Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của một số dòng đậu tương nhập nội tại huyện lục yên tỉnh yên bái năm 2008 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.32 KB, 89 trang )

TĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

------------o0o------------

PHẠM HẢI THOẠI

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ DÒNG ĐẬU TƯƠNG
NHẬP NỘI TẠI HUYỆN LỤC YÊN TỈNH YÊN BÁI
NĂM 2008 -2009

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH : TRỒNG TRỌT
MÃ SỐ : 60. 62. 01

Người hướng dẫn : PGS.TS. Luân Thị Đẹp
Th.S. Trần Văn Điền

Thái Nguyên, năm 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu và những số liệu trình bày
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng để bảo vệ
một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm ơn.
Các thông tin, tài liệu trích dẫn trình bày trong luận văn này đều đã được ghi
rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 18 tháng 9 năm 2009
Người viết cam đoan



Phạm Hải Thoại


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp trong suốt quá trình thực hiện đề tài,
tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của cô giáo PGS.TS Luân Thị Đẹp,
và thầy giáo Th.s Trần Văn Điền. Các thầy, cô đã chỉ bảo tận tình về phương
pháp nghiên cứu, cũng như trong quá trình hoàn chỉnh luận văn.
Tôi cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo
Khoa sau đại học, chính quyền địa phương, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp này, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
1. Cô giáo PGS. TS. Luân Thị Đẹp Trưởng khoa Nông học Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên. Cô đã trực tiếp hướng dẫn, dành cho tôi sự giúp
đỡ tận tình và sâu sắc trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
2. Thầy giáo Thạc Sỹ Trần Văn Điền thầy đã giúp tôi rất nhiều trong quá
trình thực tập và hoàn chỉnh luận văn.
3. Các thầy cô giáo trong khoa sau Đại học Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên.
4. Các bạn đồng nghiệp, gia đình và chính quyền địa phương xã Mai sơn
huyện Lục Yên đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Thái Nguyên, ngày 18 tháng 9 năm 2009
Tác giả

Phạm Hải Thoại


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Đ/c


Đối chứng

TGST

Thời gian sinh trưởng

NSLT

Năng suất lý thuyết

NSTT

Năng suất thực thu

STT

Số thứ tự

TB

Trung bình

PGS.TS

Phó giáo sư, tiến sỹ

CS

Cộng sự


NN&PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới 5 năm gần đây...............5
Bảng1.2. Tình hình sản xuất đậu tương ở Mỹ 5 năm gần đây...........................7
Bảng1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Brazil 5 năm gần đây.......................8
Bảng 1.4. Tình hình sản xuất đậu tương của Achentina 5 năm gần đây ..........9
Bảng 1.5. Tình hình sản xuất đậu tương của Trung Quốc 5 năm gần đây. ....10
Bảng 1.6. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam 5 năm gần đây..............21
Bảng 1.7. Tình hình sản xuất đậu tương của tỉnh Yên Bái từ năm 2004- 2008....31
Bảng 1.8. Tình hình sản xuất đậu tương của huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái
từ năm 2005- 2008 ...........................................................................................32
Bảng 3.1. Các giai đoạn sinh trưởng của các dòng đậu tương thí nghiệm ..............40
Bảng 3.2: Đặc điểm thực vật học của các dòng đậu tương thí nghiệm ...........44
Bảng 3.3. Một số đặc điểm hình thái của các dòng, giống đậu tương thí
nghiệm năm 2008............................................................................................47
Bảng 3.4. Một số loài sâu hại chính và khả năng chống đổ của các dòng
đậu tương tham gia thí nghiệm ........................................................................51
Bảng 3.5. Hàm lượng Protein, Lipit của các dòng đậu tương thí nghiệm ..............54
Bảng 3.6. Các yếu tố cấu thành năng suất, năng suất lý thuyết của các
dòng đậu tương năm 2008................................................................................56
Bảng 3.7. Năng suất thực thu của các dòng, giống đậu tương thí nghiệm năm
2008...................................................................................................................60
Bảng 3.8. Năng suất thực thu của các dòng đậu tương thử nghiệm tại mô
hình không chủ động nước( đất đồi thấp) ........................................................62
Bảng 3.9. Kết quả đánh giá của người dân đối với 3 dòng đậu tương
trong mô hình trình diễn ở vụ xuân năm 2009................................................63



6

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Mục đích của đề tài ................................................................................... 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .............................................................. 4
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................. 4
1.1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ............................................................... 4
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài................................................................ 4
1.2. Tình hình sản xuất, chọn tạo giống đậu tương trên thế giới và Việt
Nam ............................................................................................................... 5
1.2.2. Tình hình sản xuất và chọn tạo giống đậu tương ở Việt Nam ...... 19
Chương 2: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU33
2.1. Vật liệu, địa điểm, thời gian nghiên cứu.............................................. 33
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu................................................. 33
2.2.1. Nội dung nghiên cứu..................................................................... 33
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................... 34
2.3. Mô hình trình diễn................................................................................ 37
2.4. Đánh giá lựa chọn dòng ....................................................................... 38
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN........................... 39
3.1. Một số đặc điểm sinh trưởng và phát triển của các dòng đậu tương thí
nghiệm......................................................................................................... 39
3.1.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các dòng đậu tương. 39
3.1.2. Đặc điểm thực vật học của các dòng đậu tương thí nghiệm năm
2008......................................................................................................... 43
3.1.3. Đặc điểm hình thái của các dòng đậu tương thí nghiệm vụ xuân và
vụ đông năm 2008................................................................................... 46



7

3.1.4. Khả năng chống chịu của các dòng đậu tương thí nghiệm ở vụ
xuân và vụ đông năm 2008 ..................................................................... 50
3.2. Một số chỉ tiêu sinh hoá của các dòng, giống đậu tương thí nghiệm .. 54
3.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng đậu tương
thí nghiệm.................................................................................................... 55
3.3.1. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lý thuyết của các
dòng đậu tương thí nghiệm ..................................................................... 55
3.3.2. Năng suất thực thu của các dòng đậu tương tham gia thí nghiệm
năm 2008 ................................................................................................. 59
3.4. Mô hình trình diễn đậu tương tại huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái ......... 61
3.4.1. Năng suất thực thu của các dòng đậu tương trình diễn tại xã Mai
sơn, huyện Lục Yên, vụ xuân 2009......................................................... 61
3.4.2. Đánh giá của người dân đối với các dòng đậu tương trình diễn ở
vụ xuân năm 2009 ................................................................................... 63
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ............................................................................. 65


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng ngành nông
nghiệp Việt Nam có nhiều vận hội mới đồng thời cũng có nhiều thách thức
lớn. Ngành nông nghiệp nước ta phải cạnh tranh với những nước có nền nông
nghiệp phát triển trên thế giới, đặc biệt là khi rào cản thuế quan không còn giá
trị, thì sự cạnh tranh diễn ra càng khốc liệt hơn. Tăng năng suất và sản lượng

cây trồng nói chung và cây đậu tương nói riêng là đòi hỏi cấp thiết của nông
nghiệp nước ta, đồng thời chúng ta phải xây dựng cho được chiến lược phát
triển nền nông nghiệp hiện đại có tính bền vững cao .
Cây đậu tương của Việt Nam đứng sau cây lúa , ngô, khoai. Khi nhu cầu
lương thực được thoả mãn thì đậu tương trở thành một trong những cây trồng
mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Cây đậu tương (tên khoa học Glycine max. L) thuộc cây họ đậu, là cây
công nghiệp ngắn ngày. Nó được xem là “cây thần diệu”, còn được ví là
“vàng mọc từ đất”... sở dĩ cây đậu tương được đánh giá cao như vậy là do giá
trị kinh tế của nó. Giá trị kinh tế chủ yếu của cây đậu tương được quyết định
bởi các thành phần dinh dưỡng quan trọng chứa trong hạt đậu tương bao gồm
Protein chiếm khoảng 40%, lipít 18- 25%, gluxit 10-15%. Trong hạt đậu
tương có chứa đầy đủ và cân đối các loại axít amin, đặc biệt là các axit amin
không thể thay thế cần thiết cho cơ thể con người như Triptophan, leuxin,
Izolơxin, valin, lizin, methiomin. Ngoài ra còn có các muối khoáng như: Ca,
Fe, Mg, Na, P, K…, các vitamin B1, B2, D, K, E…. Protein của đậu tương có
phẩm chất rất tốt, có thể thay thế hoàn toàn đạm động vật trong khẩu phần ăn
hàng ngày của con người, vì nó chứa một lượng đáng kể các amino acid
không thay thế cần thiết cho cơ thể . Đậu tương còn được chế biến thành 600
loại thực phẩm khác nhau, bao gồm các loại thức ăn cổ truyền: đậu phụ,
tương chao, sữa đậu nành... tới các loại thực phẩm, chế phẩm hiện đại như:


2

Kẹo, bánh đậu tương, bacon đậu tương, hotdogs đậu tương, đậu hũ cheese,
các loại thịt nhân tạo... (Trần Đình Long, 2000) [20] tất cả các loại sản phẩm
đều thơm ngon và có giá trị dinh dưỡng cao.
Kết quả nghiên cứu của Bùi Tường Hạnh -1997 [11] cho thấy trong hạt
đậu tương có chất IZOFLAVONE có tác dụng làm giảm đáng kể lượng

Cholesterol trong máu khi sử dụng sản phẩm làm từ đậu tương.
Trong công nghiệp dầu đậu tương được sử dụng làm si, sơn, mực in, xà
phòng, chất dẻo, cao su nhân tạo... (Đoàn Thị Thanh Nhàn và CS 1996) [21]
đậu tương còn cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến thực phẩm dược,
ngành công nghiệp ép dầu.
Trong điều kiện nhiệt đới nóng, ẩm như nước ta thì đậu tương dễ đưa
vào hệ thống luân canh, xen canh, gối vụ với cây trồng khác góp phần nâng
cao năng suất cây trồng, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Vấn đề này
rất có ý nghĩa trong việc chuyển đổi cơ cấu và đa dạng hoá cây trồng ở nước
ta hiện nay, đặc biệt là chiến lược thâm canh tăng vụ.
Một tác dụng có ý nghĩa và đóng vai trò quan trọng của cây đậu tương
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đó là khả năng cố định đạm do vi khuẩn
nốt sần Rhizobium Japonicum sống cộng sinh ở rễ cho nên đậu tương là một
trong những cây trồng có khả năng cải tạo đất rất tốt.
Các nốt sần ở bộ rễ cây đậu tương được coi như những “nhà máy phân
đạm tí hon”, bởi những vi khuẩn trong nốt sần hoạt động rất cần mẫn tổng
hợp đạm khí trời, làm giàu đạm cho đất, không gây ô nhiễm môi trường, mặt
khác nó còn làm sạch bầu khí quyển giúp không khí trong lành hơn.
Sau một vụ thu hoạch cây đậu tương đã trả lại cho đất một lượng đạm đáng
kể khoảng 50-80 kg đạm/ha, ngoài lượng đạm rễ cây cung cấp cho đất thì thân lá
của cây đậu tương cũng là nguồn đạm có tác dụng tốt làm tăng thêm độ xốp,
màu mỡ cho đất. Cây đậu tương có vai trò quan trọng trong việc luân canh , cải
tạo đất, tăng độ phì cho đất (Lê Hoàng Độ và cộng sự-1997) [7].


3

Sản phẩm đậu tương không chỉ có giá trị trong xuất khẩu thu đổi ngoại
tệ, mà nó còn là động lực thúc đẩy nghành chăn nuôi trong nước phát triển.
Trước những lợi ích lớn lao do cây đậu tương mang lại, hơn nữa nhu cầu sử

dụng sản phẩm từ đậu tương trong nước ngày càng tăng. Cho nên, Đảng và
Nhà nước ta rất quan tâm tới việc phát triển cây đậu tương theo hướng tăng
cả về diện tích và năng suất. Trong đó tăng năng suất là vấn đề cốt lõi, năng
suất có tăng thì mới giảm được chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, cần
nhanh chóng đi sâu nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
công tác giống, nhằm tạo ra các giống có năng suất cao, phẩm chất tốt, có khả
năng thích ứng rộng.
Hiện nay ở huyện Lục Yên đang gieo trồng rất nhiều giống đậu tương
khác nhau kể cả giống có nguồn gốc từ Trung Quốc song vẫn chưa có được
những giống cho năng suất cao như mong muốn của người sản xuất.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của một số dòng đậu
tương nhập nội tại huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái năm 2008- 2009”.
2. Mục đích của đề tài
Tìm ra được những dòng đậu tương có khả năng sinh trưởng, phát
triển tốt, cho năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với vụ xuân và vụ
đông nhằm bổ sung vào cơ cấu giống của tỉnh Yên Bái nói chung và
huyện Lục Yên nói riêng.


4

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Để đáp ứng nguồn lương thực, thực phẩm cho nhân loại toàn cầu trong
bối cảnh khí hậu, môi trường sống ngày càng nhiều biến đổi phức tạp, chúng
ta cần xây dựng cho được một nền sản xuất tiên tiến. Sản xuất dựa trên cơ sở

áp dụng một cách khoa học giữa các yếu tố giống, phân bón, nước, kỹ thuật
thâm canh, đồng thời bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tránh ô nhiễm môi
trường. Trong đó, giống là yếu tố quan trọng hàng đầu, sử dụng giống tốt có
năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu với điều kiện bất thuận và sâu, bệnh
hại, có khả năng cải tạo và bảo vệ đất, hạn chế ô nhiễm môi trường là mục
tiêu hàng đầu của việc phát triển một nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, có
tính bền vững cao.
Đậu tương được sản xuất với các mục tiêu khác nhau. Cho nên công tác
chọn tạo giống cần tập trung vào một số mục tiêu:
- Giống cho năng suất cao phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng.
- Giống cho chất lượng hạt tốt phục vụ ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu.
- Giống có hàm lượng dầu cao phục vụ chương trình sản xuất dầu thực vật.
Điều kiện khí hậu, đất đai của Việt Nam rất thuận lợi cho cây đậu tương
sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là điều kiện thuận lợi cho sự
phát sinh, phát triển của các loài sâu, bệnh hại. Bởi vậy, khi sản xuất cần phải
áp dụng các biện pháp canh tác thích hợp, nhằm phát huy, khai thác tối đa
tiềm năng năng suất của giống. Đồng thời tiến hành nghiên cứu chọn tạo cho
được những giống thích hợp cho từng vùng sinh thái.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Hiện nay, ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Yên
Bái nói riêng, diện tích đất hoang hoá còn rất nhiều, tập trung chủ yếu ở


5

những vùng không chủ động nước, đất đồi thấp, hoặc ở những vùng này trồng
trọt một số loại cây trồng có giá trị kinh tế thấp.
Do đó, việc đưa cây trồng cạn nói chung và cây đậu tương nói riêng vào
sản xuất ở các vùng này là rất cần thiết, nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất, góp
phần cải tạo đất, chống xói mòn, thoái hoá đất, nâng cao thu nhập cho nông

dân, cải thiện đời sống cộng đồng.
1.2. Tình hình sản xuất, chọn tạo giống đậu tương trên thế giới và
Việt Nam
Cây đậu tương có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế, bởi giá trị kinh
tế, dinh dưỡng và giá trị cải tạo đất. Xuất phát từ giá trị đó mà cây đậu tương
được nhiều nước trên thế giới quan tâm, đầu tư sản xuất, nên diện tích, năng
suất và sản lượng cũng đựơc tăng dần qua các năm. Tình hình sản xuất đậu
tương trên thế giới trong nhữmg năm gần đây được trình bày ở bảng 1.1
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới 5 năm gần đây
Năm

diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

2003

83.651.800

22,804

190.766.963

2004

91.606.264

22,431


205.483.881

2005

92.434.056

23,178

214.244.613

2006

94.926.287

23,429

222.403.793

2007

94.899.216

22,776

216.144.262

Nguồn: FAOSTAT Database,2009
Số liệu của bảng 1.1 cho thấy sản xuất đậu tương trên thế giới hàng năm
được tăng lên cả về diện tích lẫn sản lượng. Năm 2007 diện tích tăng khoảng

11 triệu ha so với năm 2003, tương tự thì sản lượng cũng tăng trên 25,3 triệu
tấn vào năm 2007. Điều này càng khẳng định vị trí vai trò của cây đậu tương
trong sản xuất nông nghiệp. Các nước sản xuất đậu tương lớn gồm có Mỹ,
Brazil, Argentina, Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Ban Nha, Úc…


6

Tuy cây đậu tương có xuất xứ từ vùng Mãn Châu-Trung Quốc, sau đó
được đưa sang trồng ở Triều Tiên, Nhật Bản và được đưa sang trồng ở Mỹ
năm 1954, nhưng do có sự thích nghi cao với điều kiện thời tiết, khí hậu và
đất đai, mà cây đậu tương đã được phát triển rất nhanh và Mỹ đã trở thành
một trong những nước sản xuất đậu tương đứng đầu thế giới, cả về diện tích
lẫn sản lượng.
Năm 2000, Mỹ đã sản xuất được 75 triệu tấn hạt. Phần lớn sản lượng đậu
tương được dùng cho chăn nuôi và xuất khẩu, mặc dù nhu cầu tiêu thụ đậu
tương đang tăng lên, tại Mỹ lượng dầu ăn có tới 80% được chế biến từ hạt đậu
tương. Hiện nay, đậu tương đã được trồng ở nhiều quốc gia và các khu vực
trên thế giới, qua khảo sát cho thấy sản xuất đậu tương ở khu vực Bắc Mỹ đã
vượt xa vùng Viễn Đông nơi khởi nguồn của cây đậu tương.
Cây đậu tương là một trong 5 cây thực phẩm quan trọng ở Hoa Kỳ, công
nghệ sinh học đang tập trung vào cây đậu tương, theo số liệu thống kê của Bộ
Nông nghiệp Hoa Kỳ thì năm 2008 diện tích trồng cây đậu tương chuyển gen
của nước này chiếm 92% tổng diện tích trồng cây đậu tương cả nước.
Hiện nay, Mỹ là nước đứng đầu trên thế giới về sản xuất đậu tương, diện
tích trung bình đạt khoảng 30 triệu ha với sản lượng khoảng 87 triệu tấn, vào
năm 2006, chiếm 32 % diện tích và chiếm khoảng 40% sản lượng đậu tương
trên thế giới. Hiện tại, diện tích trồng đậu tương ở Mỹ đứng thứ 3 sau lúa mỳ,
ngô. Đậu tương được coi là mặt hàng có giá trị chiến lược trong xuất khẩu và
thu đổi ngoại tệ.

Nguyên nhân cơ bản để đậu tương có năng suất cao và phát triển ổn định
qua các năm là do trong sản xuất Mỹ đã áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ
thuật, thâm canh nhằm tăng năng suất. Đồng thời, Mỹ còn tập trung đi sâu
vào công tác giống mà đặc biệt là các giống ứng dụng công nghệ cấy, chuyển
gen. Nhiệm vụ trọng tâm của các nhà nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương tại
Mỹ là:
- Khai thác tối đa những giống cho năng suất hạt cao.


7

- Cải tiến nâng cao tỷ lệ dầu và Protein trong hạt.
- Nâng cao khả năng chống chịu sâu, bệnh.
- Hạn chế sự tách hạt khi quả chín.
- Tạo giống có chiều cao cây thích hợp.
- Tăng khả năng chống đổ của cây.
- Tạo các giống có thời gian sinh trưởng khác nhau.
Tình hình sản xuất đậu tương của Mỹ được trình bày ở bảng 1.2.
Bảng1.2. Tình hình sản xuất đậu tương ở Mỹ 5 năm gần đây
Năm

diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)

2003

29.330.310

22,767


66.777.820

2004

29.930.060

28,403

85.012.800

2005

28.834.570

28,912

83.367.650

2006

30.190.680

29,038

87.669.860

2007

30.562.400


23,135

70.707.492

Nguồn: FAOSTATDatabase,2009
Trong vòng 5 năm gần đây diện tích trồng đậu tương của Mỹ không
ngừng gia tăng, năng suất cao nhất đạt 29 tạ/ha vào năm 2006, sản lượng đạt
trên 87 triệu tấn, đây là năm mà nước Mỹ đạt đỉnh cao cả về diện tích cũng
như năng suất và sản lượng, khẳng định vị trí số một của mình về sản xuất
đậu tương. Tới năm 2007 năng suất đậu tương của Mỹ giảm 6 tạ/ha so với
năm 2006, do đó sản lượng đậu tương giảm còn gần 71 triệu tấn.
Tiếp sau Mỹ phải nói đến Brazil, nước đứng thứ 2 trên thế giới về tổng
diện tích, sản lượng. Diện tích trồng chiếm khoảng 20%, sản lượng chiếm
25% so với sản lượng đậu tương trên thế giới. Tình hình sản xuất đậu tương
của Brazil trong 5 năm gần đây được trình bày ở 1.3.


8

Bảng1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Brazil 5 năm gần đây
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

2003


18.524.769

28,027

51.919.440

2004

21.538.990

23,004

49.549.941

2005

22.948.874

22,302

51.182.074

2006

22.047.349

23,796

52.464.640


2007

20.637.643

28,199

58.197.297

Nguồn: FAOSTATDatabase,2009
Brazil rất quan tâm tới việc sản xuất đậu tương cho nên diện tích, năng
suất và sản lượng không ngừng được tăng lên, năng suất đậu tương chỉ đứng
sau Tây Ban Nha ( 30 tạ/ha) và Achentina.
Năm 2007, diện tích trồng đậu tương của Brazil giảm khoảng 2 triệu ha
so với năm 2005 và 2006. Tuy nhiên năng suất lại tăng khoảng 5 tạ so với 2
năm này và sản lượng đạt trên 58 triệu tấn tăng khoảng 6 triệu tấn so với năm
2005 và 2006.
Brazil đang tiếp tục đẩy mạnh công tác giống, sử dụng giống mới như
giống chống chịu sâu bệnh, giống chuyển gen…, áp dụng các biện pháp khoa
học kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm nâng cao sản lượng đậu tương hàng năm.
Tại Brazil, đậu tương chủ yếu được dùng làm bột và ép dầu. Chính phủ
khuyến khích đẩy mạnh nền công nghiệp chế biến trong nước và xuất khẩu
khô dầu, bột đậu...
Quốc gia đứng thứ ba sau Mỹ và Brazil về sản xuất đậu tương là
Achentina. Tại quốc gia này đậu tương thường được trồng luân canh với lúa
mì. Từ năm 1961- 1962 chính phủ đã có chính sách hỗ trợ cho việc phát triển
cây đậu tương, nên cây đậu tương được phát triển khá mạnh. Cũng nhờ vào
chính sách hỗ trợ mà diện tích trồng và sản lượng được tăng đều hàng năm.



9

Hiện nay diện tích trồng đậu tương đang được chính phủ mở rộng, diện
tích trồng mới sẽ được lấy từ đất canh tác ngũ cốc, đặc biệt là đất ở các vùng
Zona Nucleo, trung tâm Achentina ( WAP, Tune 2005).
Tình hình sản xuất đậu tương của Achentina được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1.4. Tình hình sản xuất đậu tương của Achentina 5 năm gần đây
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

2003

12.421.000

28,017

34.800.000

2004

14.320.000

21,997

31.500.000


2005

14.037.000

27,285

38.300.000

2006

15.097.388

26,804

40.467.100

2007

16.100.000

28,260

45.500.000

Nguồn: FAOSTAT Database,2009
Năm 2007, diện tích trồng đậu tương của Achentina tăng khoảng 4 triệu
ha so với năm 2003, năng suất tương đương năm 2003, nhưng sản lượng tăng
khoảng 11 triệu tấn so với năm 2003.
Các nước nhập khẩu đậu tương lớn gồm có: Cộng đồng kinh tế châu Âu,

Đức, Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ...,. Cho tới sau chiến tranh thế giới thứ hai thì
Mỹ và Trung Quốc vẫn là hai Quốc gia đứng đầu về xuất khẩu đậu tương.
Tuy nhiên, do dân số của Trung Quốc gia tăng mạnh nên từ một Quốc
gia xuất khẩu nhất nhì thế giới mà Trung Quốc lại dần trở thành Quốc gia
nhập khẩu lớn nhất thế giới để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Mỗi
năm Trung Quốc cần 25 - 30 triệu tấn, trong khi đó sản xuất trong nước mới
đạt 15 - 17 triệu tấn (Lê Hưng Quốc, 2006) [26].
Diện tích trồng đậu tương của Trung Quốc đứng thứ 4 thế giới sau Mỹ,
Brazil và Argentina và đứng thứ nhất châu Á. Tình hình sản xuất đậu tương ở
Trung Quốc được trình bày ở bảng 1.5.


10

Bảng 1.5. Tình hình sản xuất đậu tương của Trung Qu c 5 năm gần đây.
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

2003

9.312.715

16,529

15.393.341


2004

9.581.835

18,163

17.404.280

2005

9.593.710

17,042

16.350.213

2006

9.100.085

17,033

15.500.187

2007

8.900.100

17,528


15.600.200

Nguồn: FAOSTAT Database,2009
Trong vòng 5 năm từ 2003- 2007 diện tích sản xuất đậu tương của Trung
Quốc tương đối ổn định, tới năm 2007 diện tích trồng giảm đi so với những
năm trước trên 200.000 ha, song năng suất thì vẫn ổn định ở ngưỡng trên 17
tạ/ha, nên sản lượng vẫn tương đương như những năm trước đó. Năng suất
đậu tương của Trung Quốc thấp hơn so với năng suất bình quân chung của thế
giới khoảng 5 tạ/ha.
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương trên thế giới
Nhận thức được tầm quan trọng của cây đậu tương, cũng như nhu cầu sử
dụng các sản phẩm được chế biến từ đậu tương ngày một gia tăng mà nhiều
Quốc gia trên thế giới đã đầu tư lớn cho việc chọn tạo giống, và thâm canh
tăng năng suất. Diện tích gieo trồng không phải là vô hạn, do vậy đòi hỏi các
nhà khoa học trong lĩnh vực chọn tạo giống đậu tương là bằng các kỹ thuật
như lai tạo, nhập nội, chọn lọc hoặc dùng các tác nhân vật lý, hoá học để tạo
giống mới có năng suất cao, khả năng chống chịu tốt khả năng thích ứng rộng
để thường xuyên bổ sung giống mới cho sản xuất.
Thông qua con đường nhập nội, chọn lọc, lai tạo và gây đột biến mà
quốc gia sản xuất đậu tương hàng đầu thế giới là Mỹ đã tạo ra được nhiều
giống đậu tương mới. Các dòng nhập nội có năng suất cao đều được sử dụng
làm dòng, giống gốc trong các chương trình lai tạo và chọn lọc. Vào năm
1804, Mỹ đã tiến hành thí nghiệm đầu tiên tại bang Pelecibuahina đến năm


11

1893 thì Mỹ đã có trên 10.000 mẫu giống đậu tương thu thập từ các nơi trên
thế giới. Từ năm 1928- 1932 tính trung bình hàng năm nước Mỹ nhập nội trên

1.190 dòng, giống đậu tương từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Hiện
đã có trên 100 dòng đậu tương khác nhau được Mỹ đưa vào sản xuất, và đã
chọn ra được một số giống có khả năng chống chịu với bệnh Phytopthora và
có khả năng thích ứng rộng như: Amsoy 71, Lec 36, Clark 63, Harky 63.
Hướng chính trong công tác nghiên cứu chọn giống là sử dụng các tổ hợp lai
cũng như nhập nội, từ đó thuần hoá để trở thành giống thích nghi với từng
vùng sinh thái, đặc biệt chú trọng công tác nhập nội để bổ sung vào nguồn
quỹ gen. Việc chọn ra các giống có khả năng thâm canh cao, chống chịu tốt
với điều kiện bất thuận, phản ứng yếu với quang chu kỳ, hàm lượng Protein
cao, dễ bảo quản và chế biến là mục tiêu của công tác chọn giống tại Mỹ
(Johnson H.W, Bernard, 1967) [39].
Công tác nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương bằng phương pháp gây đột
biến tại nước Mỹ cũng đạt được nhiều kết quả. Bằng phương pháp này một số
giống đậu tương có năng suất cao, chất lượng tốt lần lượt được ra đời bởi
Williams L.F 1950, Williams 1961. Đặc biệt vào những năm 1988- 1990 thì
Tulman- netto, Nazim qua đột biến đã tạo ra được giống chống chịu bệnh gỉ sắt
và bệnh virut (Cơ cấu mùa vụ đậu tương đồng bằng trung du Bắc Bộ) [4].
Trong nghiên cứu chọn tạo ra giống đậu tương tốt cần xem xét một số
mối tương quan như:
- Nghiên cứu hệ số tương quan và biến dị di truyền của các tính trạng số
lượng ở đậu tương.
- Xác định mức độ biến dị và di truyền của các tính trạng số lượng là cơ
sở đầu tiên để đánh giá giá trị của nguồn gen và xây dựng chương trình chọn
giống thích hợp.
Khi nghiên cứu sự biến dị di truyền do môi trường của hai quần thể các
dòng đậu tương ở nhiều nơi và qua nhiều năm, Johnson và cộng tác viên
(1955) cho thấy, phần lớn biến dị của năng suất hạt ở quần thể II ở hai trong


12


ba môi trường nghiên cứu, thì phương sai di truyền được xác định là cao hơn
so với phương sai môi trường.
Theo Plaznic (1987) [43] các yếu tố di truyền và sinh thái có ảnh hưởng
rõ rệt đến chiều cao cây, độ cao đóng quả thấp, số đốt hữu hiệu, chiều dài đốt,
số quả và số hạt trên cây.
Một trong những hướng cơ bản của việc nghiên cứu sự biến dị và di
truyền ở đậu tương là xác định hệ số di truyền của các tính trạng khác nhau.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã dùng các phương pháp xác định hệ số di
truyền khác nhau, các đối tượng nghiên cứu khác nhau và thực hiện ở các
điều kiện gieo trồng khác nhau nên kết quả thu được không đồng nhất.
Bằng phương pháp hồi qui của giá trị trung bình các dòng F3 trên sự
biểu hiện của từng cá thể F2 đã xác định được hệ số di truyền về năng suất và
ngày chín tương ứng là 15,66% và 85%.
Khi nghiên cứu về hệ số di truyền Liu.X.H (1990) [41] cho rằng năng
suất hạt có hệ số di truyền thấp nhất và kích thước hạt có hệ số di truyền cao
nhất. Còn Dencescu (1983) [33] lại cho rằng cả hai tính trạng về năng suất và
kích thước hạt đều có hệ số di truyền thấp nhất.
Theo Alams và cộng tác viên (1983) [29] đã xác định được hệ số di
truyền có giá trị cao đối với số hạt/quả và thời gian sinh trưởng.
Đánh giá hệ số tương quan di truyền và kiểu hình trên cây đậu tương của
tất cả các dạng kết hợp có thể của bảy tính trạng ở ba quần thể đậu tương thế
hệ F2, cho thấy năng suất hạt có mối tương quan thuận chắc chắn với thời
gian sinh trưởng và khối lượng hạt. Khi nghiên cứu hệ số tương quan kiểu
hình và di truyền của mười một tính trạng số lượng ở ba tổ hợp lai đậu tương
cũng cho thấy, năng suất hạt có mối quan hệ với thời gian sinh trưởng, số
cành/cây, số quả/cây, số hạt/quả và hàm lượng dầu trong hạt, số đốt/cây có hệ
số tương quan di truyền thuận với năng suất hạt. Ở kết quả nghiên cứu khác,
năng suất có tương quan thuận với số quả/cây (0,72); Khối lượng 1000 hạt
(0,255) và thời gian sinh trưởng (0,16) –Banadjanegara và Umar (1998) [30].



13

Hiện nay, công tác nghiên cứu về giống đậu tương trên thế giới đã được
tiến hành với qui mô rộng lớn. Nhiều tập đoàn giống đậu tương đã được tổ
chức quốc tế khảo nghiệm ở rất nhiều vùng sinh thái khác nhau nhằm thực
hiện một số nội dung chính: thử nghiệm tính thích nghi của giống ở từng điều
kiện, môi trường khác nhau nhằm so sánh ưu thế của giống địa phương và
giống nhập nội, đánh giá phản ứng của các giống trong những điều kiện môi
trường khác nhau.
Hiện đã có nhiều thành công trong việc xác định các dòng, giống tốt có
tính ổn định và khả năng thích ứng khác nhau với các điều kiện môi trường
khác nhau. Buitrago và CS – 1971 [31] đã xác định được một số giống có khả
năng thích ứng rộng với tất cả các môi trường nghiên cứu, song có một số
giống lại chỉ thích ứng với môi trường riêng rẽ khi nghiên cứu 14 dòng, giống
qua bốn vụ.
Tại Braxin các kết quả nghiên cứu của Silva và CS (1970) [46] cho thấy
có những giống chỉ cho năng suất cao ở môi trường thuận lợi và ngược lại.
Qua thực nghiệm Santos và Vieira đã xác định được bốn giống đậu tương có
năng suất cao và ít nhạy cảm với sự thay đổi của điều kiện môi trường, và ba
giống có tính ổn định trung bình ở tất cả các điều kiện môi trường nhưng có
năng suất thấp hơn trung bình.
Khi nghiên cứu sáu giống đậu tương, Rohwal (1970) [44] đã tìm được
giống Bragg và giống Lee thích hợp cho vùng có năng suất cao, giống Punjabl
và giống Pelican thích hợp cho vùng có năng suất thấp ở Ấn Độ. Tuy nhiên,
ông không tìm được giống lý tưởng phù hợp với mọi môi trường.
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng đậu tương trong nước mà không lệ thuộc
vào việc nhập khẩu, nhiều quốc gia tại châu Âu đã quan tâm tới việc nghiên
cứu và phát triển sản xuất cây đậu tương trong nước. Ở Liên Xô cũ, từ năm

1945 thì A. Kosenco đã xác định được hiệu quả đột biến cao nhất của các liều
lượng chiếu xạ đối với hạt đậu tương khô là 5 kr, còn với mầm non và cây
đang nở hoa là 2 kr. Enken, 1957 bằng gây đột biến phóng xạ đã tạo ra được


14

các dạng chín sớm, năng suất cao, có hàm lượng Protein cao, chịu rét khá.
Theo nghiên cứu của Masenco (1955- 1956) khi tiến hành xử lý tia gamma và
hoá chất Ethylenimin (EI), Diethylsunphat (DES) sẽ tạo ra các giống chín
sớm hơn giống khởi đầu từ 8- 12 ngày, một số giống khác lại có năng suất
vượt giống khởi đầu từ 23- 24%, (Cơ cấu mùa vụ đậu tương ở đồng bằng
trung du bắc bộ) [4].
Từ năm 1984- 1986 tại Bungari khi xử lý tia gamma ở liều lượng 5- 30
kv cùng với hoá chất EMS (nồng độ 0,1- 0,4%) trên các giống đậu tương tác
giả C.Nikolov đã thu được các dạng đột biến chín sớm hơn từ 10- 20 ngày so
với giống ban đầu, hơn nữa số lượng nốt sần lại nhiều hơn. Tác giả Goranova
lai tạo được các dòng có hàm lượng dầu vượt giống ban đầu từ 6- 13%, (Cơ
cấu mùa vụ đậu tương ở đồng bằng trung du Bắc Bộ) [4].
Như vậy, việc nghiên cứu nhằm đánh giá sự ổn định và khả năng thích
ứng có ý nghĩa to lớn trong công tác chọn tạo giống đậu tương, cho phép chọn
ra những dòng, giống đậu tương có năng suất cao, ổn định, thích hợp với các
vùng sinh thái khác nhau.
Ngoài nghiên cứu, chọn tạo giống đậu tương có năng suất cao, phẩm
chất tốt, thì việc nghiên cứu, chọn tạo được các giống có sức đề kháng đa
hiệu, kháng được nhiều loại sâu , bệnh hại và các điều kiện ngoại cảnh bất
thuận cũng là một vấn đề rất quan trọng được các nhà chọn tạo giống trên thế
giới đặc biệt quan tâm. Nhất là vấn đề tạo giống kháng bệnh..., ở một số
nước có nền khoa học nông nghiệp phát triển như: Mỹ, Úc đã sử dụng công
nghệ tế bào phân tử để xác định các gen kiểm soát về sâu, bệnh hại, tuyến

trùng, phản ứng thuốc, vi khuẩn và nốt sần..., mặt khác còn chuyển ghép gen
tạo vật liệu khởi đầu mới, áp dụng công nghệ tế bào để phân lập được gen
chịu hạn thành công (Hội thảo đậu tương quốc gia - 2003) [17].
Đậu tương, vốn là cây trồng tự thụ nên phương pháp tạo giống và chọn
lọc giống cũng tương tự như những cây tự thụ khác, song nó cũng có nét đặc
thù riêng của nó.


15

Để tạo ra được giống đậu tương có chất lượng hạt cao, người ta thường
dùng hai phương pháp chính là gây giống đột biến và lai tạo. Tạo giống bằng
phương pháp gây đột biến thường cho kết quả mong muốn nhanh, rút ngắn thời
gian lai tạo. Nhưng có nhược điểm là thường tốn kém, các thế hệ sau biến dị
ngày càng lớn, do đó mà chất lượng giống bị giảm dần qua các năm gieo trồng.
Lai hữu tính để tạo giống có chất lượng cao, người ta thường dùng
phương pháp lai lại. Con lai trở lại với bố mẹ đã thích ứng để hoà nhập các
gien mong muốn từ gen nhập, mức độ trở lại phụ thuộc vào độ khác biệt giữa
hai bố mẹ, phương pháp này cho ra giống ổn định, lâu bền nhưng đòi hỏi mất
nhiều thời gian lai tạo.
Trong những năm gần đây bằng gây đột biến mà Trung Quốc đã tạo
được một số giống như: giống Tiefeng 18 ( xử lý bằng tia gamma) có khả
năng chịu được phèn cao, chống đổ tốt, cho năng suất cao, chất lượng tốt,
giống Heinou No 16 ( cũng được xử lý bằng tia gamma) có hệ rễ tốt, nhiều
cành, gióng thân ngắn, khả năng thích ứng rộng ( Trần Đình Đông, 1994) [9].
Trung Quốc là nước đứng thứ tư thế giới về sản xuất đậu tương. Năm
2004 diện tích đậu tương của Trung Quốc là 9.581.835 ha với sản lượng
17.404.280 tấn. Sở dĩ có được kết quả trên là bởi Trung Quốc đã đầu tư cho
công tác ứng dụng các tiến bộ khoa học trong lai tạo và nhập nội giống. Bên
cạnh đó còn tổ chức hàng loạt các chương trình cải tiến giống từ dạng cũ sang

dạng mới có khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh và cỏ dại, phù hợp với các
tiểu vùng khí hậu, các giống điển hình như: CN001, CN002, HTF 18, YAT 12
đều cho năng suất bình quân đạt 34- 42 tạ/ha ở diện tích sản xuất đại trà tại
nhiều tỉnh (FAO, 2003).
Tại viện hàn lâm khoa học Tilin– Trung Quốc, Liu X.H (1990) [41] khi
phân tích khả năng kết hợp và di truyền của hàm lượng Protein, dầu và thành
phần của chúng ở F2. Ông thấy có 3 giống từ Trung Quốc và 5 giống từ Mỹ
đã được nghiên cứu sử dụng cho 11 đặc tính gồm: năng suất hạt và Protein
tổng số/đơn vị diện tích và sản lượng dầu tổng số..., với các giống Trung


16

Quốc và trong 5 đặc tính cho các giống của Mỹ như: Protein, axit oleic và axit
Linolenic... bởi giá trị khả năng kết hợp chung và giá trị di truyền cho Protein,
dầu, axit oleic và axit Linolenic, Protein tổng số và sản lượng dầu tổng số/đơn
vị diện tích là cao, chọn những điểm đó sẽ đạt được ở thế hệ F2.
Viện khoa học Nông nghiệp Đài Loan đã bắt đầu chương trình chọn tạo
giống từ năm 1961 và đưa vào sản xuất các giống Kaohsing 3, Tainung 3, Tai
nung 4... các giống được xử lý Nơron và tia X cho các giống đột biến
Tainung. Tainung 1 và Tainung 2 có năng suất cao hơn giống khởi đầu và vỏ
quả không bị nứt. Các giống này (đặc biệt là Tainung 4) đã được dùng làm
nguồn gen kháng bệnh trong các chương trình lai tạo giống ở các cơ sở khác
nhau như Trạm thí nghiệm Marjo (Thái Lan), Trường đại học Philippin (Vũ
Tuyên Hoàng và cộng sự, 1995) [15].
Hiện nay, vùng Đông Nam Á cũng là một vùng trọng điểm của công
tác phát triển giống đậu tương và được ưu tiên hàng đầu trong hệ thống
nông nghiệp.
Tại Indonesia, các nhà nghiên cứu chọn tạo nhằm mục đích cải tiến
giống có năng suất cao trồng được ở vùng đất thấp sau vụ thu hoạch lúa, với

thời gian sinh trưởng ngắn khoảng 70- 80 ngày, chống chịu bệnh gỉ sắt và có
hạt dạng thon dài. 13 giống có năng suất cao đã được tạo ra và được khuyến
cáo gieo trồng trong đó có giống Wilis được trồng phổ biến nhất, giống này
có thời gian sinh trưởng 85 ngày, năng suất bình quân đạt 25 tạ/ha. Việc cải
tiến giống đã góp phần đưa năng suất đạt 25 tạ/ha, giống có thời gian sinh
trưởng ngắn, thích ứng với môi trường không thuận lợi (đất không cày bừa;
đất khó tiêu nước), chất lượng hạt được tăng lên, tăng khả năng chống
đổ...(Sumarno and T.Adisan wanto, 1991[48]. Qua chọn lọc mà họ đã chọn ra
được một số giống trồng được trên đất ướt sau vụ thu hoạch lúa với việc làm
đất hoặc không làm đất trong mùa khô mà vẫn cho năng suất 14,7- 16,8 tạ/ha
như các giống Kerinci, Lompobatang, Rinjani, (Buitrago G,L.A; Orzcos,
S.H.and Camacho M.L.H, 1971) [31].


17

Các nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu cây trồng Thái Lan đang
nghiên cứu việc sử dụng DNA marker để xác định gen kháng bệnh gỉ sắt đậu
tương. Hiện tại phần lớn các nghiên cứu về việc kiểm soát bệnh gỉ sắt đậu
tương đều tập trung vào việc xây dựng tính kháng cho cây chủ. Các nghiên
cứu sơ bộ cho thấy có 3 DNA marker có liên quan đến tính chống chịu gỉ sắt
ở đậu tương.
Johnson và cộng tác viên, 1955 b [37] khi nghiên cứu hiệu quả chọn lọc
theo chỉ số gồm một hoặc nhiều tính trạng cho thấy chọn lọc theo các tính
trạng gián tiếp như thời gian đậu quả, tính chín muộn, hạt to, tính chống đổ,
hàm lượng Protein thấp có thể cải lương về năng suất hạt, song mức độ hiệu
quả có khác nhau giữa các tính trạng. Trong đó các tính trạng như thời gian
sinh trưởng ở quần thể I và khối lượng nghìn hạt ở quần thể II có thể thực sự
là các tính trạng khác nhau, các kết quả cho thấy chọn lọc chỉ dựa trên chỉ số
gồm thời gian đậu quả và khối lượng hạt cho hiệu quả tương đương như là

chọn lọc trực tiếp. Còn khi đưa thêm tính trạng chống đổ, hàm lượng dầu và
đạm vào chỉ số trên thì hiệu quả chọn lọc tăng lên tương đối rõ rệt. Hiệu quả
chọn lọc tương đối theo chỉ số gồm năng suất, thời gian đậu quả, khối lượng
nghìn hạt, tính chống đổ, hàm lượng dầu và hàm lượng đạm đạt 140,8% ở
quần thể I và 126,1% ở quần thể II.
Sự tương tác giữa giống và môi trường có vai trò quan trọng trong quá
trình cải lương giống cây trồng nông nghiệp nói chung và cây đậu tương nói
riêng. Đối với cây đậu tương đã có một số kết quả nghiên cứu về sự tương tác
giữa các giống với môi trường khác nhau.
Jonson và cộng tác viên(1995 a)[38]; Byth và Weber (1968) [32] cho
thấy có sự tương tác cao giữa các giống với môi trường cho năng suất hạt và
sự tương tác rất thấp cho chiều cao cây, còn tương tác trung bình cho kích
thước hạt, sự đổ sớm, hàm lượng đạm và hàm lượng dầu.
Sự tương tác giữa giống và môi trường còn được một số tác giả phân tích
thành các thành phần tương tác tuyến tính và phi tuyến tính. Rohwal (1970)


18

[44]; Gopani và cộng tác viên, (1972) [34] đã xác định sự tương tác phi tuyến
tính có ý nghĩa với hầu hết các tính trạng nghiên cứu và điều đó có thể là
nguyên nhân của sự thích ứng có giới hạn của cây đậu tương.
Qua nghiên cứu Sanbuchi và Gotok, (1969)[45] đã xác định được hệ số
hồi qui cho 5 giống đậu tương ở Hohkaido – Nhật Bản từ số liệu lấy ở 7 nơi
trong sáu năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy với giống có tính thích ứng rộng
về không gian thì lại nhạy cảm về mặt thời gian; còn một số giống có thích
ứng rộng cho thời vụ gieo trồng trong năm thì lại thích ứng hẹp cho nơi trồng.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính ổn định của các thành phần khác
nhau, một số kết quả cho thấy rằng sự thích ứng hạn chế của cây đậu tương
về năng suất chủ yếu là do yêu cầu về quang chu kỳ và cũng có thể là do cảm

ôn- Leng (1968) [40]. Còn Smith và cộng tác viên (1967) [47] đã xác định
được tính ổn định của cành cấp một, chiều cao cây, thời gian sinh trưởng, số
quả/cây và sự nhạy cảm của giai đoạn từ ra hoa đến chín là nhân tố chính của
tính ổn định về năng suất hạt của đậu tương.
Khi tiến hành nghiên cứu khả năng cho năng suất của đậu tương với
những cặp bố mẹ khác nhau về hàm lượng Protein tại Mỹ, Hartwig E.E và
KilenT.C (1992) [36] cho rằng năng suất đậu tương thường không kết hợp gì
với Protein thô. Mục đích việc nghiên cứu nhằm xác định sự kết hợp sẽ xảy ra
rất ít bằng sự tạp giao của những dòng có hàm lượng Protein cao và bình
thường còn năng suất hạt như nhau. Thế hệ F2 của 1.000 cây đã trưởng thành,
cây được thu hoạch riêng và xác định hàm lượng dầu sử dụng kỹ thuật cộng
hưởng sức hút hạt nhân. Hai phần quần thể được phát triển: một phần gồm
8% hàm lượng dầu cao nhất và phần kia 8% hàm lượng dầu thấp nhất. Với sự
tương quan nghịch giữa Protein thô và dầu, thì quần thể có hàm lượng dầu
thấp chắc chắn sẽ cung cấp những dòng tập trung Protein cao. Lấy 200 cây từ
hai quần thể trên, tiếp tục như vậy làm với F6, F7 thu được mười tám dòng có
hàm lượng đạm cao nhất và tiếp tục dùng mười tám dòng này để đánh giá
trong năm môi trường cho năng suất hạt, dầu và Protein, thì thấy năng suất hạt


×