Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Chức năng kiểm soát trong cơ quan hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.34 KB, 66 trang )

Nhóm 5 – KH12NS1
A.

MỞ ĐẦU

Sau khi tiến hành các chức năng lập kế hoạch, tổ chức, phối hợp và lãnh đạo
thì hoạt động của tổ chức vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, yêu cầu đặt ra dối với nhà
quản lý là phải tiến hành hoạt động giám sát, đánh giá con người và công việc
trong tổ chức nhằm hạn chế tới mức tối đa các sai sót, đảm bảo việc hoàn thành
mục tiêu của tổ chức. Trong tổ chức nói chung hay trong cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng, hoạt động kiểm soát là chức năng cần thiết mà mỗi nhà lãnh đạo,
quản lý cần thiết để duy trì, ổn định và phát triển tổ chức của mình. Kiểm soát là
mối nối cuối cùng trong chuỗi các hoạt động của nhà quản trị. Nhà quản trị không
thể xác định mức độ hoàn thành công việc của bộ phận, phòng, ban nếu không tiến
hành đo lường những gì đã thực hiện và so sánh với tiêu chuẩn. Kiểm soát là chức
năng mà mọi nhà quản trị cần thực hiện và nên thực hiện, bởi nó còn giúp họ nhận
thấy được những khiếm khuyết trong hệ thống tổ chức. trên cơ sở đó có thể đưa ra
những quyết định quản lý phù hợp và kịp thời. Hơn thế nữa, các hoạt động kiểm
soát còn đảm bảo cho sự tồn tại và duy trì tính hiệu quả của mỗi cá nhân, mỗi
nhóm, mỗi bộ phận và tổ chức. Khi xây dựng được một hệ thống kiểm soát hữu
hiệu sẽ thúc đẩy và cho phép mỗi nhân viên tự kiểm soát bản thân mình trong công
việc hơn là chịu sự kiểm soát từ một chủ thể khác. Chính sự tự giác này mang đến
cho các thành viên trong tổ chức có được sự thoải mái và giúp cho công việc đạt
hiệu quả cao hơn. Do đó, có thể nói đối với mọi tổ chức, mọi nhà quản trị chức
năng kiểm soát là một chức năng cơ bản của hoạt động quản trị. Đặc biệt với tính
đặc thù của các tổ chức hành chính nhà nước thì kiểm soát là chức năng không thể
thiếu trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.


Nhóm 5 – KH12NS1
B.


I.

NỘI DUNG
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨC NĂNG KIỂM SOÁT

1.

Kiểm soát là gì ?

1.1.

Khái niệm
Kiểm soát là một trong số những chức năng chủ yếu của quản lí. Đó là quá

trình vận dụng các cơ chế, phương pháp nhằm đảm bảo cho một tổ chức hay cá
nhân hoạt động đúng với mục đích, yêu cầu đặt ra. Nhìn từ giác độ tổng quát, kiểm
soát được hiểu là toàn bộ hoạt động có tính chất xem xét, đánh giá, bắt buộc hay
yêu cầu thực hiện các quyết định, các kế hoạch trong quá trình quản lí.
Như vậy kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước là toàn bộ những hoạt
động của các chủ thể trong xã hội nhằm đảm bảo cho quản lí hành chính nhà nước
diễn ra đúng pháp luật, đúng định hướng, có hiệu lực và hiệu quả.
1.2.
Đặc điểm
- Kiểm soát là một chức năng quản lý hành chính nhà nước.
- Các cơ quan nhà nước và xã hội đều giám sát hành chính nhà nước.
- Đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
1.3.
Các yếu tố cấu thành.
- Chủ thể kiểm soát: cá nhân,


tổ chức bên trong và bên ngoài hệ thống hành

-

chính nhà nước.
Đối tượng kiểm soát: Chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
Khách thể: Hoạt động quản lý hành chính, thể hiện ở hai dạng là quyết định

-

hành chính và hành vi hành chính.
Mục tiêu kiểm soát: Đảm bảo tính pháp chế hiệu lực hiệu quả trong quản lý

hành chính nhà nước, công bằng xã hội và quyền con người.
1.4.
Sự cần thiết của hoạt động kiểm soát hành chính nhà nước.
• Hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành, thực thi quyền
hành pháp do đó được nhà nước trao quyền đề thực hiện chức năng này. Khi


Nhóm 5 – KH12NS1

chủ thể quản lí được trao quyền lực quản lí có thể xảy ra lạm quyền theo hai


xu hướng:
Sử dụng trái phép quyền lực được trao, để phục vụ lợi ích cá nhân, gia đình,
dòng họ.
Lạm quyền dưới các hình thức lộng quyền, chuyên quyền…
Cả hai xu hướng này đều gây ảnh hưởng xấu tới hiệu lực, hiệu quả của bộ


máy hành chính, gây mất lòng tin trong nhân dân, là dấu hiệu của hiện tượng tham
nhũng, tư lợi, bòn rút của công phục vụ lợi ích cá nhân, đối tượng phải gánh chịu
xét tới cùng chính là nhân dân.
Do tính chất đặc biệt của hoạt động hành chính nhà nước được sử dụng
quyền lực như vậy, cho nên xã hội loài người từ khi có Nhà nước tới nay đều nhận
thức được sự cần thiết của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước mà cụ thể hơn
là đối với quyền hành pháp bằng nhiều phương thức khác nhau. Bằng thực tế đã
chứng minh quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, hơn thế nữa phải được kiểm
soát chặt chẽ. Nói cách khác quyền lực nhà nước, xét ở khía cạnh quyền hành pháp
không thể là vô hạn mà phải có giới hạn và được giới hạn, nhất là trog chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Quyền lực thực thi pháp luật – quyền hành pháp là hiện tượng khách quan
trong quan hệ xã hội và có xu hướng dễ bị lạm dụng. Vì vậy cùng với sự
thừa nhận của quyền lực nhà nước thì phải thiết lập sự kiểm soát đối với
quyền lực nhà nước. Nghĩa là một quyền lực cần có sự giám sát, kiểm soát

2.

của quyền lực để ngăn chặn sự lạm quyền hoặc lẩn tránh trách nhiệm.
Cơ sở pháp lý.


Nhóm 5 – KH12NS1

Thứ nhất, Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước chịu sự giám sát của
các cơ quan quyền lực nhà nước: Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội; UBND
chịu sự giám sát của HĐND cùng cấp;

Theo điều 1 của luật số 11/2003/QH11 Ngày 26 tháng 01 năm 2003 về tổ chức
HĐND và UBND quy định như sau:
“Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát
việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương. “
Thứ hai, Các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới chịu sự lãnh đạo của
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; các cơ quan hành chính chịu sự lãnh đạo
của Chính phủ; cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn chịu sự
chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chung cùng cấp; cơ quan chuyên môn cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cơ quan chuyên
môn cấp trên;
Theo điều 7 của luật số 11/2003/QH11 Ngày 26 tháng 01 năm 2003 về tổ chức
HĐND và UBND quy định như sau:
“Hội đồng nhân dân chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội.
Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của Chính phủ. “
Thứ ba, Các cơ quan hành chính nhà nước chịu sự xem xét, đánh giá của
các cơ quan thanh tra được tổ chức ngay trong hệ thống hành chính nhà nước như


Nhóm 5 – KH12NS1

Thanh tra chính phủ, thanh tra bộ, thanh tra tỉnh, thanh tra sở, thanh tra huyện,
thanh tra chuyên ngành.
Theo điều 3 luật thanh tra năm 2010 có nêu: “ Thanh tra nhà nước là hoạt động

xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành.”
Mục đích của hoạt động thanh tra quy định tại điều 2 luật Thanh tra năm 2010
nhứ sau: “Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản
lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện
pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp
cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân
tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.”
Như vậy trong hoạt động thanh tra bao gồm thanh tra các cơ quan nhà nước,
trong đó có cơ quan hành chính nhà nước, thanh tra là một hoạt động có tính chất
kiểm soát hành chính nhà nước.Cơ sở pháp lí cho hoạt động thanh tra là luật
thanh tra năm 2010 số 56/2010/QH12.
Thứ tư, Các cơ quan hành chính chịu sự giám sát của nhân dân, các tổ chức
chính trị xã hội như Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam, hội Cựu chiến binh, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Mặt trân tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động,
Hội nông dân Việt Nam. Nhân dân có quyền phản ánh cho cơ quan, người có thẩm
quyền khi phát hiện những dấu hiệu vi phạm của cơ quan hành chính, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính để kịp thời xem xét, xử lí những sai phạm.


Nhóm 5 – KH12NS1

Các tổ chức chính trị xã hội thực hiện chức năng giám sát các cơ quan hành chính
nhà nước, kiến nghị để sửa đổi, xử lí những sai phạm của cơ quan hành chính nhà
nước cùng cấp hoặc cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương khi thấy có
những quyết định sai trái trong công tác quản lí hành chính nhà nước.

3. Phân loại chức năng kiểm soát.

3.1. Phân loại theo tính chất
a. Kiểm soát phòng ngừa:
-

Là hoạt động kiểm tra trước khi hoạt động xảy ra bằng cách tiên liệu những

-

vấn đề có thể xảy ra để có những biện pháp điều chỉnh ngay trong hiện tại.
Giúp cho tổ chức thực hiện kế hoạch chính xác dự liệu được những vấn đề

-

có thể ảnh hưởng từ thời điểm lên kế hoạch cho tời lúc thực hiện.
Kiểm tra lường trước dựa vào dự báo, dự đoán về sự thay đổi của môi
trường

Loại kiểm soát này mang tính định hướng cho tương lai.
Ưu điểm:
-

Điểm quan trọng của hoạt động kiểm soát này là đưa ra các phương án quản
trị trước khi vấn đề xảy ra. Kiểm soát này cho phép nhà quản lí ngăn chặn
được vấn đề trước chứ không phải khắc phục những tổn thất sau khi vấn đề

-

đã xảy ra

Giúp cho tổ chức chủ động đối phó với bất trắc trong tương lai và chủ động

-

tránh sai lầm ngay từ đầu.
Đây là hình thức ít tốn kém nhất.

Nhược điểm: do hoạt động kiểm soát có tính dự đoán nên đòi hỏi thông tin
phải thật chính xác thì kiểm soát mới có hiệu quả, mất nhiều thời gian và khó
khăn trong việc thu thập thông tin.


Nhóm 5 – KH12NS1

b. Kiểm soát hiện hành
-

Là hoạt động kiểm soát được áp dụng khi một hoạt động nào đó đang được
thực hiện. Áp dụng loại kiểm soát này, nhà quản lí có thể phát hiện được
những vấn đề mới phát sinh, từ đó có sự điều chỉnh phù hợp trước khi chúng

-

trở nên nghiêm trọng.
Hoạt động này được tiến hành bằng các theo dõi trực tiếp những diễn biến

-

trong quá trinh thực hiện kế hoạch.
Mục tiêu nằm kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, những trở ngại khó khăn,

những thay đổi của môi trường, kịp thời điều chỉnh để đảm bảo tiến độ, mục
tiêu đề ra.

Ưu điểm:
-

Có thể vừa kiểm tra vừa khắc phục lỗi
Vấn đề thường được giải quyết trước khi lãng phí các nguồn lực hoặc tổn

-

thất về tài chính,…
Có thể áp dụng khoa học kĩ thuật vào hoạt động

Nhược điểm: Dạng kiểm soát này chỉ có hiệu quả khi các nhà quản lí có được
những thông tin chính xác và kịp thời về những biến đổi cảu moi trương và về
hoạt động đang thực hiện.
c. Kiểm soát phản hồi: là hoạt động kiểm soát được thực hiện sau khi hoạt động
đã xảy ra.
Ưu điểm:
-

Chủ thể kiểm soát dễ thu thập đủ thông tin về những hiệu quả của nỗ lực

-

trong việc thực hiện kế hoạch.
Kiểm soát được tiến hành sau khi đã hoàn thành hoạt động bởi vậy dễ quan
sát kết quả có thể đưa ra những đánh giá chính xác và khách quan hơn.



Nhóm 5 – KH12NS1

Nhược điểm: Do kiểm soát phản hồi diễn ra sau khi hoạt động đã xảy ra bởi
vậy mọi sự đánh giá chỉ mang tính chất tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, không có
sự điều chỉnh kịp thời, tác động trược tiếp vào quá trình hoạt động đang diễn ra.
3.2. Theo hình thức kiểm soát
- Giám sát: là hoạt động xem xét, theo dõi và đánh giá của các cơ quan quyền
lực nhà nước ( Quốc hội và HĐND các cấp), các cơ quan tư pháp, các tổ chức quần
chúng, và của công dân đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và
cán bộ, công chức hành chính.
- Thanh tra: Là hình thức hoạt động kiểm soát của cơ quan thanh tra, có thanh
tra nhà nước và thanh tra nhân dân.
- Kiểm tra: là hoạt động kiểm tra của cơ quan hay cá nhân cấp trên đối với cơ
quan, cá nhân cấp dưới, hoặc kiểm tra của cơ quan nhà nước theo ngành, lĩnh vực
thực hiện đối với những cơ quan không trực thuộc mình về tổ chức trong viêc chấp
hành pháp luật và các quy tắc quản lí về ngành, lĩnh vực mình quản lí, thống nhất
trên phạm vi toàn quốc
- Kiểm toán: một hình thức kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước
về mặt tài chính. Kiểm toán nhà nươc là cơ quan đặc thù được thành lập để giúp
thủ tướng chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp
pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước,
các đươn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ
chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp
2.2. Phân loại theo vi trí của chủ thể kiểm soát so với đối tượng kiểm soát:
- Kiểm soát từ bên ngoài bộ máy hành chính do các chủ thể kiểm soát nằm bên
ngoài bộ máy hành chính nhà nước tiến hành. Các hoạt động bên ngoài bộ máy


Nhóm 5 – KH12NS1


hành chính nhà nước bao gồm các hoạt động giám sát ( của cơ quan quyền lực nhà
nước như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, giám sát của các tổ chức chính trị
xã hội, tổ chức xã hội và công dân), hoạt động kiểm toán của các cơ quan kiểm
toán và kiểm tra Đảng.
- Kiểm sát từ bên trong bộ máy hành chính – kiểm tra nội bộ, là hình thức kiểm
soát do các chủ thể bên trong hệ thống hành chính nhà nước tiến hành. Hoạt động
kiểm soát bên trong bao gồm hoạt động kiểm tra và hoạt động thanh tra của các cơ
quan nhà nước.
Trong tất cả các cách phân loại trên sẽ đi sâu vào nhiên cứu cách phân loại dựa
trên thời gian thực hiện hoạt động kiểm soát.
4. Quy trình kiểm soát
Kiểm soát không phải là hoạt động riêng lẻ mà thực chất là một tiến trình bao
gồm nhiều hoạt động có thể chia thành các bước chủ yếu sau:





Lập kế hoạch kiểm soát
Đo lường hoạt động hiện tại của các thành viên và tổ chức.
So sánh hoạt động hiện tại với những chuẩn mực đã được vạch ra.
Tiến hành các hoạt động điều chỉnh cần thiết để khắc phục những sai lệch.

5. Vai trò – ý nghĩa.
5.1. Đối với tổ chức
Thông qua hoạt động kiểm soát biết được hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
tổ chức, mức độ hoàn thành mục tiêu, từ đó xác định được những thay đổi cần phải
áp dụng để điều chỉnh các hoạt động của cá nhân và tổ chức cho phù hợp.



Nhóm 5 – KH12NS1

Thông qua hoạt động kiểm soát giúp cho việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của cá nhân, tổ chức được tốt hơn, là công cụ để hoàn thiện hoạt động cơ quan
tổ chức, cơ chế của tổ chức.
5.2. Đối với cơ quan Hành chính
Kiểm soát bảo đảm bộ máy hành chính Nhà nước chấp hành chính xác các
quyết định của cơ quan Quyền lực nhà nước
Kiểm soát hoạt động hành chính nhà nước là phương thức quan trọng bảo
đảm pháp chế XHCN: Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi các cơ quan Hành
chính nhà nước phải quán lí các đối tượng quản lí của mình bằng pháp luật và theo
pháp luật. Chính vì vậy, hoạt động quản lí Hành chính Nhà nước phải hợp pháp.
Việc kiểm soát nhằm phòng ngừa phát hiện các vi phạm pháp luật và phát hiện các
vi phạm pháp luật và xác định các biện pháp xử lí khi có vi phạm nên là một
phương pháp để bảo đảm pháp chế trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước.
Kiểm soát giúp bảo đảm kỉ luật trong quản lí nhà nước. Việc không đảm bảo
kỉ luật sẽ dẫn tới việc vô tổ chức, trì trệ trong hoạt động của tổ chức làm giảm hiệu
lực hiệu quả của tổ chức . Với bộ máy Nhà nước, việc đảm bảo kỷ cương, kỷ luật
còn là tiền đề để đảm bảo pháp chế.
Kiểm soát nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Hành chính nhà
nước. Hoạt động của Nhà nước nói chung và bộ máy Hành chính Nhà nước nói
riêng bị chi phối mạnh mẽ của mục tiêu chính trị. BÔj máy Hành chính nhà nước
nhiệm vụ duy trì trật tự xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển là công cụ quan trọng
hiện thực hóa các định hướng chính trị của Đảng. Chính vì vậy, kiểm soát được
tiến hành để đảm bảo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được chấp hành


Nhóm 5 – KH12NS1


đầy đủ, bảo đảm sự phát triển của Nhà nước và xã hội theo đúng định hướng của
Đảng.
Kiểm soát nhằm bảo đảm hiệu quả trong hoạt động hành chính nhà nước:
Đảm bảo sử dụng các nguồn lực công cộng kinh tế nhất, hiệu quả nhất, tiết kiệm
nhất, ko lãng phí.
Ví dụ: Tháng 9.2011, Thanh tra Chính phủ công bố quyết định chính thức về
việc thanh tra việc chấp hành pháp luật trong công tác quản lý và sử dụng vốn, tài
sản tại Vinalines. Thanh tra vào cuộc phát hiện Vinalines với hàng loạt sai phạm
gây thất thoát 366 tỉ đồng,và những sai phạm trong việc hối lộ, bao che, tiết lộ bí
mật của cơ quan điều tra, … Dương Chí Dũng bị kết án tử hình về tội tham ô, 28
năm tù về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng. Như vậy hoạt động kiểm soát là vô cùng cần thiết bởi khi các chủ
thể có quyền lực được phép sử dụng quyền lực có thể dẫn tới lạm quyền, gây ảnh
hưởng xấu tới hiệu quả của hoạt động quản lí thì cần phải có sự kiểm soát quyền
lực để đảm bảo quyền lực được sử dụng đúng mục tiêu.
Kiểm soát giúp phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lí từ đó để hoàn
thiện hệ thống pháp lí.

II. Nội dung của chức năng kiểm soát
1.

Các nội dung của chức năng kiểm soát

Kiểm soát là một tiến trình gồm các hoạt động giám sát nhằm đảm bảo rằng
các hoạt động đó được thực hiện theo đúng như kế hoạch và điều chỉnh những sai


Nhóm 5 – KH12NS1


sót quan trọng. Mỗi cơ quan, tổ chức đều có những cách thức kiểm soát khác nhau
nhằm đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu đạt hiệu quả cao. Và để đa dạng hóa
hoạt động kiểm soát thì cũng có những cách thức kiểm soát khác nhau như: Kiểm
soát con người; Kiểm soát chung; Kiểm soát tài chính; Kiểm soát thông tin; Kiểm
soát tác nghiệp; Kiểm soát thủ tục…
1.1.

Kiểm soát các hoạt động chung

Quản lý nhà nước là một loại hoạt động mang tính chuyên biệt, sản phẩm là
các quyết định quản lý và cung cấp các dịch vụ công cho xã hội không vì mục tiêu
lợi nhuận mà chỉ hướng tới sự bình đẳng, an sinh xã hội. Bên cạnh đó quản lý nhà
nước luôn gắn với yếu tố quyền lực và các lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân. Do đó cần
có kiểm tra, kiểm soát để việc tuân thủ pháp luật, pháp chế được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh và các chủ trương, chính sách, pháp luật do nhà nước ban hành
phù hợp với điều kiện thực tiễn. Chỉ nói riêng sự kiểm tra đối với các quyết định
hành chính và hành vi hành chính cũng bao gồm một phạm vi rất rộng: Kiểm tra
tính hợp hiến, kiểm tra tính hợp pháp, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới; kiểm
tra của các cơ quan xét xử…
Hoạt động quản lý nhà nước và trong quá trình thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám sát. Một cơ
quan nắm trọn quyền hạn, thẩm quyền trong thực hiện quyền lực nhà nước mà
không được kiểm tra thì dễ phát sinh lộng quyền, cửa quyền, lạm quyền, vì động
cơ mục đích cá nhân, cục bộ bản vị ngành, địa phương. Tùy theo bản chất, đối
tượng, chủ thể tổ chức thực hiện, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để
chỉ sự kiểm tra: giám sát, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra. Cơ cấu tổ chức và cơ chế
kiểm tra của Nhà nước ta gồm đủ các loại hình kiểm tra nói trên.
Kiểm soát chung trong TCHCNN : là hoạt động kiểm soát của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền đối với đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ



Nhóm 5 – KH12NS1

được giao của cơ quan hành chính nhà nước, kịp thời phát hiện những thiếu sót, sai
phạm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, qua đó nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Kiểm soát chung thường được tiến hành
bằng các hình thức kiểm tra, thanh tra, giám sát.
Ví dụ: Khoản 9 Điều 2 Nghị định số 61/2012/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ:
Về cán bộ, công chức, viên chức nhà nước:
a) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức, viên chức
lãnh đạo, quản lý của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; tổng
hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch cán bộ, công chức, viên chức và
các chức danh lãnh đạo, quản lý khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;
b) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ về: Tuyển dụng, sử dụng, quản lý vị trí việc làm, bổ nhiệm ngạch,
chuyển ngạch, nâng ngạch, thay đổi chức danh nghề nghiệp, đánh giá, bổ nhiệm,
bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, biệt phái, xin thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn
nhiệm, kỷ luật, thôi việc, nghỉ hưu, đạo đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công
chức, viên chức và các nội dung quản lý khác đối với cán bộ, công chức, viên chức
theo quy định của pháp luật; bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới theo quy định của
pháp luật;
c) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của Chính phủ về chức danh,
tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý từ cấptrưởng phòng và
tương đương đến thứ trưởng và tương đương của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ; từ cấp trưởng phòng và tương đương thuộc Ủy ban nhân dân cấp
huyện đến giám đốc sở và tương đương thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;



Nhóm 5 – KH12NS1

d) Quy định ngạch và mã số ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức;
ban hành và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; cơ cấu ngạch công chức; công tác quản lý
hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức; cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp;
số hiệu, thẻ và chế độ đeo thẻ của công chức, viên chức; trang phục đối với cán bộ,
công chức;
đ) Chủ trì tổ chức thi nâng ngạch công chức từ ngạch chuyên viên và tương đương
lên ngạch chuyên viên chính và tương đương, từ ngạch chuyên viên chính và tương
đương lên ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trong các cơ quan nhà nước,
các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước; phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương Đảng
tổ chức thi nâng ngạch công chức từ ngạch chuyên viên và tương đương lên ngạch
chuyên viên chính và tương đương; từ ngạch chuyên viên chính và tương đương
lên ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp
của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội; phối hợp với các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức
danh nghề nghiệp của viên chức; quyết định bổ nhiệm ngạch chuyên viên cao cấp,
chức danh nghề nghiệp tương đương ngạch chuyên viên cao cấp theo thẩm quyền;
kiểm tra, giám sát việc nâng ngạch công chức và thay đổi chức danh nghề nghiệp
của viên chức;
e) Thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật quy định về tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ của các chức danh nghề nghiệp viên chức, cơ cấu chức
danh nghề nghiệp viên chức, đánh giá, nội dung, hình thức thi tuyển, xét, thăng
hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành để Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ quản lý ngạch viên chức chuyên ngành ban hành;


Nhóm 5 – KH12NS1


g) Thẩm định về nhân sự đối với các chức danh cán bộ, công chức, viên chức và
các chức danh lãnh đạo, quản lý khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ
quyết định, phê chuẩn theo quy định của pháp luật;
h) Tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ cao cấp theo phân công và phân
cấp;
i) Xây dựng và quản lý dữ liệu quốc gia về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước, cán bộ, công chức cấp xã và cán bộ thuộc thẩm quyền quyết định của
Thủ tướng Chính phủ; tổ chức quản lý hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức theo
phân cấp;
k) Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện quy định của Chính phủ về quy
hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, tỷ lệ nữ để bổ nhiệm các chức danh trong các cơ quan
nhà nước; thu thập, tổng hợp các chỉ tiêu thống kê quốc gia về công tác cán bộ nữ.
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định
của pháp luật thì Bộ Nội vụ cần thực hiện tốt chức năng kiểm soát chung đối với
những cán bộ, công chức, cơ quan làm nhiệm vụ quản lý, tuyển dụng, đánh giá,
phân loại… cán bộ, công chức, viên chức hằng năm. Đặc biệt là Vụ Tổ chức cán
bộ, các Sở Nội Vụ, Phòng Nội vụ…
Trong khi đó Kiểm soát trong các tổ chức tư nhân được hiểu là một chuỗi
các hoạt động giám sát, kiểm tra của các cá nhân, nhóm người có quyền hành trong
tổ chức đối với các chu trình hoạt động, các kế hoạch, chiến lược của tổ chức nhằm
đạt được mục tiêu đã đề ra.
Hoạt động cuả các tổ chức tư nhân là cung ứng các sản phẩm, dịch vụ tiện
ích cho xã hội và với mục tiêu lớn nhất đó là lợi nhuận. Tổ chức tư nhân có thể do
một hay nhiều cá nhân đứng đầu dưới hình thức công ty TNHH, công ty một thành


Nhóm 5 – KH12NS1

viên, Tập đoàn…Và do vậy quyền lực của tổ chức sẽ phụ thuộc vào người đứng

đầu trong việc trao quyền, ủy quyền.
Trong tổ chức tư nhân việc kiểm soát chung có thể được thực hiện thông qua
người đứng đầu tổ chức, những bộ phận chuyên trách, những người được giao làm
nhiệm vụ kiểm soát… để mọi hoạt động của tổ chức luôn đi đúng hướng, tạo ra sự
đồng bộ, cũng như giúp tổ chức tạo ra sức mạnh, vị thế trên thị trường, mở rộng
phạm vi hoạt động.
Xuất phát từ mục tiêu và bản chất của tổ chức, do vậy hoạt động kiểm soát
chung giữa TCHCNN với Tổ chức tư nhân có những điểm giống và khác nhau căn
bản đó là:
Giống nhau:



Đều là hoạt động kiểm soát.
Mục tiêu: đảm bảo tổ chức hoạt động đúng hướng, đúng mục đích, quy



định,tiêu chuẩn đã đề ra đúng hay không?
Đối tượng kểm soát: là tổ chức cụ thể, và con người, những quy trình thực



hiện hay phương tiện máy móc giúp cho tổ chức hoạt động.
Bản chất là kiểm soát con người, và hành vi thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của con người trong tổ chức ấy.

Khác nhau

STT

1

Tiêu chí
sánh
Khái niệm

so

Kiểm soát trong TC tư
nhân
Kiểm soát chung trong
Kiểm soát trong
TCHCNN là hoạt động các tổ chức tư nhân được
Kiểm soát trong TCHCNN


Nhóm 5 – KH12NS1

2

kiểm soát của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm
quyền đối với đối với việc
thực hiện chức năng, nhiệm
vụ được giao của cơ quan
hành chính nhà nước, kịp
thời phát hiện những thiếu
sót, sai phạm trong thực
hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao, qua đó nâng cao

hiệu lực, hiệu quả quản lý
hành chính nhà nước
Chủ thể tiến Cơ quan thanh tra, cơ quan
hành kiểm soát quản lý cấp trên trực tiếp.
chung

hiểu là một chuỗi các hoạt
động giám sát, kiểm tra
của các cá nhân, nhóm
người có quyền hành
trong tổ chức đối với các
chu trình hoạt động, các
kế hoạch, chiến lược của
tổ chức nhằm đạt được
mục tiêu đã đề ra.

Đối tượng chịu
sự kiểm soát
Khách
thể
quản lý

Cán bộ, công chức thuộc
quyền quản lý.
Việc thực hiện những quy
định của pháp luật, thực
hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của CBCC…

Người đứng đầu, những

bộ phận chuyên trách,
những người được giao
làm nhiệm vụ kiểm soát
Nhân viên, người lao
động trong tổ chức.
Qúa trình thực thi nhiệm
vụ, kiểm tra thẩm định
chất lượng công việc, sản
phẩm…

5

Ưu điểm

6

Hạn chế

Mang tính tương đối
khách quan, do đơn vị khác
thực hiện.
Xem xét đầy đủ, toàn diện
việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan.
Có tác dụng lâu dài trong
việc thực hiện các chủ
trương, chính sách, quy
trình thủ tục pháp luật.
Không thường xuyên liên
tục, mà phải tiến hành theo

kế hoạch, theo quy định của
pháp luật.
Việc áp dụng biện pháp

Kiểm soát trực tiếp mọi
hoạt động của tổ chức
thông qua người trong tổ
chức, nên có sự am hiểu
về tổ chức.
Tác động trực tiếp về
quyền lợi nên có tác dụng
nhanh chóng, làm thay
đổi ý thức trách nhiệm
của nhân viên.
Không có tác dụng lâu
dài, mà thường xuyên
phải thay đổi phương
pháp kiểm soát.
Việc kiểm soát thường

3
4


Nhóm 5 – KH12NS1

xử lý thường lâu, kéo dài, chịu ảnh hưởng yếu tố tài
do cần sự xem xét, thẩm chính của tổ chức.
định giữa các cơ quan.
Do kiểm soát từ bên

ngoài cơ quan, thời gian có
hạn  khó nắm bắt được
tận gốc vấn đề.
Chi phí, nguồn lực có hạn.

1.2.

Kiểm soát các hoạt động tác nghiệp cụ thể

Nội dung tiếp theo của hoạt động kiểm soát là kiểm soát các tác nghiệp cụ
thể.Đây là một trong số những nội dung quan trọng nhất trong chức năng kiểm soát
trong bất kỳ tổ chức nào. Mục tiêu chiến lược tổng thể của tổ chức sẽ được cụ thể
hóa qua những chương trình, các phần công việc cụ thể được thực hiện trong
những giai đoạn nhất định. Trong quá trình thực hiện những nội dung nhỏ của mục
tiêu tổ chức thì không thể thiếu sự vào cuộc của hoạt động kiểm soát để đảm bảo
việc thực hiện các mục tiêu thành phần này được đảm bảo hiệu quả hướng tới hoàn
thành tốt mục tiêu lớn, mục tiêu tổng thể mà tổ chức đặt ra.
Kiểm soát tác nghiệp gắn liền với quá trình xử lý cụ thể nhằm biến những
yếu tô đầu vào của tổ chức thành những sản phẩm đầu ra đảm bảo về số lượng và
chất lượng qua quá trình sản xuất, xử lý và một chuỗi các hoạt động tác nghiệp
trong tổ chức.
Thông thường đối với mọi tổ chức các yếu tố đầu vào thường là : vốn, nguồn
nhân lực, công nghệ, thông tin, trang thiết bị kỹ thuật, nguyên vật liệu…và các yếu
tố khác nhằm phục vụ quá trình hoạt động của tổ chức. Qua quá trình xử lý tác
nghiệp của các thành viên trong tổ chức sẽ cho ra đầu ra là các sản phẩm hàng hóa
hoặc dịch vụ cung ứng cho xã hội. Do vậy, kiếm soát tác nghiệp trong tổ chức nói


Nhóm 5 – KH12NS1


chung chính là quá trình kiểm soát hệ thống thông tin, các hoạt động cụ thể của tổ
chức trong quá trình thực hiện mục tiêu.
Hoạt động kiểm soát các tác nghiệp cụ thể được thực hiện bằng một số kỹ
thuật như:
Kế hoạch hóa tác nghiệp: tức là các chương trình hành động của tổ chức
được lên kế hoạch một cách cụ thể, điều này giúp nhà quản trị xác định được các
nguồn lực cần cho tổ chức trong quá trình hoạt động. Ở mỗi giai đoạn nhất định,
nhà quản lý có thể tiến hành hoạt động kiểm soát để xem xét việc phân bổ, sử dụng
các nguồn lực đã định sẵn của tổ chức như thế nào, chi phí hoạt động ra sao, và
mối quan hệ giữa nhân viên với đối tượng mà tổ chức hướng đến ra sao…
Ví dụ: Doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc, nhà quản lý sẽ lên kế hoạch sản xuất
cho doanh nghiệp và trong quá trình sản xuất sẽ tiến hành kiểm soát về các vấn đề
về nguồn nhân công thực hiện công việc, về việc sử dụng các nguyên vật liệu của
tổ chức, về tài chính, về khoa học kỹ thuật… có đảm bảo đúng quy trình không,
đúng tiêu chuẩn đã xác định trước không và có biện pháp điều chỉnh nếu thấy cần
thiết.
Phương pháp Sơ đồ PERT - “kỹ thuật đánh giá và thẩm định chương
trình”.
Phương pháp sơ đồ PERT là kỹ thuật quản trị tiến trình và thời hạn các công việc
của dự án bằng sơ đồ hệ thống (hay sơ đồ mạng); trong đó, sự hoàn thành của công
việc này có quan hệ chặt chẽ tới sự hoàn thành của công việc khác”.
Hoạt động kiểm soát tác nghiệp ở đây là thông qua việc kiểm soát kết quả của các
công việc chi tiết cụ thể liên quan có thể nhiều hay ít đến việc thực hiện mục tiêu
tổ chức để dự báo khả năng có thể hoàn thành hay không mục tiêu mà tổ chức đặt


Nhóm 5 – KH12NS1

ra từ trước. Xem có cần điều chỉnh mục tiêu hay cần tác động đến quá trình thực
hiện mục tiêu hay không.



Kiểm soát tác nghiệp cụ thể trong các tổ chức hành chính nhà nước.

Kiểm soát tác nghiệp là hoạt động kiểm soát của cơ quan, đơn vị, cá nhân có
thẩm quyền đối với hoạt động thực thi công vụ theo chuẩn mực, quy định tiêu
chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công chức nhà nước hay người được
giao nhiệm vụ.
Hoạt động kiểm soát tác nghiệp trong tổ chức hành chính nhà nước thông
thường được thực hiện thông qua hình thức kiểm tra trong nội bộ cơ quan và hình
thức thanh tra của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền đối với hoạt động của tổ chức.


Hình thức kiểm tra trong nội bộ cơ quan, tổ chức hành chính.

Do đặc thù của cơ quan hành chính nhà nước là tính thứ bậc chặt chẽ, mối quan
hệ trên dưới nghiêm ngặt nên hoạt động này thường do thủ trưởng hay người đứng
đầu cơ quan, tổ chức thực hiện đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thuộc
quyền quản lý trong tổ chức.
Thủ trưởng cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm tra nhân viên của mình trong việc
thực hiện công vụ, nhiệm vụ theo đúng thẩm quyền được giao, từ việc nhận biết sự
việc, lên phương án giải quyết và tiến trình giải quyết công việc có đúng với các
quy định của pháp luật, quy chế của tổ chức và các tiêu chuẩn về chuyên môn,
nghiệp vụ không. Tiến hành hoạt động này giúp cho người đứng đầu cơ quan có sự
nhìn nhận thiết thực nhất về phong cách cũng như năng lực làm việc của nhân viên
trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của cơ quan, tổ chức đó.
Việc kiểm tra này thường được thủ trưởng thực hiện thông qua các báo cáo của
chính nhân viên hay báo cáo thống kê theo tiêu chuẩn của người quản lý trực tiếp



Nhóm 5 – KH12NS1

nhân viên như trưởng phòng, trưởng bộ phận; hay có thể qua hình thưc quan sát
trực tiếp quá trình làm việc của nhân viên bất cứ khi nào mà thủ trưởng thấy cần
thiết. phương pháp này có thể được coi như sự giám sát trực tiếp của thủ trưởng
đối với nhân viên trong tổ chức và trong nhiều trường hợp cũng đạt được những
hiệu quả nhất định.
Ví dụ: Trưởng phòng Tổ chức cán bộ của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh A thường
xuyên thực hiện hoạt động quan sát, kiểm tra quá trình làm việc của các nhân viên
trong phòng mình từ việc lập Hồ sơ nhân viên, tuyển dụng, các quy trình xét duyệt
khen thưởng kỷ luật, các công việc liên quan đến tiền lương của nhân sự trong tổ
chức… nhằm đảm bảo các hoạt động tác nghiệp này được tiến hành theo đúng
trình tự thủ tục và tạo ra được sự công bằng đối với tất cả nhân viên trong tổ chức
đó. Qua việc quan sát Thủ trưởng đơn vị sẽ nhận biết được những cá nhân thực
hiện công việc ở mức độ nào để có những hình thức tác động phù hợp nhằm tạo
hiệu quả thực thi công vụ cao hơn.


Hình thức thanh tra đối với các hoạt động cụ thể của TCHCNN

Đây là hình thức kiểm soát từ bên ngoài tổ chức trong việc thực hiện tác nghiệp
trong mỗi tổ chức, cơ quan hành chính nhà nước và do cơ quan Thanh tra nhà nước
tiến hành.
Thanh tra là hoạt động kiểm soát từ bên ngoài do vậy mang tính khách quan và
đáng tin cậy hơn, bởi do một cơ quan chuyên trách về lĩnh vực thanh tra đảm nhận
nên có sự chuyên sâu về chuyên môn nghiệp vụ.
Theo chương trình, kế hoạch hay từ nhu cầu thực tế cơ quan thanh tra tiến hành
hoạt động thanh tra ở các cơ quan, tổ chức về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
mà tổ chức được giao đảm nhận. Tuy vậy, điều cần thiết để đưa ra kết luận về mức
độ hoàn thành mục tiêu của tổ chức thì cơ quan thanh tra này cần phải tiến hành



Nhóm 5 – KH12NS1

một chuỗi các hoạt động xem xét, đánh giá từng hoạt động cụ thể của tổ chức về
việc sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực; về quy trình thực hiện công việc của
từng cá nhân trong tổ chức khi thực hiện công vụ…
Ví dụ, thanh tra các hoạt động sử dụng tài chính trong tổ chức hành chính nhà
nước được tiến hành thường xuyên theo quý hay năm tùy vào tính chất hoạt động
của tổ chức đó. Chủ thể thực hiện là cơ quan Thanh tra của Nhà nước, tiến hành
việc rà soát, thống kê và đánh giá các báo cáo tài chính, các thủ tục sử dụng ngân
sách của các cơ quan hành chính xem sử dụng có đúng mục đích, đúng cách thức
và đúng quy định hay không. Từ đó có những biện pháp tác động khi cần thiết để
việc sử dụng tài chính ( nguồn ngân sách nhà nước ) sao cho hợp lý và có hiệu quả
nhất, giảm thiểu mức thấp nhất sợ thất thoát ngân sách. Đây chính là hoạt động
kiểm soát tác nghiệp trên lĩnh vực sử dụng tài chính của tổ chức.


Thực trạng của hoạt động kiểm soát tác nghiệp trong tổ chức hành chính
nhà nước Việt Nam hiện nay.

Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện các hình thức kiểm tra và thanh tra
trong kiểm soát các tác nghiệp cụ thể ở tổ chức hành chính nhà nước đã và đang
được mở rộng cả về quy mô và tính chất kiểm soát. Nhà nước đã thực sự chú trọng
đến công tác kiểm soát và nội dung kiểm soát tác nghiệp, chỉ khi các công việc cụ
thể được thực hiện tốt thì mới tạo ra khả năng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ
của tổ chức nhà nước đó.
Các cơ quan hành chính đã thành lập trong nội bộ tổ chức mình các Ủy ban
kiểm tra giám sát để giúp Thủ trưởng quản lý hoạt động của đội ngũ cán bộ công
chức sao cho đạt hiệu quả cao nhất.

Bên cạnh đó cơ quan Thanh tra Nhà nước cũng thường xuyên tổ chức các cuộc
Thanh tra đối với hoạt động của các tổ chức hành chính như là một phương thức


Nhóm 5 – KH12NS1

nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cũng như sử dụng hợp lý các nguồn lực của
tổ chức.
Dù vậy, một thực tế không thể phủ nhận là trong nhiều tổ chức hành chính nhà
nước, chức năng kiểm soát các tác nhiệp cụ thể vẫn chưa được thực hiện triệt để và
mang lại hiệu quả thiết thực. Hoạt động này còn mang nặng tính hình thức và thiếu
tính công khai, dẫn đến nhiều vấn đề trong tổ chức chưa được minh bạch do đó quá
trình quản lý tác nghiệp cũng trở nên khó khăn hơn và trong nhiều trường hợp ảnh
hưởng tiêu cực đến mục tiêu của các tổ chức hành chính nhà nước là quản lý hành
chính nhà nước và cung cấp dịch vụ công.
Ví dụ, một vấn đề hiện nay đang được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm là dịch
sởi bùng phát nhanh chóng. Đây là lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế.
Theo thống kê của Bộ y tế ngày 18/4/2014, ghi nhận 3.256 tường hợp mắc sởi trên
8.779 người bị phát ban nghi mắc sởi. Phần lớn số mắc sởi là trẻ em dưới 10 tuổi
và 87% ca mắc sởi không được tiêm chủng. Ở đây không xem xét đến vấn đề ai
chịu trách nhiệm mà cần hỏi hoạt động kiểm soát tác nghiệp cụ thể trong lĩnh vực
này được tiến hành đến đâu. Từ việc kiểm tra chất lượng vacxin, triển khai tiêm
chủng cho trẻ, tới việc xử lý và khoanh vùng nơi phát dịch để kìm chế sự gia tăng
của bệnh dịch. Rất tiếc, khi các đoàn kiểm tra hay thanh tra vào cuộc thì hậu quả sự
việc đã ở đến mức đáng báo động.
Trên đây chỉ là một trong số rất nhiều thực trạng của hoạt động kiểm soát tác
nghiệp trong các tổ chức hành chính nhà nước Việt Nam đã và đang gặp phải. Bởi
hàng ngày vẫn có vô số những vấn đề xã hội nảy sinh do sự lỏng lẻo trong hoạt
động kiểm soát : giáo dục, môi trường, giao thông,…
Trong mọi tổ chức nói chung hay tổ chức hành chính nhà nước nói riêng thì

công tác kiểm soát các hoạt động cụ thể là chức năng thiết yếu và không thể thiếu.


Nhóm 5 – KH12NS1

Có thể nói điều khác biệt căn bản trong hoạt động này giữa tổ chức nói chung và tổ
chức hành chính nhà nước là tính quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua các
chủ thể thực hiện hoạt động này trong các cơ quan hành chính nhà nước: ban kiểm
tra hay cơ quan thanh tra nhà nước. Chính việc thiết lập ra các bộ phận có chức
năng chuyên biệt này giúp cho hoạt động kiểm soát tác nghiệp đạt được kết quả
cao và từ đó nhận biết được yếu điểm để có sự điều chỉnh cần thiết trong việc thực
hiên mục tiêu, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức. Tuy nhiên, đây cũng trở thành
điểm hạn chế lớn của các tổ chức hành chính nhà nước, đó là việc quá phụ thuộc
vào đơn vị, bộ phận chuyên môn này mà dẫn đến tình trạng thiếu tính chủ động
linh hoạt trong việc quản lý tổ chức mình.
Như vậy, có thể thấy không phải khi nào hoạt động kiểm soát tác nghiệp cũng
được tiến hành đạt hiệu quả mong muốn. Nhà quản lý hành chính các cấp cần có
sự chú trọng đặc biệt đến hoạt động này trong quá trình thực hiện mục tiêu chiến
lược của tổ chức.
1.3.

Kiểm soát con người

Kiểm soát nhân viên 1 cách hiệu quả là nhiệm vụ hàng đầu của các tổ chức. nó
mang đến nhiều lợi ích cho tổ chức, là yếu tố giúp cho người quản lý thành công
trong vai trò của mình và nhân viên làm việc hiệu quả, nhiệt tình hơn và năng suất
cao hơn.
Kiểm soát con người trong các tổ chức nói chung:
Ở các tổ chức nói chung, đặc biệt là các tổ chức tư nhân và tổ chức có vốn đầu tư
nước ngoài. Họ thường áp dụng những cách thức kiểm soát nhân viên như sau:

Thứ nhất: kiểm soát nhân viên thông qua hệ thống cấp bậc và cấu trúc tổ
chức. Sự phân cấp giữa nhân viên và quản lý rất quan trọng: nó xác định ai là


Nhóm 5 – KH12NS1

người có trách nhiệm thực hiện công việc và ai là người đảm bảo nhiệm vụ lớn
được hoàn thành. Sếp phải xem xét kĩ lưỡng công việc của nhân viên và chỉ ra
thành công, khó khăn, trong khi đó nhân viên cần dựa vào sếp để hoàn thành công
việc của mình. Một hệ thống cấp bậc và cấu trúc hợp lý, phân chia nhiệm vụ “
đúng người đúng việc” sẽ là biện pháp kiểm soát hiệu quả. Nhân viên biết mình
phải chịu trách nhiệm trước ai, có thể là 1 hoặc nhiều người. Khi có hệ thống thứ
bậc và cấu trúc rõ ràng đến từng bộ phận sẽ dễ dàng kiểm soát nhân viên, hạn chế
tình trạng vô kỷ luật trong tổ chức.
Thứ hai : kiểm soát nhân viên thong qua hình thức trao quyền cho nhân viên.
Giao quyền cho phép nhân viên độc lập suy nghĩ, hành động, kiểm soát và quyết
định công việc của chính mình. Họ có thể quyết định thực hiện công việc theo
những gì họ tin là đúng và sẵn sàng chịu trách nhiệm cho kết quả cuối cùng. Từ đó
nhà quản lý có thể dễ dàng hơn trong việc kiểm soát nhân viên của minh. Họ chỉ
cần đưa ra 1 số tiêu chí kiểm soát như kiểm soát theo số lượng sản phẩm tạo ra,
theo doanh số bán hàng,…còn phần lớn quá trình hoạt động sẽ do nhân viên tự chủ
động thực hiện.
Thứ ba: kiểm soát nhân viên thông qua thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu về
các nhân viên trong tc. Các tổ chức thường có các hồ sơ cá nhân của từng thành
viên, từ đó thiết lập mô hình phân chia công việc, khen thưởng hay phạt đối với
từng cá nhân, đáp ứng tính hiệu quả và công bằng giữa các nhân viên. Hệ thống cơ
sở dữ liệu giúp cho nhà quản lý cấp cao dễ dàng theo dõi tình hình làm việc của
nhân viên cũng như của cả tổ chức. một số tổ chức thường có các hình thức kiểm
soát nhân viên thông qua quẹt thẻ, dấu vân tay….
Bên cạnh đó có thể thấy rằng ở các tổ chức nói chung thì khối lượng cộng việc

thường là có thể đo lường được, số đầu mối công việc rõ rang, …Do đó việc phân


×