Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BÀI TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.94 KB, 21 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Bộ môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh


A.LỜI MỞ ĐẦU

Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của
thời đại, đất nước Việt Nam chúng ta tuy nhỏ bé nhưng luôn luôn tự hào
rằng dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước mà khiến cho cả thế giới
phải nể phục, ngày hôm nay chúng ta được sống trong hòa bình, có đủ
cơm no áo mặc cũng nhờ xương máu của cha ông ta đổ xuống và công
lao như trời như biển mà vị cha già kính yêu của dân tộc , Hồ Chí Minh
– Người dành cả đời người chỉ vì hai chữ Tổ quốc thiêng liêng.
Chúng ta nói đến Người với một tấm lòng tri ơn sâu sắc và không
chỉ thế Người ra đi nhưng để lại cho cả một thế hệ những bài học, những
chân lý của cuộc sống và có lẻ điều mà ai ai cũng cảm thấy quý giá đó
chính là phẩm chất, tính cách nói chung là cốt cách, đạo đức của Người
khiến hang triệu đồng bào ta ngộ ra lẻ đời và góp phần khiến cho cuộc
sống trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết.
Chính vì sức ảnh hưởng to lớn như vậy mà bài tiểu luận hôm nay,
nhóm chúng tôi xin được đi sâu và tìm hiểu kĩ lưỡng hơn về đạo đức tư
tưởng Hồ Chí Minh để thong qua đó đem đến cho mọi người một cách
nhìn, một cách nghĩ sâu sắc hơn về cuộc sống bở vốn dĩ Hồ Chí Minh
bắt đầu sự nghiệp cứu nước bằng cách giáo dục lý tưởng từ Người và
đạo đức cách mạng, nêu gương sang cho mọi người. Đồng thời, Người


coi đó là hiện than của đạo đức cách mạng, nêu gương sáng cho Đảng,
toàn dân quân suốt mọi thời đại.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, có một đạo đức học Hồ Chí Minh.


Theo giáo sư Trần Văn Giàu, trong tất cả các lãnh tụ cách mạng thế giới
ở thế kỉ XX, Cụ Hồ là người nhớ nhấn mạnh nhiều nhất đến đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng chỉ giác ngộ chính trị chưa đủ, còn
phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, đạo đức dân tộc. Có nhà lãnh tụ
nói: tổ chức tăng sức mạnh 10 lần; Cụ Hồ dạy: đạo đức tăng sức mạng
gấp bội.
Ở Người có sự thống nhất hòa quyện giữa chính trị, đạo đức, văn
hóa, nhân văn. Tư Tưởng Hồ Chí Minh trước hết là tư tưởng chính trị,
định hướng chính trị nhưng dễ dàng tìm thấy một đạo đức trong sáng,
một chủ nghĩa nhân văn hoàn thiện, một nền văn hóa của tương lai.
Tư tưởng đạo đức “nước lấy dân làm gốc” lại nhằm phục vụ cho
sự nghiệp chính trị vì nước, vì dân.
Hoặc “trung với nước, hiếu với dân” là một tư tưởng chính trị
đồng thời cũng là một phẩm chất cơ bản của tư tưởng đạo đức. Sự thống
nhất trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn là sự thong nhất giữa tư
tưởng và hành động, nói đi đôi với làm; giữa đức và tài; giữa đạo đức
cách mạng và đạo đức đời thường. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh
coi trọng xem xét một cách toàn diện đối với mọi giai cấp và tầng lớp
nhân dân lao động. Tấm gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có giá
trị to lớn, lâu dài trong phạm vi dân tộc và quốc tế. Là vệt sáng trên bầu
trời của nhân loại và trường tồn mãi theo tháng năm.


B. NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1. Khái niệm về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức hồ Chí Minh là sự kết hợp đạo đức truyền thống
của dân tộc với tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đông với
phương Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam.

Đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, là sự kết
tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức
văn hóa của nhân loại. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước, ông cha ta luôn coi trong đạo đức, hình thành nên những chuẩn
mực đạo đức tốt đẹp trong các mối quan hệ gia đình, cộng đồng và xã
hội.
2. Nguồn gốc, đặc điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Người quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng từ
rất sớm và xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình.
Cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927 không phải một chuyên luậ
về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách Người đã
nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết ba
mối quan hệ: Với mignh, với người, với việc.
Những thập kỷ 40, 50, 60 Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc
tích về đạo đức cách mạng. Một trong những nét đặc sắc nổi bật trong tư
tưởng của Người là đạo đức của người cách mạng. Sinh thời Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải quan tâm
rèn luyện đạo đức.
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc,
phẩm chất mỗi con người. “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán
bộ có thẩm nhuận đạo đức cách mạng, hay là không”, “Tuy năng lực và
công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to, người làm việc
nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng”.


Cách mạng mà chính bản thân Người còn là tấm gương trong sáng tuyệt
vời về đạo đức cách mạng
3. Vai trò và những chuẩn mực đạo đức
a. Vai trò
Bác đã từng coi đạo đức là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hang

đầu của người cách mạng cũng như gốc của cây, ngọn của sông suối.
Bởi thế cho nên khi nói về sức mạnh của đạo đức, Người cho rang có
đạo đức như người có sức ảnh hưởng, người có sức mạnh mới gánh
được nặng và đi xa, người cách mạng có đạo đức mới hoàn thành được
nhiệm vụ..
Từ đó ta thấy được rằng đạo đức trong cách mạng thì người cán bộ,
đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ viết lên trán hai
chữ cộng ssarn mà ta được họ yêu quý, quần chúng chỉ yêu mến những
người có đạo đức.
Do đó Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải là một
tấm gương đạo đức để quần chúng tin tưởng noi theo. Từ đó làm nhân tố
tạo nên sức mạnh hấp dẫn cho quá trình đất nước ta ngày càng đi lên
phát triển theo tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
b. Những chuẩn mực đạo đức
Người suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Người khẳng định: đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ mới thành.
Người viết: “Đạo đức cách mạng không phai từ trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài mà sáng, vàng càng luyện càng trong.”
Người nêu là cái đúng, cái tốt, cái hay, đồng thời cũng chỉ ra cái sai,
cái xấu, cái dở để giáo dục đạo đức các tầng lớp nhân dân.
Qua đó, Hồ Chí Minh đã nêu bật những phẩm chất đạo đức cơ bản
nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Đây cũng là những
phẩm chất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam.


*Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất. Trung, hiếu là
những khái niệm đạo đức truyền thống, đã được mở rộng mang những tư

tưởng mới, Trung với nước là điều tuyệt đối trung thành với quá trình
dựng nước và giữ nước. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân,
phục vụ hết lòng.
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Phẩm chất này gắn bó chặt chẽ với phẩm chất “trung với nước, hiếu
với dân”. Việc thực hiện phẩm chất này, đòi hỏi mỗi người phải lấy bản
thân mình làm đối phương điền chỉnh.
- Cần là siêng năng, cần cù, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu
quả với tinh thần tự lực cánh sinh,, không ỷ lại, dựa dẫm.
- Kiệm là tiết kiệm công sức, thời gian,….không hoang phí, bừa bãi.
- Liêm là liêm khiết, trong sạch không tham lam.
- Chính là thẳng thắng, đứng đắn, không tự cao, chịu khó học hỏi.
Theo HCM: Cần , kiệm, liêm, chính là “tứ đức” của con người, là thước
đo văn minh của dân tộc.
Trời có bốn mùa: Xuân, hạ , thu, đông.
Đất có bốn phương: Đông, tây, nam, bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiêm, liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người.
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, hưởng thị đi sau, là
“lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”. Điều mà Phạm
Trọng Yêm đời Tống đã nói: “ Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ
chi lạc nhi”
* Yêu thương con người
Xuất phát từ nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lenin, đặc biệt là từ thực
tiễn cách mạng, từ cuộc sống của các dân tộc bị áp bức và giai cấp cần


lao, Hồ Chí Minh cho rằng tên đời này có hang triệu người, hang trăm

nghìn công việc nhưng có thể chia thành hai hạng người: người Thiện và
người Ác, và hai thứ việc: việc Chính và việc Tà và ghét nhất là điều ác.
Quan niệm của Người về con người rất toàn diện và độc đáo. Con
người không phải thần thánh, có tốt có xấu ở trong lòng. Dù văn minh
hay dã man, tốt hay xấu đều có tình. Bác yêu thương con người với một
tình cảm sâu sắc, vừa bao la, vừa gần gũi, bao trùm cả cộng đồng đến
từng số phận con người.
Người thức tỉnh, đánh thức những gì tốt đẹp nhất trong mỗi con
người, tạo điều kiện cho con người đứng dậy, vươn lên trong cuộc sống.
* Tinh thần quốc tế trong sáng
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà HCM đã nêu lên bằng
mệnh đề “ Bốn phương vô sản đều là an hem”: là tinh thần đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức, bóc lột với nhân dân lao động các nước vì chung
mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, công lí, tiến bộ xã hội, hợp tác hữu
nghị với các nước trên thế giới.
* Cốt cách con người Bác (Tham khảo)
Suốt đời vì dân, vì nước, làm người công bộc tận tụy, trung thành của
nhân dân. Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo khổ nhưng giàu
truyền thống yêu nước, văn hiến, Người được nuôi dưỡng, thấm nhuần
sâu sắc triết lý của cha ông: Muốn dựng làng và giữ nước phải bắt đầu từ
việc làm một người một người thành thật đúng nghĩa. Bài học đạo đức
lớn nhất mà Người để lại cho mọi thế hệ người Việt Nam chính là bài
học ở đời và làm người, mà nội dung và chiều sâu nhân văn của nó là
yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức bóc lột.
Đời tư trong sáng , cuộc sống riêng giản dị, tấm gương đạo đức của Hồ
Chí Minh được thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hang ngày, đó là đời
tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và đức khiêm tốn hết mực. Người
coi khinh sự xa hoa để sống một cuộc đời trong sạch, suốt đời thực hành
cần, kiệm, liê,, chính một cách cần nhẫn. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nói



đi đôi với làm. Trong hành trình tìm đường cứu nước, dù ở đâu, làm gì,
Bác vẫn chấp nhận mọi công việc đó có lợi cho Tổ quốc, có lợi cho cách
mạng.
Người là tấm gương sáng về người lãnh đạo, Người đứng đầu ở vị trí
cai nhất nhưng luôn trung thành, tận tụy vì lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân, không mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân và gia đình.
Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ tịch nước: “ Tôi tuyệt nhiên
không ham muốn cong danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức
Chủ tịch vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một
người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân thì phải ra trước mặt trận. Bao
giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ mơi
non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ
già hái củi, con trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
4. Những nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức mới
a. Tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng
Theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng mài càng trong”.
Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng
loài người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “gian nan rèn luyện mới
thành công”, “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà
nên”.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác , tự nguyện,
dựa vào lương tâm của mỗi con người và dư luận của quần chúng.
Người cách mạng phải ý thức được đjao đức cách mạng là nhằm giải

phóng cho dân tộc. Đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm


và khuyết điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết
điểm. Tu dưỡng đạo đức phải thực tiễn, bền bỉ, mọi hoàn cảnh.
b. Nêu gương đạo đức, lời nói đi đôi với việc làm
Đây không chỉ là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức, mà còn là ranh
giới phân biệt giữa đạo đức cách mạng.
Lời nói phải đi đôi với việc làm và thực hành đạo làm gương là đạo
đức của người cách mạng nói chung, nằm trong vốn văn hóa phương
Đông nói riêng, Người viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông
đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn
một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Người nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên
trán chữ “cộng sản” mà được họ yêu mến”.
II. Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1. Thực trạng đạo đức của sinh viên
Trong thời kỳ hiện nay, phần lớn sinh viên vẫn giữ được lối sống tình
nghĩa, trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn, cần cù, sáng tạo trong học tập;
sống có bản lĩnh, có chí lập than, lập nghiệp; năng động, nhạy bén, dám
đối mặt với khó khăn, thử thách, không ỷ lại, chây lười; phấn đấu vì sự
nghiệp giàu mạnh của đất nước, vì sự tiến bộ của XHCN.
Nhiều nét mới trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước
được hình thành và ăn sâu vào tâm lý quốc dân.
Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới, trung thành, dũng
cảm, khiêm tốn, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Đạo lý của dân tộc sống có tình có nghĩa, bầu ơi thương lấy bí cùng,
lá lành đùm lá rách,….được tiếp tục nhân rộng. Những việc làm thiết
thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các

anh hùng dân tộc, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ đồng
bào hoạn nạn…..trở thành phong trào quần chúng.
Bên cạnh những thành tựu, nổi lên những mặt yếu kém về nhận thức,


tư tưởng, chính trị dẫn tới phai nhạt lý tưởng và sa sút về lối sống, phẩm
chất đạo đức.
Từ sự phát triển của xu thế thời đại, toàn cầu hóa và đặc biệt là
không nghiêm túc trong rèn luyện mà một bộ phận thanh niên, gần gũi
với chúng ta nhất là đối tượng sinh viên sống buông thả, không có ý chí
cầu tiến, lười học tập, không có tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, thụ động,
chỉ thích hưởng thụ, vi phạm pháp luật,….
Chính từ những thói quen xấu đó đã vô tình gây ran guy cơ đe dọa
tương lai của chính các bạn thanh niên và đi xa hơn là cả một xã hội hiện
nay. Hơn bao giờ hết, chúng ta thế hệ trẻ năng động của quốc gia phải có
những vạch ra định hướng đúng đắn cho con đường của bản than, tránh
thói hư tật xấu tồn đọng trong cuộc sống.
2.Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Sinh viên là những thế hệ thanh niên, những người chủ tương lai của
đất nước, là cầu nối giữa các thế hệ, người tiếp sức Cách mạng của thế
hệ thanh niên già. Là người dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai. Thế nên
phải tu dưỡng đạo đức theo 6 cái yêu: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu
CNXH, yêu lao động, yêu khoa học, yêu kỉ luật để trở thành những con
người vừa “hồng” vừa “chuyên” như Bác mong muốn.
Sinh viên là những con người được đào tạo trong các trường đại học
và có tài năng tuy nhiên có tài mà không có đức thì chỉ là người vô
dụng, cho nên việc tu dưỡng đạo đức với sinh viên là vô cùng quan trọng
Học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn vô thường. Một đạo đức hi sinh tính
cá nhân của con người, không phải vì riêng tư, từ bỏ những ham muốn

cá nhân, sống trong sạch, giản dị, giàu lòng nhân ái, gương mẫu trong
sinh hoạt học tập, tránh rơi vào thói ích kỉ, cá nhân, tham lam.
Học tập gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn quyết tâm vượt
qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích trong cuộc sống, Có
được đức tính như vậy sinh viên có thể vượt qua các khó khăn thử thách


gặp được nhiều thành công trong cuộc sống. Để học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thì sinh viên phải có sự tu
dưỡng, rèn luyện hết mình, luôn luôn cố gắng phấn đấu vì gia đình quê
hương đất nước, luôn yêu que hương đất nước, giàu lòng nhân ái và tích
cực làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh trong cuộc sống.
3. Liên hệ bản than
a. Cảm nhận
Trước hết, phải thừa nhận rằng vấn đề đạo đức đối với chúng ta là đi
khám phá và vận dụng chúng một cách triệt để làm sao khả năng của bản
than được phát huy hiệu quả nhất. Từ đó, chúng ta thấy rằng muốn làm
được như vậy thì đạo đức là cơ sở hang đầu cho vấn đề thiết thực đó.
Từ việc chúng ta bồi dưỡng đạo đức – Đó là cái gốc của con người xã
hội chủ nghĩa. Bởi “cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có
nguồn thì song cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo”. Một
ngày làm việc sẽ thành công hơn nếu có sẵn bảng kế hoạch cho cả tuần,
cả tháng,…Đúng không các bạn?
Kèm theo đó là các đức tính cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm
chất này giống như việc chúng ta vui chơi, học tập. Đối với chúng ta,
những thế hệ thanh niên đang từng ngày từng giờ tiếp thu và học hỏi
nguồn tri thức của cha ông ta để lại và khong ngừng đẩy cao tiềm năng
nhân loại lên một tầm cao mới.
Cuộc sống vốn dĩ không bao giờ là hoàn hảo hết, thời đại hội nhập và
kéo theo cũng chất chứa những chuyển biến khôn lường nên từ đó bản

lĩnh con người càng nên mạnh mẽ và kiên cường hơn nữa để phát triển,
vì thế mà trong xã hội hiện tại con người cần học tập và làm theo tư
tưởng của Bác – vị cha già kính yêu của dân tộc. Tư tưởng của Bác thấm
nhuần chân lý nhân văn, chân lý của cuộc sống được Bác thể hiện, chân
dung con người vĩ đại ấy khiến cả vạn người phải nể phục. Vấn đề tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đem lại cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc,
dù chỉ tìm hiểu sơ lược nhưng thú thật, những ngày tìm hiểu chúng thì


phần nào con người chúng ta sẽ hiểu thêm về Bác, về cuộc sống và
không chỉ dừng lại ở đó, chúng còn góp phần làm thay đổi cuộc sống
của chính bạn.
b. Bài học
Do vậy, để cho tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của
Bác thấm sâu vào nhận thức của sinh viên chúng ta đòi hỏi cần phải tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức.
Đặc biệt là các tổ chức đoàn thể như: nhà trường, đoàn thanh niên, hội
sinh viên,….phải có kế hoạch giới thieju và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu
về cuộc đời và sự nghiệp của Người.
Bên cạnh đó tăng cường công tác giáo dục ý thức, tuyên truyền phổ
biến pháp luật cho sinh viên để giúp họ điều chỉnh hành vi phù hợp với
pháp luật, tránh phạm pháp, làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Đồng thời mỗi người cha, người mẹ, người thầy, cô phải là một tấm
gương sáng để các bạn trẻ noi theo chứ không phải giáo dục bằng lời nói
suông, hô to khẩu hiệu.
Ngoài ra bản than sinh viên cũng phải tự mình rèn luyện, chăm chỉ,
chịu khó, có tinh thần tìm tòi sáng tạo trong học tập, thường xuyên nâng
cao tri thức, làm chủ được bản than để bản than không bị lôi kéo vào các
tệ nạn xã hội, tự giác tu dưỡng và thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.

Dưới ánh sáng của Người, chúng ta tin tưởng và tự hào, không
ngừng vươn tới những phẩm chất cao đẹp nhất của loài người trong xã
hội ngày mai.
III. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng của Người về giải phóng dân tộc, giải phóng gia cấp, giải
phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân,


của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân; về quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát
triển kinh tế, về đạo đức cách mạng, về xây dựng Đảng trong sạch, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân….luôn là di sản vô giá cho chúng ta hôm nay và các
thế hệ mai sau học tập và noi theo.
Học tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hiểu thêm rất nhiều điều về
Bác, về nước nhà và bổ sung nguồn tri thức vô tận. Trong quá trình tìm
hiểu am sâu hơn về tư tưởng đạo đức HCM, nhóm chúng tôi có điều gi
sơ sót cũng như chưa phù hợp, mong cô và các bạn góp ý bổ sung để
cho các bài tiểu luận được hoàn thiện và chính xác hơn, qua đó mọi
người cùng nhau học tập và tiếp thu kiến thức nhiều hơn.
CHÚNG TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN


*Một số câu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1. Câu chuyện nước nóng, nước lạnh
Buổi đầu kháng chiến chống Pháp, có một đồng chí cán bộ trung

đoàn trưởng hay quát mắng, đôi khi còn bợp tai chiến sĩ. Đồng chí
này đa từng làm giao thong, Bảo vệ Bác đi ra nước ngoài trước
Cách mạng tháng Tám..
Được tin nhân dân “dư luận” về đồng chí này, Bác cho gọi lên
Việt Bắc. Bác dặn trạm đón tiếp khu ATK, dù có đến sớm, cũng
giữa trưa mới cho đồng chí ấy gặp Bắc.
Trời mùa hè, nắng chang chang, đi bộ đúng ngọ “đồng chí
Trung đoàn” vã cả mồ hôi, người như bốc lửa. Đến nơi, Bác đã chờ
sẵn. Trên bàn đã đặt hai cốc nước, một cốc nước sôi có ý chừng
vừa như mới rót, bốc hơi nghi ngút, còn cốc kia là nước lạnh. Sau
khi chào hỏi xong, Bác chỉ vào cốc nước nói:
- Chú uống đi.
Đồng chí cán bộ kêu lên:
- Trời! Nắng thế này mà Bác lại cho nước nóng làm sao cháu
uống được..
Bác mỉm cười:
- À ra thế. Thế chú thích uống nước nguội, mát không?
- Dạ có ạ.
Bác nghiêm mặt nói:
- Nước nóng cả chú và tôi đều không uống được. Khi chú
nóng, cả chiến sĩ của chú và cả tôi cũng không tiếp thu được. Hòa
nhã, điềm đạm cũng như cốc nước nguội dễ uống, dễ tiếp thu hơn.
Hiểu ý Bác giáo dục, đồng chí cán bộ nhận lỗi, hứa sẽ sửa chữa…
 Liên hệ bản thân và bài học rút ra: Qua câu chuyện chúng ta
thấy rằng cách ứng xử của Bác hết sức khôn khéo và thâm thúy để
lại cho anh lính trẻ một bài học sâu sắc. Ở đây Bác muốn nói với
anh lính rằng: “Khi giận dữ rất dễ mất kiểm soát bản thân mình,


khi giận lên anh có thể làm nhiều việc mà không suy nghĩ đến hậu

quả của nó, dễ dàng đưa ra một số quyết định không mấy sáng
suốt, hoặc nói ra những điều không nên…chỉ để thỏa mãn cơn
giận”.
2. Câu chuyện về chiếc ba lô
Trong những ngày tháng sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công
tác. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang ba lô hộ Bác,
nhưng Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật
cho một người mang đi thì người đó lại càng chóng mệt. Cứ phân
ra mỗi người mang một ít.
Khi mọi thứ được phân ra cho vào 3 ba lô, Bác còn hỏi thêm:
- Các chú đã chia đều rồi chứ?
Hai đồng chí trả lời:
- Thưa Bác, rồi ạ.
Ba người lên đường qua một chặng, mọi người dừng chân, Bác
đến chỗ đồng chí bên cạnh, xách chiếc ba lô lên.
- Tại sao ba lô của chú nặng mà của Bác lại nhẹ? Sau đó, Bác
mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có
chăn, màn. Bác không đồng ý và nói:
- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con
người.
Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.
3. Chú còn trẻ chú vào hầm trước đi
Một ngày tháng 7 năm 1967 ở Hà Nội, đồng Mai Văn Bộ được
Bác Hồ gọi đến mời cơm tiễn chân trước khi đồng chí lên đường đi
Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta bên cạnh Chính
phủ Pháp.
Trong bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýc-xăm-bua, Môngpac-nát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris



đã dạy cho Người nhiều điều,…..
Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu
Bác và các đồng chí khác xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn
nổ.
- Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên.
Mời Bác vào hầm trú ngay cho.
Bác quay lại đông chí Bộ, nói:
- Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú
cần vào hầm trú ẩn trước.
Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ vào trước, sau đó đến đồng chí Phạm
Văn Đồng, đồng chí cảnh vệ.
Bác là người vào hầm trú ẩn sau cùng.
4. Từ đôi dép đến chiếc ô tô
Đôi dép của Bác “ra đời” vào năm 1947, được “chế tạo” từ một
chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại
Việt Bắc.
Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ
rất vừa chân Bác.
Trên đường công tác, Bác nói vui với các an hem cán bộ đi
cùng:
- Đây là đôi hai vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa…..Đôi
hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.
Chẳng những khi “hành quân” mà cả mùa đông, Bác đi thêm
đôi tất cho ấm chân, tiếp khách trong nước, khách quốc tế vẫn
thường thấy Bác đi đôi dép ấy.
Gặp suối hoặc trời trơn, bùn đất vào dép khó đi, Bác tụt dép
xách trên tay. Đi thăm và con nông dân, sải chân trên các casdnh
đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay
xách hoặc nách kẹp đôi dép…
Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy….Các đồng chí cảnh vệ



cũng đã đôi ba lần “xin” Bác bỏ đôi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn
đi được”.
Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong
buồng riêng thì anh em lập mẹo dấu dép đi, để sẵn một đôi giày
mới….
Máy bay hạ cánh xuống Niu Đê-li. Bác tìm dép, an hem thưa:
- Có lẽ đã cất xuống khoang hang của máy bay rồi….Thưa
Bác…
Bác ôn tồn nói:
- Bác biết các chú cất dép Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa độc
lập hoàn toàn. Nhân dân ta còn khó khan. Bác đi dép cao su nhưng
bên trong có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự….
Thế là các ông “tham mưu con” phải trả lại dép cho Bác đi vì
dưới đất chủ nhà đang nóng long đợi…
Trong suốt thời gian ở Ấn Độ, các chính khách, nhà báo, quay
phim, chụp ảnh lại rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cuối
xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi
chép chép…làm anh em cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và
bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.
Năm 1990, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt
Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên ấy”. Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại
chăn nuôi của đơn vị. Cán bộ và chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng
muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác, Bác vui cười nắm tay
chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
- Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi…
Nghe Bác nói, cả đám dừng lại cúi xuống im lặng nhìn đôi dép
rồi lại ồn ào lên:
- Thưa Bác, cháu, để cháu sửa…

- Thưa Bác, cháu, cháu có “rút dép” đây….
Nhao nhao, ầm ĩ như thế, nhưng đồng cảnh vệ chỉ đứng cười vì


biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh rồi; có “rút” cũng vô ích…
Bác cười nói:
- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã
chứ!
Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một
chân co lên tháo dép ra, “thách thức”:
- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác…
Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra,
lung túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến….
Bác phải giục:
- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác cồn đi chứ. Anh chiến
sĩ, lúc nãy chạy đi đã chạy lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
- Tôi, để tôi sửa dép…
Mọi người giãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong.
Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:
- Tại dép của Bác cũ quá, Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ…
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
- Các cháu nói dung…nhưng chỉ có đúng một phần…Đôi dép
của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắn chắn
cho Bác thế này thì còn “thọ” lắm ! Mua đoi dép khác chẳng đáng
là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên… Ta phải tiết kiệm
vì đất nước ta còn nghèo….
Đôi dép các nhân đã vậy, còn “đôi dép” ô tô của Bác cũng thế!
Chiếc xe “Pa-biết-đa” được sản xuất tại Liên Xô Bác vẫn đi, đã
cũ, Văn phòng xin”đổi” xe khác, “đời mới” hơn, tốt hơn, nhưng
Bác không chịu:

- Xe của Bác hỏng rồi à?
Anh em thưa rằng chưa hỏng, nhưng muốn thay xe để Bác đi
nhanh hơn, êm hơn.
Bác nói:


- Ai thích nhanh, thích êm thì đổi…
Hôm sau đến giờ đi làm, không biết là xe hỏng thật hay “ai”
xui mà Bác đứng bên xe mà cứ “ì” ra. Bác cười bảo đồng chí lái
xe:
- Máy móc có trục trặc, chú cứ bình tĩnh sửa. Sửa xong Bác
cháu ta đi vẫn kịp.
Vài phút sau, xe nổ máy…
Bác lại cười nói với đồng chí lái xe, cảnh vệ:
- Thế là xe vẫn còn tốt!





×