn làm cơ sở cho việc xác định nhiệm
vụ và quyền hạn của kiểm toán nhà nởctong các luật khác; đặc biệt là luật
ngân sách và luật kiểm toán Việt Nam.Phải thừa nhận rằng trong luật ngân
sách Nhà nớc hiện nay việc xác định địa vị pháp lí của kiểm toán Nhà nớc là
cha có đủ căn cứ từ luật cơ bản-hiến pháp. Chúng ta đang tích cực soạn thảo
Luật(hoặc pháp lệnh) kiểm toán Việt Nam thì việc tạo dựng căn cứ từ hiến
pháp cho Luật kiểm toán là điều không thể thiếu.
-Trong Luật Ngân sách Nhà nớc mới ban hành trách nhiệm của kiểm
toán là rất nặng nề, nhng xét về quyền thì cha bảo đảm. Chẳng hạn,qui
định:Kiểm toán Nhà nớc phải kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nớc,ngân
sách địa phơng, nhng cha có quyết định cơ bản tài chính phải gửi cho kiểm
toán Nhà nớc dự toán ngân sách đợc duyệt và quyết địnhvề điều chỉnh ngân
sách;vì thế kiểm toán nhà nớc thiếu hẳn chỗ dựa để kiểm tra, so sánh sự tuân
thủ ngân sách Nhà nớc đợc quốc hội phê chuẩn và ngân sách địa phơng đợc
Hội đồng nhân dân các cấp phê chuẩn. Hơn nữa, ngay việc xét duyệt quyết
toán ngân sách Nhà nớc của Bộ Tài chính trình lên Chính phủ cũng cha lấy
báo cáo kết quả kiểm toán của kiểm toán Nhà nớc về việc quyết toán ngân
sách Nhà nớclàm mốc căn cứ...Nên chăng việc bổ sung những nội dung ấyvào
luật ngân sách cũng thật sự cần thiết.
-Trong các Luật về Thuế, Pháp lệnhvề kế toán- thống kê nói trêncũng

cha có qui định về vị trí của kiểm tóan nhà nớc,trong khi đó yêu cầu của kiểm
toán nhà nớcphải kiểm tra kế toán và báo cáo tài chính, các tài sản quốc gia,
các quĩ công của cơ quan, doanh nghiệp nhà nớc.... xam đó là chức năng chính
của của kiểm toán nhà nớc.Nên chăng,đã đến lúc cân xem xét,bổ sung các luật
thêm mộy số các điều khoảnvề trách nhiệm và quyền hạn của kiểm toánNhà
nớcđể và tạo điều kiện pháp lícho kiểm toán nhà nớc thực thi nhiệm vụ,vừa
ràng buộc trách nhiệm của kiểm toán nhà nớc trớc pháp luật.
Chúng ta hoàn toàn ý thức đợc rằng, kiểm toán nhà nớc ra đời muộn
hơn nhiềupháp luật đã ban hnàh trớc đó. Do vậy, địa vị pháp lí của kiểm toán
nhà nớc trong các Luật trên cha đợc làm rõ. Nhng vấn đề không hoàn nh vậy
vì Luật ngân sách ban hành sau gần hai năm kiểm toán nhà nớc hoạt động, nhng Luật ngân sách nhà nớc vẫn cha làm rõ quyền độc lậpvà mối tơng quan
giữa trách nhiệm và quyền hạn của kiểm toán nhà nớc nh đã nêu.


-Về thể chế của kiểm toán nhà nớcViệt Nam:
Điều đã rõ là kiểm toán nhà nớc trực thuộc Chính phủ và là một hệ
thống thóng nhất từ Trung ơng đến các địa phơng. Nhng thể chế này thiết
nghĩ, cha tơng xứng với vai trò vị trí của kiểm toán Nhà nớc, nên cần xem xét
lạichí ít cũng là cơ quancủa Chính phủ(thành viên của Chính phủ) và trong thể
chế này cần thiết phải làm rõquyền độc lập của kiểm toán nhà nớc mà Luật
ngân sách đã đề ra. Thiết nghĩ chúng ta cần qui định : Kiểm toán nhà nớc độc
lập với các cơ quan tài chính, độc lập với các cấp chính quyền,với các Bộ và
cơ quan trực thuộc Chính phủ cũng nh toà án và viện kiểm soát,độc lập với các
doanh nghiệp nhà nớc và các tổ chức xã hội...Độclập ở đây là độc lập về mặt
chức năng,nhiệm vụ về thực thi nhiệm vụ điều tra và độc lập và đánh giá các
kết quả kiểm toán bằng các bằng chứng xác thực của mình, chỉ tuân theo pháp
luật khi thực thi các nhiệm vụ đợc Chính phủ giao cho.
Chúng ta có thể tin tởng đợc rằng, bằng cố gắng của bản thân hoạt động
của kiểm toán Nhà nớc sẽ mang lại lợi ích cho dân, địa vị pháp lí của kiểm
toán Nhà nơc sẽ đợc xác định ngày một hoàn thiện, đầy đủ hơn.

2.Cần nhanh chóng kiện toàn cơ quan Kiểm toán Nhà nớc:
Xuất phát từ tình hình thực tiễn hiện nay, cần nhanh chóng kiện toàn cơ
quan nhà nớc tên một số nội dung chủ yếu sau đây:
-Tăng cờng lực lợng cho kiểm toán Nhà nớc ở mức độ u tiên nhất về
mọi mặt.Khi cần, kiểm toán Nhà nớc có thể sử dụng hình thức biệt phái hoặc
xin điều độngcán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức
trong sáng từ các nghành,các lĩnh vực...Sau đó,kiểm toán nhà nớc có trách
nhiệm bồi dỡng hoặc đào tạo về nghiệp vụ cho họ.
-Chính phủ và các ngànhhữu quan cần quan tâm giải quyết các vấn đề
về nhà ở cho cán bộ do nhu cầu điều động công tác, về trụ sở làm việc cho
kiểm toán nhà nớc Trung ơng và các kiểm toán nhà nớc ở địa phơng. Đồng
thời, phải có chế độ chính sách thoả đáng về tiền lơng, tiền thởng, tiền công
tác phí, điều kiện về phơng tiện làm việc và phơng tiện đi làm cũng nh các
khoản trợ cấp khác( nếu có) nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để cán bộ của
kiểm toán nhà nớc thực sự yên tâm công tác, phát huy hết trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, năng lực tổ chức và thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
3.Bảo đảm độc lập của kiểm toán nhà nớc trong hoạt động kiểm toán:
Để đảm bảo tính khách quan của công tác kiểm toán cần cân nhắc thận
trọng về địa vị pháp lý của cơ quan kiểm toán nhà nớc trong bộ máy quyền
lực nhà nớc, tức là đặt kiểm toán nhà nớc trong bộ máy hành pháp( chính
phủ) hay bộ máy lập pháp (quốc hội) hay độc lập với cả hai cơ quan này.
Vấn đề quan trọng theo em là dù đặt ở đâu cũng phải đảm bảo tính độc lập
về mặt pháp lý của cơ quan này, chỉ tuân theo pháp luật khi thực hiện
nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình.
4.Cần xác định rõ trong các văn bản pháp luật về đối t ợng và phạm vi
của kiểm toán nhà nớc:
Mọi cơ quan tổ chức sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nớc đều
phải chịu sự kiểm toán của kiểm toán nhà nớc, còn quốc hội sẽ chỉ định



một cơ quan của mình để kiểm toán báo cáo tài chính của kiểm toán nhà nớc. Việc công bố các thông tin, kết quả kiểm toán phải tuân thủ theo quy
định của pháp luật hiện hành.

Kết luận
Có thể nói kiểm toán là một trong những lĩnh vực quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Có ra đời là kết quả tất yếu của nền kinh tế thị tr ờng. Sự
ra đời của kiểm toán nhà nớc đã khẳng định vai tròcủa kiểm toán nhà nớc
trong việc kiểm tra kiểm soát và quản lý tài chính công của nhà nớc đối với
nền kinh tế. Đã từ lâu, Đảng và Nhà nớc ta luôn coi trọng đối với các hoạt
động kiểm toán đặc biệt là đối với kiểm toán nhà nớc, coi đó là một khâu
quan trọng trong hoạt động quản lý của nhà nớc, ảnh hởng rất lớn đến sự
pháp triển kinh tế xã hội của đất nớc. Nó bao trùm lên một phạm vi
rộng lớn không chỉ đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh
nghiệp nhà nớc mà còn với nhiều tổ chức và lĩnh vực khác.
Đối với em, việc đợc nghiên cứu Kiểm toán nhà nớc là một thuận lợi vì
đâylà một lĩnh vực rất hay giúp em có thể hiểu biết hơn nữa và có một cách
nhìn tổng quan về kiểm toán nhà nớc. Tuy đây mới là lĩnh vực có ở Việt
Nam từ đầu những năm 90 nhng nó đã đạt đợc một số kết quả nhất định.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, nhiều khó khăn trong kiểm toán. Do đó
mà việc nâng cao trình độ học hỏi thêm những kinh nghiệm quốc tế là hết
sức cần thiết. Giúp cho việc kiểm tra những thông tin tài chính một cách
chính xác và hiệu quả hơn nữa, tránh cho việc thất thu lãng phí ngân sách
nhà nớc.
Vì vậy trong quá trình viết chuyên đề này việc thu thập những thông tin
thực tế là điều hết sức khó khăn đối với em. Cho nên không tránh khỏi


khiếm khuyết khi viết bài này. Tuy nhiên bằng sự hiểu biết của mình , em
sẽ thực hiện đợc phần nào cái hay cái thú vị qua việc nghiên cứu chuyên đề
kiểm toán nhà nơcs ở Việt Nam hiện nay.





×