Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tài liệu Tiểu luận triết học "Vận dụng quan điểm lý luận triết học Mác Lênin xây dựng đất nước phát triển theo định hướng XHCN" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.3 KB, 13 trang )

Tiểu luận triết học

"Vận dụng quan điểm lý
luận triết học Mác Lênin
xây dựng đất nước phát
triển theo định hướng
XHCN"
Mục lục
A, Phần mở đầu:.........................................................................................................................1
B, Phần nội dung:
Chương I: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội :
1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội.......................................................................................2
2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội .....................................................................2
Chương II Sự lựa chon con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam
1. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta......................................................4
2. Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta.....................................................5
 Định hướng xây dựng CNXH ở nước ta: Đúng hay chệch?
 Có người lo ngại rằng: hiện nay ở nhiều nước, chế độ XHCN bị sụp đổ, liệu chúng ta có thể đi lên
CNXH được không?
 Đi lên CNXH ở nước ta là một tất yếu khách quan
Chương III: Quá trình đi lên CNXH ở nước ta thực trạng và giải pháp
1. Thực trạng quá trình đi lên CNXH ở nước ta................................................................8
2. Từng bước khắc phục khó khăn trong trong quá trình đi lên CNXH
ở nước ta...............................................................................................................................9
 Thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu
C, Kết luận................................................................................................................................12
MỞ ĐẦU
Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước việt Nam hoàn toàn độc lập, hai miền Nam Bắc
thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đó là cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH). Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta là sự lựa chọn đúng đắn hay sai lệch? Vì sao
không đi theo con đường TBCN mà kiên định đi theo CNXH ? trong khi đây là giai đoạn phát triển kỳ


diệu,là thành tựu của nhân loại.Bên cạnh đó lịch sử thế giới đã cho thấy nhiều bài học kinh nghiệm về
sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ở các nước Đông Âu hơn 40 năm kể từ 1945.Đó là
những nước đều đạt những thành tựu to lớn về khoa học kỹ thuật,về kinh tế xã hội.Trong khi,xã hội
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo nàn,lạc hậu ở Đông Nam á.Vốn là một xã hội phong kiến
trong hơn 1000 năm,và chịu ách thống trị của thực dân Pháp trong gần 100 năm, cho nên xã hội Vệt
Nam mang tính chất thụôc địa nửa phong kiến. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ở trạng thái kiệt quệ,
bộ máy nhà nước cồng kềnh,kém năng động, sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật còn thô sơ lạc hậu,
đời sống người dân nghèo nàn...Vậy vì sao đảng ta lại kiên quyết xây dựng đất nước theo con đường
CNXH mà không phải con đường nào khác?
Nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ triết học mà cụ thể là lý luận các hình thái kinh tế xã hội
nhằm khẳng định sự lựa chọn của đảng ta hoàn toàn đúng đắn. Thực tế hơn 15 năm đổi mới , những
thành tựu về kinh tế ,chính trị , khoa học xã hội đã chứng minh một cách hùng hồn nhất về sự lựa
chọn của nhân dân ta , của đảng ta là đúng đắn và khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất
nước theo CNXH là một tất yếu khách quan.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Lý luận hình thái kinh tế xã hội
1-Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở
từng nấc thang lịch sử nhất định , với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2- Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
Xã hội đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát
triển là một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Các hình thái kinh tế – xã hội vận động và phát triển
do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển. C Mác viết : “ Tôi
coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” , tức là muốn
nói đến quy luật khách quan của lịch sử, quy luật đó được coi là sự phát triển của quá trình sản xuất
vật chất , xét đến cùng là do mâu thuẫn bên trong giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , do
tính tất yếu kinh tế quy định. Các quy luật xã hội chính là hiện thân của các quy luật tự nhiên được
con người sử dụng nó để kiến tạo nên xã hội loài người.

Tiến trình lịch sử là quá trình phát triển biện chứng vừa bao hàm sự phát triển đứt đoạn và liên
tục. Trong quá trình sản xuất , con người có những quan hệ với nhau, đó chính là quan hệ sản xuất.
Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của lực lượng sản xuất quy định. đến lượt nó quan hệ sản xuất
lại quy định các quan hệ xã hội khác như : chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực lượng sản xuất phát
triển đến một mức độ nào đó thì những thay đổi về chất mâu thuẫn gay gắt với những quan hệ sản
xuất có, dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thông
qua cuộc cách mạng xã hội. Quan hệ sản xuất thay đổi thì toàn bộ các quan hệ sản xuất khác cũng
thay đổi. Như vậy, phương thức sản xuất thay đổi, các quan hệ xã hội, chính trị, tinh thần thay đổi dẫn
đến sự thay đổi của hình thái kinh tế – xã hội. Chính vì thế, V.I.Lênin viết:”Chỉ có đem quy những
quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ
của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có thể có được những cơ sơ vững chắc để quan
niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.”
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những bậc thang lịch sử khác
nhau, ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định trong từng phương thức sản xuất nhất định.
Thực tiễn đã cho thấy, loài người đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội theo thứ tự từ
thấp đến cao. Đó chính là quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục của lịch sử.
Tuy nhiên, đối với mỗi nước cụ thể, do những điều kiện khách quan và chủ quan riêng thì một nước
nào đó, một dân tộc nào đó có thể “ bỏ qua” những chế độ xã hội nhất định. Sự khác nhau về trật tự
phát triển ở phạm vi toàn nhân loại vẫn là quá trình lịch sử – tự nhiên, còn đối với từng quốc gia, dân
tộc cụ thể bỏ qua những “ nấc thang ”nhất định. V.I.Lênin viết: “ …tính quy luật chung của sự phát
triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát
triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”.
Thực tế lịch sử của một số nước đi theo con đường XHCNđã chứng minh tính đúng đắn, khoa
học của hình thái kinh tế – xã hội và lý luận về khả năng “bỏ qua” một chế độ xã hội nhất định.
Từ việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế – xã hội chúng ta có thể rút ra một số điểm có
ý nghĩa phương pháp luận sau:
• Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, những nguyên nhân và cơ sở
của sự xuất hiện, biến đổi của các hiện tượng xã hội đã biến đổi xã hội học thành một khoa học thực
sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử. Từ đó có một cách nhìn đúng đắn, thấy được vai trò
thực sự của LLSX, QHSX, mối quan hệ biện chứng giữa chúng và các mối quan hệ khác trong quá

trình phát triển xã hội.
• Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối sự
vận động của xã hội. Vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội và chỉ đạo
thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô.
• Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản. là cơ sở lý
luận cho việc triển khai đường lối, chính sách ở tầm quốc gia và mỗi địa phương nhằm thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
• Giúp chúng ta một cái nhìn biện chứng về sự phát triển liên tục của các hình thái kinh tế – xã hội,
của các giá trị văn hoá, khoa học , kĩ thuật và của chính bản thân thế hệ con người. Từ đó giúp chúng
ta không nóng vội chủ quan, không đốt cháy giai đoạn, biết kế thừa những thành tựu chung của văn
minh nhân loại.
• Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt nguyên lý đó, vận dụng một
cách chủ động sáng tạo và kiến thức tổng quát của nhiều môn khoa học khác vào công việc hàng ngày
của mỗi người, mỗi địa phương phải nhìn nhận các vấn đề trong dòng chảy liên tục của nó.
Chương II Sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
I- Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta
Từ hình thái kinh tế – xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội khác có một giai đoạn
lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức biểu hiện khác nhau, đó là “ thời kỳ
quá độ”.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của mình mà các nước các dân tộc sẽ thực hiện sự
quá độ lên CNXH dưới những hình thức, bước đi khác nhau, do trình độ xuất phát khác nhau. Có thể
khái quát thành 3 loại nước tương ứng với 3 kiểu quá độ:

×