Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Vận dụng 2 nguyên lý của Triết học Mác Lê Nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.91 KB, 16 trang )

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học trước đó,
dựa trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và
thực tiễn lịch sử loài cũng như thực tiễn xã hội, vào giữa thế kỉ XIX, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng
duy vật, về sau được V.I.Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX, đem lại cho phép
biện chứng một hình thức mới về chất. Đó là phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
và phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những
hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của
phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn
những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống
những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh
đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế
Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
1.1.1. Khái quát về mối liên hệ phổ biến
Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá
trình khác nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh


hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có
mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trong lịch sử triết
học, để trả lời những câu hỏi đó, ta thấy có những quan điểm khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau.
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho
rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại
bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc
và quy định lẫn nhau.
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các
sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy
định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra
trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó tác động đến
mọi sự vật, trong đó có con người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động trực
tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục y tế.v.v; môi trường ảnh hưởng to
lớn đến con người không chỉ trong một nước mà trên toàn thế giới và
ngược lại, hoạt động của con người cũng tác động, ảnh hưởng làm biến
đổi môi trường.
Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm cho
rằng cái quyết định mối quan hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật
3


hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay do ý thức cảm
giác của con người.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính
thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât
và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng,
phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng
khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ
có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà

tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ
xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định
rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động
qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các
mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .
Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của
mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính
quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua
lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự
vật, hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như
bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên hệ, sự tác động của
con người đó đối với người khác, đối với xã hội và tự nhiên thông qua
hoạt động của chính người ấy. Ngay tri thức của con người cũng chỉ có
giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biến tự
nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính con người.
1.1.2. Các tính chất của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có
của mọi sự vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang
hàng ngày chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh
4


sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí ..., đôi khi cũng chịu sự tác động
của con người). Con người - một sinh vật phát triển cao nhất trong tự
nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác động của các sự vật, hiện
tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân. Ngoài sự tác động
của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hôị và của
những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận
vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết các mối
quan hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên

hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con
người .
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính
phổ biến:
Thứ nhất , bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện
tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong
thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên
hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế,
hiện nay, trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu
vực hoá mọi mặt đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn
đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số
và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà bình.v.v.
Thứ hai , mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất những hình thức liên
hệ riêng rẽ, cụ thể, được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu.
Thứ ba, nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế
giới còn nhìn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng
đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên
5


hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ
thứ yếu; mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ
tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên; mối liên hệ chung bao quát toàn thế
giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của
thế giới; mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ giữa
các sự vật và mối liên hệ giữa các mặt hay giữa các giai đoạn phát triển
của một sự vật để tạo thành lịch sử phát triển của sự vật.v.v. Chính tính đa
dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự vật và

hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ.
Các cặp mối liên hệ khác cũng có quan hệ biện chứng giống như
mối quan hệ biện chứng của các cặp mối liên hệ đã nêu trên. Đương
nhiên, mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng. Trong các cặp mối
liên hệ đó, nói chung, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên
hệ chủ yếu giữ vai trò quyết định. Song tuỳ theo những điều kiện hoàn
cảnh cụ thể, các mối liên hệ tương ứng với chúng có thể giữ vai trò quyết
định. Nói cách khác, vai trò quyết định của các mối liên hệ trong từng cặp
một phụ thuộc vào quan hệ hiện thực xác định .
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi
loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối
liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá
lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận
động của chính các sự vật. Chẳng hạn, nếu xem xét các doanh nghiệp tồn
tại với tư cách là các đơn vị độc lập thì mối liên hệ giữa chúng là mối liên
hệ bên ngoài. Trong quá trình vận động và phát triển của mình, các doanh
nghiệp kết hợp với nhau tạo thành công ty, thành tổng công ty thì mối liên
hệ giữa các doanh nghiệp lại là mối liên hệ bên trong.

6


Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương
đối, nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có
vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con
người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp,
nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.

1.2. Nguyên lý về sự phát triển
1.2.1. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển

Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối
lập với nhau, quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng .
Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật.
Những người theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không
có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với
những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ
nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng
chỉ diễn ra trong một vòng khép kín
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến
lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa
tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan
hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo
đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước
lùi tạm thời.

7


Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình
thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn
ra theo đường xoáy ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển dường
như sự vật ấy quay trở về điểm khởi đầu song trên cơ sở mới cao hơn .
Như vậy, sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ
là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản
thân con người, trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có
những vận động đi lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi
xuống. Song nếu xét cả quá trình vận động với không gian rộng và thời
gian dài thì quá trình vận động đi lên là khuynh hướng chung của mọi sự
vật.

1.2.2. Tính chất của sự phát triển
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên
đã phân tích, theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát
triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục
những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó
sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế, sự phát triển là tiến trình khách quan,
không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức con người. Dù
con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn phát triển theo khuynh
hướng chung nhất của thế giới vật chất.
Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của
tự nhiên, xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới
khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực
cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi
hình thức của tư duy cũng luôn phát triển. Chỉ trên cơ sở của sự phát
triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù
mới có thể phản ánh đúng hiện thực luôn vận động và phát triển.
8


Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có tính
đa dạng phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung
của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá
trình phát triển không giống nhau, tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời
gian khác nhau. Chẳng hạn, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về
thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở thế hệ trước do chúng được thừa hưởng
những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Hay
trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so
với các quốc gia đã thực hiện chúng do được thừa hưởng kinh nghiệm và
sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng

kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất nhiều
vào các nhà lãnh đạo và nhân đân của các nước chậm phát triển và kém
phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật hiện tượng có thể
có những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác nhưng
xem xét toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
1.3. Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến
và về sự phát triển có thể rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và
cải tạo hiện thực.
1.3.1. Quan điểm toàn diện
Đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự
tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực

9


tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng
về sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt
các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản chất
của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất trong sự phát triển của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động
vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại
của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự
vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp,

các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Để thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta;
mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng
quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa
lại.
1.3.2. Quan điểm phát triển
Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát
triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân chúng ta phải
có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật,
hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát triển,
vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện
đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong
tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như

10


những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát
những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia
quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để
tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy
sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳ theo
sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người. Quan
điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu
chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật
hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân

văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ
1.3.3. Quan điểm lịch sử cụ thể
Đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật
phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong
đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm
khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học
trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của
hoá học bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu
vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽ không còn đúng nữa. Trong
lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng
xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó .
2. Vận dụng hai nguyên lý của triết học Mác – Lênin vào phát triển
bản thân
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm
toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản
11


thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc
cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động
của mình. Đối với học viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng
phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống
Chúng ta hiện nay đều là những học viên mới, khi mới nhập học hầu như
là không quen biết nhau. Khi nhìn thấy 1 bạn nào đấy , chắc chắn chúng
ta đều có những ấn tượng đầu tiên về ngoại hình , tính cách của bạn đó.

Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp mặt mà chúng ta đã đánh giá bạn là
người xấu hoặc tốt , dễ tính hay khó tính. Cách đánh giá như vậy là phiến
diện , chủ quan trái với quan điểm toàn diện. Điều có thể làm cho chúng
ta có những quyết định sai lầm. Chẳng hạn như khi nhìn thấy một người
có gương mặt ưa nhìn , ăn nói nhỏ nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt
và muốn làm bạn , còn khi nhìn thấy một người ít nói , không hay cười
thì cho là khó tính không muốn kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới
nhận ra người bạn mà mình chọn có những đức tính không tốt như lợi
dụng bạn bè, ích kỷ. Còn người bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng , hay
giúp đỡ bạn bè. Ấn tượng đầu tiên chỉ quyết định đến quá trình giao tiếp
về sau. Quan điểm toàn diện dạy cho ta biết rằng khi xem xét, đánh giá
một sự vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách toàn diện , mọi
mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng.
Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức
của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả , có thể bạn đó có
gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì vậy
muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài , nhìn
12


nhận họ trên mọi phương diện , ở từng thời điểm ,từng hoàn cảnh khác
nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết
ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Đối với những người bề trên
như ông ,bà ,bố ,mẹ, thầy cô… thì chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép,
tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động , thái độ thoải mái,tự
nhiên. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian
khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao
tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.
Ví dụ như khi xưa anh ta là người xấu ,tính cách không tốt hay vụ lợi

không nên giao tiếp chơi thân, nhưng hiện nay anh ta đã sửa đổi tính cách
tốt hơn biết quan tâm mọi người không như xưa , chúng ta cần nhìn nhận
anh ta khác đi , có thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp , kết bạn với anh
ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết,
chúng ta cần xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ
đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt . Khi ta học kém đi , điểm số giảm
cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu
bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên
nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn
thì mới có kết quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử
cụ thể trong học tập sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan
điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế giới quan của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các
mặt của việc học một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm:
13


Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng
da, bằng mũi, bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết,
cái gì để làm, học để tồn tại, học để chung sống với con người, với vạn
vật, với muôn loài...
Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.
Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải
tốn nhiều thời gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học
biết các giống lúa, loại nào phù hợp vùng đất nào, thời tiết nào, những
điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt năng suất, khi phát hiện có
sâu rầy phải giải quyết thế nào...

Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người
xưa vẫn dạy rằng: “Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào
cũng vậy, phải luôn ý thực là lí thuyết hay cũng không bằng thực hành
giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao là điều hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực
hành được hiểu khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể
tách rời nhau. Trước hết ta cần hiểu : “học” là tiếp thu kiến thức đã được
tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết trong các bộ
môn khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi
trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa
sự hiểu biết của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám
phá những tri thức của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh
phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến
thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có mối quan
hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình thống
nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.

14


Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp
học tập. Một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không
vận dụng vào thực tiễn, thì học cũng trở nên vô ích. Có nhiều bạn trẻ khi
rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ quan… Lúng túng không
biết phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được học như thế nào?
Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang mang, chán nản.
Nguyên do dẫn đến việc “học” mà không “hành” được là do học không
thấu đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà trường không thật sự chuyên tâm, rèn
luyện, trau dồi kiến thức hoặc thiếu môi trường hoạt động.
Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh

nghiệm đã được đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng
túng, gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, thậm chí có khi còn dẫn đến những
sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm
là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực tiễn
cuộc sống. Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực
tiễn ở các trường phổ thông đã khiến các sinh viên tương lai không biết
nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi. Đa số các em không biết sử
dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc để... thi đỗ đại
học. Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có
nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác
khi bước vào cuộc sống, nhiều thủ khoa sau khi ra trường, va vấp cuộc
sống mới tự hỏi: “Không biết việc chọn trường chọn ngành của mình đã
đúng hay chưa?”. Nhất là khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao
phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc “Học đi đôi
với hành” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần
phải rèn luyện cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
15


cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất khác nhau nhưng luôn luôn gắn
bó mật thiết không thể tách rời. Có tài mà không có đức là người vô
dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích
cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. Con người ta không thể
sống một mình, không thể tách rời khỏi gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
nhân dân, nhân loại. Giá trị một con người được xem xét chính bởi tác
dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Người không có
đức là người không quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài,
họ cũng chỉ vun vén để có lợi cho riêng họ. Người có tài mà phản bội Tổ

quốc, đi ngược lại lợi ích của tập thể thì chẳng những vô dụng mà còn có
tội. Người càng có tài mà kém đạo đức thì tác hại mang đến cho gia đình,
xã hội càng lớn.
Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Có đức, có khát vọng hành động vì lợi ích của mọi người nhưng không có
kiến thức, năng lực kém thì những ý định tốt cũng khó trở thành hiện
thực. Tài năng giúp con người lao động có hiệu quả. Thiếu tài năng,
người ta trở nên ít có tác dụng trong đời sống con người. Rõ ràng là giá
trị con người phải bao gồm cả tài và đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho
nhau thì con người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao
và mới có ích cho mọi người.
Chúng ta hiện nay đang là những học viên, là những người đang
trong quá trình phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí
tuệ nhân cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện
bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả đức cả tài, học hỏi
bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người mới xã hội
chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự
phát triển tiếp tục trong tương lai.
16


17


PHẦN KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy vật bao hàm nội dung hết sức phong phú, bởi vì
đối tượng phản ánh của nó là thế giới vật chất vô cùng vô tận. Trong đó,
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là có ý
nghĩa bao quát nhất. Nghiên cứu hai nguyên lý này đem lại cho chúng ta
quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển trong

hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Khi vận dụng các quan điểm
này, đòi hỏi vận dụng một cách tổng hợp, bởi vì chính trong quá trình liên hệ
tác động qua lại biện chứng mà sự vật vận động, phát triển và diễn ra trong
những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể.



×