Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ, phương thức chăn nuôi đến khả năng sinh trưởng và cho thịt của gà sasso thương phẩm nuôi tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 100 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG THỊ HỒNG NHUNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MÙA VỤ, PHƯƠNG THỨC
CHĂN NUÔI ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ CHO THỊT
CỦA GÀ SASSO THƯƠNG PHẨM NUÔI TẠI THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

THÁI NGUYÊN - 2008


2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG THỊ HỒNG NHUNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MÙA VỤ, PHƯƠNG
THỨC CHĂN NUÔI ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ
CHO THỊT CỦA GÀ SASSO THƯƠNG PHẨM NUÔI TẠI THÁI
NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.40



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THUÝ MỴ
PGS. TS. TRẦN THANH VÂN

THÁI NGUYÊN - 2008


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ
cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày
trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả
Hoàng Thị Hồng Nhung


4

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các cấp lãnh đạo và cá nhân. Tôi xin
bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc và kính trọng tới các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS. Trần
Thanh Vân & cô giáo TS. Nguyễn Thị Thuý Mỵ. Các thầy cô đã trực tiếp hướng
dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới: Ban giám hiệu, Khoa chăn nuôi thú y,
Khoa Sau Đại học, cùng tập thể các thầy cô giáo Trường Đại học Nông Lâm

Thái Nguyên, Trường THCS Hạ Hoà - Phú Thọ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới mọi người thân trong gia đình và toàn thể
bạn bè, đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi cả về vật chất và tinh thần để tôi
yên tâm hoàn thành công việc.
Tôi xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo, các vị hội đồng chấm luận văn
lời cảm ơn sâu sắc và lời chúc tốt đẹp nhất.
.
Thái Nguyên, ngày tháng
Tác giả

năm 2008

Hoàng Thị Hồng Nhung


5

MỤC LỤC
Phần mở đầu
1.
2.
3.

Tính cấp thiết của đề tài
Mục đích của đề tài
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

1.1.6.1.
1.1.6.2.

1.1.6.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.3.

Chương 1:
Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu sự di truyền các tính trạng
sản xuất của gia cầm.
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh trưởng
Khái niệm sinh trưởng
Phương pháp đánh giá sinh trưởng
Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng
Khả năng chuyển hoá thức ăn và các yếu tố ảnh hưởng
Khả năng cho thịt, chất lượng thịt và các yếu tố ảnh hưởng
Năng suất thịt
Chất lượng thịt
Sức sống và khả năng kháng bệnh
Cơ sở khoa học của ưu thế lai và sử dụng ưu thế lai trong chăn
nuôi gà thịt
Bản chất của ưu thế lai
Các yếu tố ảnh hưởng đến ưu thế lai
Sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi gà thịt
Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Tình hình nghiên cứu trong nước
Nguồn gốc, đặc điểm, tính năng sản xuất của giống gà Sasso


2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.

Chương 2:
Đối tượng, địa điểm, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Địa điểm, thời gian thí nghiệm
Nội dung, phương pháp và các chỉ tiêu theo dõi
Nội dung nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Các chỉ tiêu theo dõi

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.21.
1.1.2.2.
1.1.2.3.
1.1.3.
1.1.4.
1.1.4.1.
1.1.4.2.
1.1.5.
1.1.6.


1
2
2

3
3
5
5
7
9
19
21
21
24
26
29
29
30
32
32
32
35
36

38
38
38
38
38

38
41


6

2.2.4.
2.2.4.1.
2.2.4.2.
2.2.4.3.

Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu
Tỷ lệ nuôi sống
Khả năng sinh trưởng
Khả năng chuyển hoá thức ăn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng
khối lượng
2.2.4.4. Đánh giá năng suất và chất lượng thịt
2.2.4.5. Phưong pháp xử lý số liệu

3.1.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.4.1.
3.2.4.2.
3.2.5.
3.2.5.1.
3.2.5.2.

3.2.6.
3.2.7.
3.2.8.

Chương 3:
Kết quả và phân tích kết quả
Tỷ lệ nuôi sống của gà qua các tuần tuổi
Khả năng sinh trưởng
Sinh trưởng tích luỹ
Sinh trưởng tuyệt đối của gà thí nghiệm
Sinh trưởng tương đối của gà thí nghiệm
Khả năng sử dụng và chuyển hoá thức ăn
Tiêu thụ thức ăn của gà qua các giai đoạn
Khả năng chuyển hoá thức ăn
Năng suất và chất lượng thịt
Năng suất thịt
Thành phần hoá học của thịt
Chỉ số sản xuất PI (Performance – Index)
Chỉ số kinh tế EN (Economic – Number)
Chi phí trực tiếp cho 1 kg gà thịt

41
41
41
42
43
45

46
48

48
53
58
62
62
64
73
73
74
76
79
82

Kết luận, tồn tại và đề nghị
1.
Kết luận
2.
Tồn tại
3.
Đề nghị
Tài liệu tham khảo
I.
Tài liệu tiếng việt
II.
Tài liệu tiếng nước ngoài

83
84
84
85

85
90


7

DANH MỤC BẢNG
Bảng
1.1
2.1
2.2
3.1
3.2a
3.2b
3.3a
3.3b
3.4a
3.4b
3.5a
3.5b
3.6a
3.6b
3.7a
3.7b
3.8a
3.8b

Tiêu Đề
Hệ số di truyền các tính trạng về khả năng cho thịt ở gà
Sơ đồ bố trí thí nghiệm

Chế độ dinh dưỡng của gà thí nghiệm
Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm
Ảnh hưởng của mùa vụ đến sinh trưởng tích luỹ của gà thí nghiệm
(chung trống mái)
Ảnh hưởng của phương thức nuôi đến sinh trưởng tích luỹ của gà thí
nghiệm (chung trống mái)
Sinh trưởng tuyệt đối của gà thí nghiệm theo mùa vụ (chung trống
mái)
Sinh trưởng tuyệt đối của gà thí nghiệm theo phương thức nuôi
(chung trống mái)
Sinh trưởng tương đối của gà thí nghiệm theo mùa vụ (chung trống
mái)
Sinh trưởng tương đối của gà thí nghiệm theo phương thức nuôi
(chung trống mái)
Khả năng thu nhận thức ăn của gà thí nghiệm theo mùa vụ (chung
trống mái)
Khả năng thu nhận thức ăn của gà thí nghiệm theo phương thức nuôi
Tiêu tốn thức ăn cộng dồn cho tăng khối lượng của gà thí nghiệm
theo mùa vụ
Tiêu tốn thức ăn cộng dồn cho tăng khối lượng của gà thí nghiệm
theo phương thức nuôi.

Trang
24
38
40
47
50
51
54

55
59
60
62
63
65
66

Tiêu tốn protein cộng dồn cho tăng khối lượng của gà thí nghiệm
theo mùa vụ
Tiêu tốn protein cộng dồn cho tăng khối lượng của gà thí nghiệm
theo phương thức nuôi

69

Tiêu tốn ME cho tăng khối lượng của gà thí nghiệm theo mùa vụ
Tiêu tốn ME cho tăng khối lượng của gà thí nghiệm theo phương
thức nuôi

72
72

70


8

3.9
3.10
3.11a

3.11b

Kết quả mổ khảo sát gà thí nghiệm lúc 63 ngày tuổi
Thành phần hoá học của thịt gà thí nghiệm lúc 63 ngày tuổi
Chỉ số sản xuất của gà thí nghiệm theo mùa vụ
Chỉ số sản xuất của gà thí nghiệm theo phương thức nuôi

74
75
76
77

3.12a
3.12b

Chỉ số kinh tế của gà thí nghiệm theo mùa vụ
Chỉ số kinh tế của gà thí nghiệm theo phương thức nuôi

80
80

3.13a
3.13b

So sánh chi phí trực tiếp cho sản xuất gà thịt theo mùa vụ
So sánh chi phí trực tiếp cho sản xuất gà thịt theo phương thức nuôi

82
82



9

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, chăn nuôi gà thịt ngày càng được đẩy mạnh và
phát triển rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, tỉnh, huyện, đến các hộ
nông dân. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về sản phẩm
thịt gà như: Thịt chắc, thơm ngon, không có thuốc kháng sinh… mặt khác các
giống gà thịt đó phải phát huy tốt tiềm năng về chăn nuôi trong điều kiện chăn
thả và bán chăn thả với quy mô vừa và nhỏ ở nông hộ Việt Nam, thì chúng ta
phải đặc biệt chú trọng tới công tác giống.
Năm 1996, Việt Nam đã nhập một số giống gà lông màu thả vườn có năng
suất khá cao, chất lượng thịt tốt, hợp thị hiếu người tiêu dùng và thích hợp với
điều kiện chăn nuôi bán công nghiệp như gà Kabir của Israel, gà Tam Hoàng,
Lương Phượng của Trung Quốc… Trong đó có giống gà lông màu Sasso do
hãng Sasso (Selection Avicoe de La Sathe et du Sud Ouest) của Pháp tạo ra. Qua
gần 30 năm nghiên cứu chọn lọc, nhân giống và lai tạo, hiện nay gà Sasso được
trên 30 nước khắp năm châu ưa chuộng. Nước ta đã nhập giống gà Sasso có
những đặc tính quý như có khả năng thích nghi cao với điều kiện nóng ẩm, sức
đề kháng tốt, chất lượng thịt thơm ngon, thích hợp với các phương thức nuôi
nhốt bán công nghiệp và thả vườn.
Chúng ta biết rằng trong những điều kiện môi trường nhất định thì các
kiểu gen khác nhau sẽ cho những khả năng sản xuất khác nhau. Trái lại cùng một
kiểu gen nhưng trong những điều kiện môi trường khác nhau sẽ cho năng lực sản
xuất khác nhau.
Các tính trạng của một giống được hình thành gắn liền với sự tác động
của môi trường sinh thái địa phương. Ngoài các yếu tố di truyền, tác động của
con người, thì các yếu tố ngoại cảnh như: Nhiệt độ, ánh sáng, ẩm độ, mùa vụ,
mật độ nuôi nhốt, độ thông thoáng, chế độ chiếu sáng…có ảnh hưởng rất lớn đến

đặc tính sinh trưởng, phát dục, sinh sản, các chỉ tiêu sản xuất của giống đó.
Nhằm góp phần đánh giá ảnh hưởng của mùa vụ và phương thức chăn
nuôi đến khả năng sinh trưởng và cho thịt của gà Sasso thương phẩm, từ đó tìm
ra môi trường ngoại cảnh thích hợp, kết hợp với nuôi dưỡng, chăm sóc, chúng ta
sẽ không những duy trì được các đặc tính quý của phẩm giống, mà còn đem lại
lợi ích kinh tế cao hơn cho người chăn nuôi.
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
"Nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ, phương thức chăn nuôi đến khả
năng sinh trưởng và cho thịt của gà Sasso thương phẩm nuôi tại Thái
Nguyên"


10

2. Mục đích của đề tài
- Xác định được ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ nuôi sống, khả năng sinh
trưởng và cho thịt của gà Sasso thương phẩm nuôi tại Thái Nguyên.
- Xác định được ảnh hưởng của phương thức nuôi đến tỷ lệ nuôi sống, khả
năng sinh trưởng và cho thịt của gà Sasso thương phẩm nuôi tại Thái Nguyên.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Góp phần vào việc hoàn thiện nghiên cứu thích nghi và xây dựng quy
trình kĩ thuật chăn nuôi giống gà Sasso ở Việt Nam.
- Góp phần vào việc triển khai chăn nuôi gà lông màu cho các cơ sở và
nông hộ tại khu vực.
- Kết quả nghiên cứu là tài liệu để người chăn nuôi, cán bộ nghiên cứu,
sinh viên ngành nông nghiệp tham khảo, áp dụng cho công việc chuyên môn và
các nghiên cứu tiếp theo.


11


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu
1.1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu sự di truyền các tính trạng sản xuất
của gia cầm
Khi nghiên cứu các tính trạng sản xuất của gia cầm, các nhà khoa học
không những nghiên cứu về đặc điểm di truyền mà còn nghiên cứu đến các yếu
tố ngoại cảnh tác động lên tính trạng đó.
Bản chất di truyền các tính trạng sản xuất:
Theo quan điểm di truyền học thì hầu hết các tính trạng về năng suất của
gia cầm như: Sinh trưởng, sinh sản, cho lông, cho trứng, cho thịt... phần lớn đều
là các tính trạng số lượng (Quantitative Character) và do các gen nằm trên cùng
nhiễm sắc thể (NST) quy định. Phần lớn sự thay đổi trong quá trình tiến hoá của
sinh vật cũng là sự thay đổi của các tính trạng số lượng.
Tính trạng số lượng là những tính trạng mà ở đó sự sai khác nhau về mức
độ giữa các cá thể rõ nét hơn là sự sai khác về chủng loại. Sự sai khác nhau này
chính là nguồn vật liệu cho chọn lọc tự nhiên cũng như chọn lọc nhân tạo. Các
tính trạng số lượng được quy định bởi nhiều gen, các gen điều khiển tính trạng
số lượng phải có môi trường phù hợp mới được biểu hiện hoàn toàn.
Theo Nguyễn Văn Thiện, 1995 [40] thì giá trị đo lường của tính trạng số
lượng trên một cá thể được gọi là giá trị kiểu hình (Phenotypic value) của cá thể
đó. Các giá trị có liên quan tới kiểu gen là giá trị kiểu gen (Genotypic value) và
giá trị có liên hệ với môi trường là sai lệch môi trường (Environmental
deviation). Như vậy kiểu gen quy định một giá trị nào đó của kiểu hình và môi
trường gây ra một sự sai lệch với giá trị kiểu gen theo hướng này hoặc hướng
khác. Quan hệ đó được biểu thị như sau:
P=G+E
Trong đó:
P: Là giá trị kiểu hình

G: Là giá trị kiểu gen
E: Là sai lệch môi trường


12

Tuy nhiên khác với tính trạng chất lượng, giá trị kiểu gen của tính trạng số
lượng do nhiều gen nhỏ (Minorgene) cấu tạo thành. Đó là hiệu ứng riêng biệt
của từng gen thì rất nhỏ, nhưng tập hợp nhiều gen nhỏ sẽ có ảnh hưởng rõ rệt
đến tính trạng nghiên cứu. Hiện tượng này gọi là hiện tượng đa gen (Polygene)
gồm các thành phần: Cộng gộp, trội và tương tác gen, nên được biểu thị theo
công thức sau:
G=A+D+I
Trong đó:
G: Là giá trị kiểu gen
A: Là giá trị cộng gộp (Additive value)
D: Là giá trị sai lệch trội (Dominance deviation)
I : Là giá trị sai lệch tương tác (Interaction deviation)
Trong đó giá trị cộng gộp (A) là do giá trị giống quy định, là thành phần
quan trọng nhất của kiểu gen vì nó ổn định, có thể xác định được và di truyền lại
cho thế hệ sau, có ý nghĩa trong chọn dòng thuần, là cơ sở cho việc chọn giống.
Hai thành phần sai lệch trội (D) và tương tác gen (I) cùng có vai trò quan
trọng, là giá trị giống đặc biệt chỉ có thể xác định được thông qua con đường
thực nghiệm. D và I không di truyền được và phụ thuộc vào vị trí và sự tương tác
giữa các gen. Chúng là cơ sở của việc lai giống.
Đồng thời tính trạng số lượng cũng chịu ảnh hưởng của môi trường chung
và môi trường riêng:
- Sai lệch môi trường chung (General environmental) (Eg) là sai lệch do
các yếu tố tác động lên toàn bộ các cá thể trong nhóm vật nuôi. Loại này có tính
chất thường xuyên và không cục bộ như: Thức ăn, khí hậu... Do vậy đó là sai

lệch giữa các nhóm, giữa các cá thể và giữa các phần khác nhau trên một cơ thể.
- Sai lệch môi trường riêng (Environmental deviation) (Es) là các sai lệch
do các yếu tố môi trường tác động riêng rẽ lên từng nhóm cá thể vật nuôi hoặc
một giai đoạn nào đó trong đời một con vật hay các phần khác nhau của con vật.
Loại yếu tố này có tính chất không thường xuyên và cục bộ như các thay đổi về
thức ăn, khí hậu, trạng thái sinh lý... gây ra.
Như vậy, quan hệ của kiểu hình (P), kiểu gen (G) và môi trường (E) của
một cá thể biểu thị như sau:
P = A + D + I + Eg + Es


13

Trong đó:
P: Là giá trị kiểu hình (phenotyp Value)
A: Là giá trị cộng gộp (Additive Value)
D: Là giá trị sai lệch trội (Dominance Value)
I: Là sai lệch tương tác hay sai lệch át gen (Epistatic deviation)
Eg: Là sai lệch môi trường chung (General enviromental diviation)
Es: Là sai lệch môi trường riêng (Special enviromental diviation)
Như vậy, năng suất giống vật nuôi phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và
ngoại cảnh. Vật nuôi nhận được khả năng di truyền từ bố mẹ, nhưng sự thể hiện
khả năng đó ở kiểu hình lại phụ thuộc vào ngoại cảnh môi trường sống (như chế
độ chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý…). Đây là cơ sở để tạo lập một điều kiện
ngoại cảnh thích hợp nhằm củng cố phát huy tối đa khả năng di truyền của các
giống vật nuôi, đặc biệt là gia cầm.
Do đó để đạt được năng suất, chất lượng cao trong chăn nuôi (giá trị kiểu
hình như mong muốn) chúng ta cần phải có giống tốt và tạo ra môi trường thích
hợp để phát huy hết tiềm năng của giống.
Trong đề tài này, chúng tôi sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường (E)

đến giá trị kiểu hình, từ đó tìm ra mức độ ảnh hưởng cũng như tạo ra môi trường
thích hợp để tiềm năng của giống (G) được thể hiện ra giá trị kiểu hình (P) có lợi
cho người chăn nuôi.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh trưởng
1.1.2.1. Khái niệm sinh trưởng:
Về mặt sinh học, sự sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp protein,
nên người ta thường lấy việc tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng.
Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp và tuân theo những quy luật nhất
định. Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [31] cho biết: Midedorpho A.
F (1867) là người đầu tiên phát hiện ra quy luật sinh trưởng theo giai đoạn của
gia súc, cho rằng gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó tăng
khối lượng giảm dần theo từng tháng tuổi.


14

* Khái niệm sinh trưởng
Sinh trưởng là một quá trình sinh lý, sinh hoá phức tạp, duy trì từ khi phôi
được hình thành cho đến khi con vật đã trưởng thành. Để có được số đo chính xác về
sinh trưởng ở từng thời kỳ không phải dễ dàng (Chambers J. R, 1990 [66])
Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [31] đã khái quát: “Sinh
trưởng là một quá trình tích luỹ các chất hữu cơ thông qua trao đổi chất, là sự
tăng lên về chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng của từng cơ quan, bộ phận
cũng như toàn bộ cơ thể trên cơ sở tính di truyền có từ đời trước”.
Ganer (1992) cho rằng sinh trưởng trước hết là kết quả của phân chia tế
bào, tăng thể tích tế bào để tạo nên sự sống (Trần Đình Miên, Nguyễn Kim
Đường 1992, [31])
Sinh trưởng là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ do đồng hoá và dị hoá, là
sự tăng lên về chiều cao, chiều dài, bề ngang khối lượng của các bộ phận và toàn
bộ cơ thể con vật trên cơ sở tính di truyền. Sinh trưởng chính là sự tích luỹ dần

dần các chất, chủ yếu là protein nên tốc độ và khối lượng tích luỹ các chất phụ
thuộc vào tốc độ hoạt động của các gen điều khiển sự sinh trưởng (Trần Đình
Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [31]). Nhưng tăng trưởng không đồng nghĩa
với tăng khối lượng (ví như béo mỡ chủ yếu là sự tích lũy mỡ, không có sự phát
triển của mô cơ). Sinh trưởng thực sự là sự tăng lên về khối lượng, số lượng các
chiều của các tế bào mô cơ.
Sự sinh trưởng của con vật được tính từ khi trứng thụ tinh cho đến khi đã
trưởng thành và được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn trong thai và giai đoạn
ngoài thai. Đối với gia cầm là thời kỳ hậu phôi và thời kỳ trưởng thành.
Theo Johanson L, 1972 [22] thì cường độ phát triển qua giai đoạn bào thai
và giai đoạn sau khi sinh có ảnh hưởng đến chỉ tiêu phát triển của con vật. Nhìn
từ khía cạnh giải phẫu sinh lý, thì sự sinh trưởng của các mô diễn ra theo trình tự
như sau:
+ Hệ thống tiêu hoá, nội tiết
+ Hệ thống xương
+ Hệ thống cơ bắp
+ Mỡ
Trong thực tế nuôi gia súc, gia cầm lấy thịt cho thấy trong giai đoạn đầu
của sự sinh trưởng thức ăn, dinh dưỡng được dùng tối đa cho sự phát triển của


15

xương, mô cơ, một phần rất ít dùng lưu giữ trong cấu tạo của mỡ. Đến giai đoạn
cuối của sự sinh trưởng nguồn dinh dưỡng vẫn được sử dụng nhiều để nuôi hệ
thống cơ xương nhưng hai hệ thống này tốc độ phát triển đã giảm, càng ngày con
vật càng tích luỹ chất dinh dưỡng để cấu tạo mỡ.
Trong các tổ chức cấu tạo của cơ thể gia cầm thì khối lượng cơ chiếm
nhiều nhất: 42 - 45% khối lượng cơ thể. Khối lượng cơ con trống luôn lớn hơn
khối lượng cơ con mái (không phụ thuộc vào lứa tuổi và loại gia cầm). Giai đoạn

70 ngày tuổi khối lượng tất cả các cơ của gà trống đạt 530g, của gà mái đạt 467g
(Ngô Giản Luyện, 1994) [28])
Qua những nghiên cứu cho thấy cơ sở sinh trưởng gồm hai quá trình: Tế
bào sinh sản và tế bào phát triển. Tất cả các đặc tính của gia súc, gia cầm như
ngoại hình, thể chất, sức sản xuất đều được hoàn chỉnh dần trong suốt quá trình
sinh trưởng, các đặc tính này tuy là một sự tiếp tục thừa hưởng các đặc tính di
truyền của bố mẹ, nhưng hoạt động mạnh hay yếu còn do tác động của môi
trường.
Khối lượng cơ thể thường được theo dõi theo từng tuần tuổi và đơn vị tính
là kg/con hoặc g/con. Để xác định khối lượng cơ thể ở các khoảng thời gian khác
nhau người ta còn biểu thị khối lượng thông qua đồ thị sinh trưởng.
Khối lượng cơ thể ở từng thời kỳ là thông số để đánh giá sự sinh trưởng
một cách đúng đắn nhất, song lại không chỉ ra được sự khác nhau về tỷ lệ sinh
trưởng của các thành phần trong khoảng thời gian của các độ tuổi.
Sinh trưởng của vật nuôi nói chung và sinh trưởng của gà nói riêng chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố, quan trọng nhất là yếu tố giống, thức ăn và các điều
kiện chăm sóc nuôi dưỡng khác.
Khi nghiên cứu về sinh trưởng người ta thường sử dụng một cách đơn
giản và cụ thể một số chỉ tiêu để đánh giá sự sinh trưởng của gia cầm:
1.1.2.2. Phương pháp đánh giá sinh trưởng
Để đánh giá khả năng sinh trưởng các nhà chọn giống vật nuôi đã có
khuynh hướng sử dụng các phương thức đơn giản và thực tế, đó là khả năng sinh
trưởng theo 3 chỉ tiêu là: Chiều cao, thể tích và khối lượng.
Khối lượng cơ thể: Về mặt sinh học, sinh trưởng được xem như là quá
trình tổng hợp, tích lũy dần các chất mà chủ yếu là protein. Do vậy có thể lấy


16

việc tăng khối lượng cơ thể làm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng của gia

súc, gia cầm. Khối lượng của gia súc, gia cầm là một trong những tính trạng di
truyền số lượng. Tính trạng này có hệ số di truyền khá cao phụ thuộc vào đặc
điểm của từng giống, loài.
Sinh trưởng theo Trần Đình Miên và Nguyễn Kim Đường, 1992 [31] là
cường độ tăng các chiều của cơ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Trong
chăn nuôi gia cầm để đánh giá sinh trưởng người ta sử dụng 2 chỉ số đó là: Sinh
trưởng tuyệt đối và sinh trưởng tương đối.
- Sinh trưởng tuyệt đối là sự tăng lên về khối lượng, kích thước của cơ thể
trong khoảng thời gian giữa hai lần khảo sát (T.C.V.N 2, 39 – 77 [46]), sinh
trưởng tuyệt đối thường tính bằng g/con/ngày hoặc g/con/tuần. Đồ thị sinh
trưởng tuyệt đối có dạng parabol. Giá trị sinh trưởng tuyệt đối càng cao thì hiệu
quả kinh tế càng lớn.
- Sinh trưởng tương đối là tỷ lệ phần trăm tăng lên của khối lượng, kích
thước trong khoảng thời gian giữa hai lần khảo sát (T.C.V.N 2, 40 - 77 [47]). Đồ
thị sinh trưởng tương đối có dạng hypebol. Gà còn non có tốc độ sinh trưởng
cao, sau đó giảm dần theo tuổi.
Theo Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [31] cho biết có mối
quan hệ ở cơ thể gia cầm giữa sinh trưởng và một số tính trạng liên quan. Mối
liên quan giữa sinh trưởng và tốc độ mọc lông đã được xác định, cũng có mối
liên quan giữa sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn.
Để xác định toàn bộ quá trình sinh trưởng một cách chính xác là rất khó
khăn và phức tạp. Tuy nhiên trong chọn giống vật nuôi ngày nay, người ta cũng
sử dụng các phương pháp đơn giản và thực tế để đánh giá khả năng sinh trưởng
như:
- Kích thước các chiều đo: Kích thước và khối lượng xương có tầm quan
trọng lớn đối với khối lượng cơ thể và hình dáng con vật, quan hệ giữa khối
lượng thân, tốc độ lớn và chiều dài đùi, chiều dài xương ngực với chất lượng
thịt có tầm quan trọng đặc biệt. Kích thước các chiều đo có liên quan rõ rệt với
khối lượng cơ thể, độ dài chân có liên quan đến tính biệt.
- Tốc độ sinh trưởng: Tốc độ sinh trưởng là cường độ tăng các chiều cơ

thể trong một khoảng thời gian nhất định.
- Đường cong sinh trưởng: Đường cong sinh trưởng biểu thị sinh trưởng
của gia súc, gia cầm nói chung.


17

Theo Chambers J. R, 1990 [66] đường cong sinh trưởng của gà thịt
gồm 4 pha chính như sau:
+ Pha sinh trưởng tích luỹ tăng tốc nhanh sau khi nở.
+ Điểm uốn của đường cong tại thời điểm có sinh trưởng cao nhất.
+ Pha sinh trưởng có tốc độ giảm dần sau điểm uốn
+ Pha sinh trưởng tiệm cận với giá trị khi gà trưởng thành.
Đồ thị sinh trưởng tích luỹ biểu thị một cách đơn giản nhất về đường
cong sinh trưởng.
Đường cong sinh trưởng không những được sử dụng để chỉ rõ về khối
lượng mà còn làm rõ về mặt chất lượng, sự sai khác giữa các dòng, giống, giới
tính (Knizetova H. J, Hyanck, Knize. B and Roubicek. J, 1991[82])
Ở nước ta, Nguyễn Đăng Vang, 1983 [56] khi nghiên cứu về đường
cong sinh trưởng của ngỗng Rheinland từ sơ sinh đến 77 ngày tuổi thấy hoàn
toàn phù hợp với quy luật sinh trưởng của gia cầm nói chung.
Trần Long và cộng sự, 1994 [23] khi nghiên cứu về đường cong sinh
trưởng của các dòng gà A, V1, V3, trong giống gà Hybro (HV85) cho thấy đường
cong sinh trưởng của cả bốn dòng đều phát triển đúng quy luật. Đường cong sinh
trưởng của 3 dòng có sự khác nhau và trong mỗi dòng giữa gà trống và gà mái
cũng có sự khác nhau: Sinh trưởng cao ở 7 - 8 tuần tuổi đối với gà trống và 6 - 7
tuần tuổi đối với gà mái.
- Tiêu tốn thức ăn: Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng phản ánh
quá trình chuyển hoá thức ăn để sinh trưởng. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.

- Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận, 1993 [26] cho rằng để phát huy
tối đa khả năng sinh trưởng của gia cầm thì việc cung cấp thức ăn đầy đủ và tối
ưu các chất dinh dưỡng, cân bằng protein, các axit amin và năng lượng là điều
tối cần thiết.
1.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sinh trưởng
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của gà như giống, giới
tính, tốc độ mọc lông, khối lượng bộ xương, dinh dưỡng và các điều kiện chăn
nuôi, sức khoẻ…
* Ảnh hưởng của dòng, giống:
Theo tài liệu của Chambers J. R, 1990 [66] có nhiều gen ảnh hưởng
đến sinh trưởng và phát triển của cơ thể gà. Có gen ảnh hưởng đến sự phát triển


18

chung, có gen ảnh hưởng đến sự phát triển nhiều chiều, có gen ảnh hưởng theo
nhóm tính trạng, có gen ảnh hưởng tới một vài tính trạng riêng lẻ. Godfrey E. F
và Joap R. G, 1952 [71] và một số tác giả khác cho rằng các tính trạng số lượng
này được quy định bởi 15 cặp gen, trong đó ít nhất có một gen về sinh trưởng
liên kết giới tính (nằm trên nhiễm sắc thể X), vì vậy có sự sai khác về khối lượng
cơ thể giữa con trống và con mái trong cùng một giống, gà trống nặng hơn gà
mái 24 - 32%.
Trần Thanh Vân, 2002 [57] khi nghiên cứu khả năng sản xuất thịt của gà
lông màu Kabir, Lương Phượng và Sasso cho biết: khối lượng cơ thể gà ở 10
tuần tuổi đạt lần lượt là 1990,28 g/con, 1993,27 g/con và 2189,29 g/con. Gà Tam
Hoàng 882 ở 12 tuần tuổi khối lượng cơ thể đạt 1557,83 g/con (Nguyễn Thị
Khanh, Trần Công Xuân và cộng sự, 2000 [19])
Mỗi giống có một khả năng sinh trưởng nhất định, sự khác nhau về sinh
trưởng đó là do bản chất di truyền quy định. Đặc điểm di truyền của giống và
ngoại cảnh có tác động qua lại với nhau, nghĩa là cùng một kiểu gen nhưng ở các

môi trường khác nhau thì có sinh trưởng khác nhau. Cho nên việc cần thiết là
phải tạo ra môi trường phù hợp với kiểu gen đó để phát huy tối đa tiềm năng di
truyền của giống. Jaap và Moris, 1937 [79] đã phát hiện ra những sai khác trong
cùng một giống về cường độ sinh trưởng.
Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998 [13] cho biết, gà con ở
40 ngày tuổi khối lượng tăng gấp 10 lần so với lúc 01 ngày tuổi, trong khi đó vịt
con chỉ cần có 20 ngày để tăng gấp 10 lần khối lượng so với lúc 01 ngày tuổi.
Nguyễn Thị Thuý Mỵ, 1997 [33] khi nghiên cứu 3 giống gà AA , Avian
và BE 88 nuôi tại Thái Nguyên cho thấy khối lượng cơ thể của 3 giống khác
nhau ở 49 ngày tuổi là khác nhau, cụ thể lần lượt là: 2501,09g; 2423,28g;
2305,14g.
Khảo sát khả năng sinh trưởng của 3 dòng gà Plymouth Rock thì dòng
TĐ9 có khả năng sinh trưởng tốt nhất. Đến tuần tuổi thứ 8, dòng TĐ9 có khối
lượng sống vượt dòng TĐ8 12,90% và vượt dòng TĐ3 17,40%, (Lê Hồng Mận
và cộng sự, 1996 [30])
Theo Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự, 1994 [16] thì sự sai khác về khối
lượng cơ thể giữa các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà
hướng trứng từ 500 - 700g (13 - 30%).
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã chứng minh sự khác biệt về sinh trưởng
là do di truyền, mà cơ sở di truyền là do gen, có ít nhất một gen quy định khả
năng sinh trưởng
liên kết với giới tính, cho nên con trống thường lớn hơn con mái. Điều này
chứng tỏ di truyền có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng của gia cầm.


19

Theo Bùi Quang Tiến, 1993 [42] cho biết hệ số di truyền về tốc độ sinh
trưởng là 0,4 – 0,5.
* Ảnh hưởng của tính biệt, tốc độ mọc lông đến sinh trưởng của gà

+ Tính biệt ảnh hưởng đến sinh trưởng:
Rõ rệt nhất là ở gà do sự khác nhau về quá trình trao đổi chất, đặc điểm
sinh lý và khối lượng cơ thể. Trần Đình Miên, 1994 [32] cho biết lúc gà mới nở
gà trống nặng hơn gà mái 1%, tuổi càng tăng sự sai khác càng lớn, ở 8 tuần tuổi
sự sai khác về khối lượng giữa gà trống và gà mái là: 27%. North M. O, Bell P.
D, 1990 [86] cũng cho biết khối lượng gà con 1 ngày tuổi tương quan dương với
khối lượng trứng giống đưa vào ấp, song không ảnh hưởng đến khối lượng cơ
thể gà lúc thành thục và cường độ sinh trưởng ở 4 tuần tuổi. Lúc mới nở gà trống
nặng hơn gà mái 1%, tuổi càng tăng sự khác nhau càng lớn, ở 2 tuần tuổi hơn
5%, 3 tuần tuổi 11% và 8 tuần tuổi hơn 27%. Nguyễn Thị Hải và cộng sự, 2006
[11] cho biết gà TĐ nuôi vụ Xuân - Hè ở 10 tuần tuổi có khối lượng cơ thể ở con
trống 2616,33 g/con và ở con mái là 2214,48 g/con, khác nhau 18,15%.
Tính biệt là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến khối lượng cơ
thể của gà: Gà trống nặng hơn gà mái từ 24 – 32%. Những sai khác này cũng
được biểu hiện ở cường độ sinh trưởng, được quy định không phải do hoocmon
sinh học mà do các gen liên kết với giới tính. Tuy nhiên, sự sai khác về mặt sinh
trưởng còn thể hiện rõ hơn đối với các dòng phát triển nhanh so với các dòng
phát triển chậm (Chambers J. R,1990 [66] )
Ở gà hướng thịt giai đoạn 60 - 70 ngày tuổi, con trống nặng hơn con mái
180 - 250g, (Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998 [13])
Hoàng Toàn Thắng, 1996 [39] có khuyến cáo đối với người chăn nuôi:
Đối với gia cầm, để đạt hiệu quả cao trong chăn nuôi gia cầm cần nuôi tách trống
mái.
+ Ảnh hưởng của tốc độ mọc lông tới sinh trưởng:
Những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học xác định trong cùng
một giống, cùng giới tính ở gà có tốc độ mọc lông nhanh có tốc độ sinh trưởng,
phát triển cao hơn gà mọc lông chậm. Kushner K. F, 1974 [21] cho rằng tốc độ
mọc lông có quan hệ chặt chẽ tới tốc độ sinh trưởng, thường gà lớn nhanh thì
mọc lông nhanh và đều hơn ở gà chậm mọc lông. Hayer J. F và cộng sự, 1970
[73] đã xác định trong cùng một giống thì gà mái mọc lông đều hơn gà trống và



20

tác giả cho rằng ảnh hưởng của hoocmon sinh trưởng có tác dụng ngược chiều
với giới tính quy định tốc độ mọc lông.
The Siegel P. B và Dumington E. D, 1978 [94] thì những alen quy định
tốc độ mọc lông nhanh phù hợp với tăng khối lượng cao.
* Ảnh hưởng của độ tuổi và mức độ dinh dưỡng đến sinh trưởng
Khi nghiên cứu đến độ tuổi và mức độ dinh dưỡng ảnh hưởng đến sinh
trưởng của gà thì Chambers J. R, 1990 [66] cho biết: Sinh trưởng là tổng số của
sự phát triển các phần cơ thể như thịt, xương, da. Tỷ lệ sinh trưởng các phần này
phụ thuộc vào độ tuổi, tốc độ sinh trưởng và phụ thuộc vào mức độ dinh dưỡng.
Mức độ dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển các bộ phận khác
nhau của cơ thể mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển của từng mô này đối với mô
khác.
Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, 2003 [27] để phát huy được sinh
trưởng cần cung cấp thức ăn tối ưu với đầy đủ chất dinh dưỡng được cân bằng
hợp lý giữa protein với năng lượng. Ngoài ra trong thức ăn hỗn hợp cho chúng
còn được bổ sung hàng loạt các chế phẩm hóa sinh không mang theo nghĩa dinh
dưỡng nhưng có kích thích sinh trưởng làm tăng chất lượng thịt.
Nguyễn Thị Thúy Mỵ, 2006 [34] đã nghiên cứu ảnh hưởng của các mức
năng lượng và protein khác nhau cùng với tỷ lệ ME/CP khác nhau nhằm phát
huy tốt đến khả năng sinh trưởng của ngan Pháp nuôi tại Thái Nguyên.
Trần Tố, 2007 [53] nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ khác nhau giữa
methionine và lysine trong khẩu phần đến sinh trưởng của gà broiler Kabir cho
biết đến 10 tuần tuổi lô có tỷ lệ methionine/lysine 40,5% cho sinh trưởng tốt hơn
các lô có tỷ lệ này bằng 45,5% và 35,5%.
Theo Trần Công Xuân, 1995 [60] cho biết cùng tổ hợp lai broiler: Ross
208, Ross 208 - V35 nuôi ở 9 lô với 3 mức năng lượng và 3 mức protein, cho

khối lượng ở 8 tuần tuổi khác nhau rõ rệt.
Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng tới sự phát triển của từng mô khác nhau
gây nên sự biến động trong quá trình phát triển và có sự khác nhau giữa mô này
với mô khác. Chế độ dinh dưỡng không những ảnh hưởng tới sinh trưởng mà
còn làm biến động di truyền về sinh trưởng.
Tác giả Epym R. A và cộng sự, 1979 [68] cho biết: Dinh dưỡng không chỉ
cần thiết cho sinh trưởng mà còn cần thiết để thể hiện khả năng di truyền của
sinh trưởng. Gà Broiler phát triển mạnh nên đòi hỏi lượng thức ăn tương ứng để


21

phát huy tiềm năng di truyền của chúng. Chi phí thức ăn chiếm 70% giá thành gà
Broiler, do vậy để có năng suất cao trong chăn nuôi gia cầm - đặc biệt phát huy
tiềm năng sinh trưởng, thì một trong những vấn đề căn bản là lập ra những khẩu
phần dinh dưỡng hoàn hảo, cân đối trên cơ sở đảm bảo nhu cầu của gia cầm qua
từng giai đoạn nuôi.
Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng, Phạm Quang Hoán, 1993 [29] cho biết nhu
cầu protein thích hợp cho gà Broiler cho năng suất cao đã được xác định. Để
phát huy được khả năng sinh trưởng tối đa cần phải cung cấp đầy đủ các chất
dinh dưỡng với sự cân bằng nghiêm ngặt giữa protein, axit amin với năng lượng.
* Ảnh hưởng của môi trường chăm sóc nuôi dưỡng:
Khả năng sinh trưởng của gia cầm bị ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố môi
trường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. Khẩu phần ăn đầy đủ và cân đối các
chất dinh dưỡng, chăm sóc quản lý chu đáo sẽ có tác dụng tăng khả năng sinh
trưởng nâng cao năng suất chăn nuôi.
+ Ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường:
Nhiệt độ môi trường ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng rất rõ rệt, đặc
biệt là giai đoạn gà con. Với gà Broiler và gà hậu bị, nhiệt độ ngày thứ nhất cần
đảm bảo 32 – 340C; ngày thứ 2 - 7 là 300C; tuần thứ hai là 260C; tuần thứ ba là

220C; tuần thứ tư là 200C. Theo Lê Hồng Mận và cộng sự, 1993 [29] thì nhiệt độ
tối ưu chuồng nuôi với gà con sau 3 tuần tuổi là 18 – 200C. Nhiệt độ ảnh hưởng
rất lớn tới nhu cầu năng lượng trao đổi (ME) và protein thô (CP) của gà Broiler,
do vậy tiêu thụ thức ăn của gà chịu sự chi phối của nhiệt độ môi trường. Trong
điều kiện nhiệt độ khác nhau thì mức tiêu thụ thức ăn của gà cũng khác nhau.
Theo Herbert G. J và cộng sự, (1983) [74] thì nhiệt độ chuồng nuôi có ảnh
hưởng tới gà sau 3 tuần tuổi như sau: Thay đổi 10C tiêu thụ năng lượng của gà
mái biến đổi tương đương 2 Kcal ME, mà nhu cầu về năng lượng và các vật chất
dinh dưỡng khác nhau cũng bị thay đổi theo nhiệt độ môi trường. Trong điều
kiện khí hậu nước ta, theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, 1993 [26] thì gà Broiler
nuôi vụ hè cần phải tăng mức ME và CP cao hơn vụ xuân 10 - 15%.
Wash Burn, Wetal K, (1992) [98] cho biết nhiệt độ cao làm gà sinh trưởng
chậm, tăng tỷ lệ chết, gây thiệt hại kinh tế lớn ở các khu vực chăn nuôi gà
Broiler công nghiệp vùng khí hậu nhiệt đới. Nir I, 1992 [85] qua nghiên cứu đã
chỉ ra rằng với nhiệt độ môi trường 350C, ẩm độ tương đối 66% đã làm giảm quá


22

trình tăng khối lượng cơ thể 30 - 35% ở gà trống, 20 - 30% ở gà mái so với điều
kiện khí hậu thích hợp.
Thông thường khi nhiệt độ cao khả năng ăn của gia cầm giảm. Để khắc
phục điều này đảm bảo khả năng sinh trưởng của gà người ta đã sử dụng thức ăn
cao năng lượng, tất nhiên, trên cơ sở cân bằng tỷ lệ ME/CP cũng như axit
amin/ME và tỷ lệ khoáng, vitamin trong thức ăn cũng cần phải cao hơn để đảm
bảo dinh dưỡng mà gà tiếp nhận được không thấp hơn nhu cầu của chúng.
Do đó, trong điều kiện khí hậu ở nước ta, tuỳ theo mùa vụ, căn cứ vào
nhiệt độ của từng giai đoạn, mà điều chỉnh mức ME và tỷ lệ ME/CP trong thức
ăn và kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng cho phù hợp để đạt hiệu quả kinh tế cao
nhất trong chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi gà thịt nói riêng.

+ Ảnh hưởng của ẩm độ và độ thông thoáng:
Ẩm độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của gia cầm.
Khi ẩm độ tăng làm cho chất độn chuồng dễ ẩm ướt, thức ăn dễ bị ẩm mốc làm
ảnh hưởng xấu tới gà. Đặc biệt là NH3 do vi khuẩn phân huỷ axit uric trong phân
và chất độn chuồng, làm tổn thương đến hệ hô hấp của gà, tăng khả năng nhiễm
bệnh Cầu Trùng, Newcastle, CRD dẫn tới làm giảm khả năng sinh trưởng của
gà.
Trong điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều như nước ta, độ thông thoáng trong
chuồng có vai trò quan trọng trong việc giúp gà có đủ O2, thải CO2 và các chất
độc khác, nó giúp giảm ẩm độ chuồng nuôi, điều chỉnh nhiệt độ chuồng nuôi,
qua đó hạn chế bệnh tật. Nhiệt độ cao cần có tốc độ lưu thông khí khác nhau.
Tốc độ lưu thông khí cao đối với gà lớn và ngược lại. Với các điều kiện khí hậu
khác nhau phải có sự điều chỉnh độ thông thoáng cho phù hợp.
Ing J. E. M. Whyte, 1995 [78] qua nghiên cứu đã cho ra khuyến cáo về
thành phần tối đa của chất khí trong chuồng nuôi gia cầm như sau:
NH3 = 0,01 g/m3, H2S = 0,002 g/m3, CO2 = 0,35 g/m3.
Ở nước ta chủ yếu là nuôi thông thoáng tự nhiên nên cần đảm bảo ấm vào
mùa đông và mát vào mùa hè. Về mùa hè khi nhiệt độ cao cần bố trí hệ thống quạt để
tăng tốc độ gió để chống nóng cho gà. Mùa đông cần có thiết bị sưởi ấm cho gà.
Tốc độ gió lùa và nhiệt độ không khí có ảnh hưởng tới sự tăng khối lượng
của gà, gà con nhạy cảm hơn gà trưởng thành. Đối với gà lớn cần tốc độ lưu
thông không khí lớn hơn gà nhỏ.
+ Ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng:


23

Gà rất nhạy cảm với ánh sáng, mỗi giai đoạn gà cần chế độ chiếu sáng
khác nhau. Theo khuyến cáo của hãng Arbor Acer Farms Inc, 1993 [62]:
- Với gà Broiler giết thịt sớm 38 - 42 ngày tuổi, thời gian chiếu sáng như

sau: 3 ngày đầu chiếu sáng 24/24 giờ, cường độ chiếu sáng 20 lux/m2, ngày thứ
tư đến khi kết thúc thời gian chiếu sáng giảm xuống còn 23/24 giờ, cường độ
chiếu sáng còn 5 lux/m2.
- Với gà Broiler nuôi dài ngày (giết thịt ở 42, 49, 56 ngày tuổi) thì chế độ
chiếu sáng như sau:
Ngày thứ 1: 24/24h;
Ngày thứ 2: 20/24h;
Ngày thứ 3 đến ngày thứ15: 12/24h;
Ngày thứ 19 đến ngày thứ 22: 14/24h;
Ngày thứ 23 đến ngày thứ 24: 18/24h ;
Ngày thứ 25 đến kết thúc thì thời gian chiếu sáng: 24/24h.
Cường độ chiếu sáng 3 ngày đầu là 20 lux, từ ngày thứ tư đến kết thúc
giảm dần còn 5 lux.
Khi cường độ chiếu sáng cao, gà hoạt động nhiều do đó làm giảm khả
năng tăng khối lượng. Với chuồng nuôi thông thoáng tự nhiên, mùa hè cần phải
che ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào chuồng, nhưng vẫn đảm bảo thông
thoáng, ánh sáng được phân bố đều trong chuồng và sử dụng bóng đèn có cùng
công suất để tránh gà tụ tập vào nơi có ánh sáng mạnh hơn.
+ Ảnh hưởng của mật độ nuôi nhốt:
Mật độ nuôi nhốt cũng là một yếu tố quan trọng để chăn nuôi gà đạt
hiệu quả cao. Mỗi giai đoạn sinh trưởng, mỗi phương thức nuôi đều có quy định
mật độ nuôi nhất định (phương thức chăn thả tự do, bán nuôi nhốt, nuôi nhốt trên
đệm lót dày, nuôi nhốt có sân chơi yêu cầu mật độ lần lượt: 0,1; 0,3; 0,35; 0,2
m2/con…). Nếu nuôi quá thưa thì lãng phí diện tích, nhưng nếu nuôi quá dày thì
ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh trưởng của gà. Bởi lẽ, khi mật độ nuôi nhốt cao
thì chuồng nhanh bẩn, lượng khí thải NH3, CO2, H2S cao và quần thể vi sinh vật
phát triển ảnh hưởng tới khả năng tăng khối lượng và sức khoẻ của đàn gà, gà dễ
bị cảm nhiễm bệnh tật, tỷ lệ đồng đều thấp, tỷ lệ chết cao, cuối cùng làm giảm
hiệu quả trong chăn nuôi. Ngược lại, mật độ nuôi nhốt thấp thì chi phí chuồng



24

trại cao. Do vậy, tuỳ theo mùa vụ, tuổi gà và mục đích sử dụng cần có mật độ
chăn nuôi thích hợp.
Theo Lewis N. J, Hurnik J. F, 1990 [83] thì sự vận động của gà có ảnh
hưởng chủ yếu tới sức sản xuất, vì nó có liên quan đến sự đi tìm kiếm và sử dụng
thức ăn, nước uống. Ông thấy rằng gà broiler hoạt động suốt ngày và đi lại với
khoảng cách trung bình là 8,8 m/giờ hay 212 m/ngày. Mật độ chuồng nuôi tăng
đã làm giảm khoảng cách đi lại, nhưng không ảnh hưởng đến số trung bình của
gà đi đến máng ăn (4 lần/giờ) và máng uống (2 lần/giờ).
Gà Broiler có tốc độ sinh trưởng cao, do đó nhu cầu dinh dưỡng phải đảm
bảo và điều kiện ngoại cảnh phải thích hợp, gà thích hợp nhất ở nhiệt độ 150C210C .
Theo Van Horne P, 1991 [97]: Khi chăn nuôi gà ở mật độ cao thì hàm
lượng NH3, CO2, H2S được sinh ra trong chất độn chuồng cao. Vì khi mật độ gà
đông thì lượng bài tiết thải ra nhiều hơn, trong khi đó gà cần tăng cường trao đổi
chất nên lượng nhiệt thải ra cũng nhiều, do đó nhiệt độ chuồng nuôi tăng, nên sẽ
ảnh hưởng đến việc tăng khối lượng gà và làm tăng tỷ lệ chết khi mật độ chuồng
nuôi quá cao cùng nhiệt độ không khí cao.
Shanawary M. M, 1958 [93] đã làm thí nghiệm liên tục, 4780 gà Broiler
được nuôi ở mật độ chuồng nuôi cao. Ở thí nghiệm thứ nhất: Mật độ chuồng
nuôi 10, 20, 30, 40 và 50 con/m2 được nuôi đến 6 tuần tuổi. Ở thí nghiệm thứ
hai, mật độ chuồng nuôi 20, 40 và 50 con/m2, được nuôi để so sánh. Hai mật độ
cao hơn được giảm tới 30 con/m2 ở 3 và 5 tuần tuổi. Kết quả ở 6 tuần tuổi, thí
nghiệm 1 khối lượng cơ thể là một hàm cong đối với mật độ chuồng nuôi. Trung
bình tiêu tốn thức ăn trên tất cả các giai đoạn thí nghiệm là một đường suy giảm
so với mật độ trên 20 con/m2. Sự giảm mật độ chuồng nuôi từ 40 hoặc 50 con/m2
xuống 30 con/m2 ở tuần tuổi thứ 3 đã làm tăng tiêu tốn thức ăn, tăng khối lượng
và dẫn đến sự hồi phục khối lượng cơ thể của gà ở tuần tuổi thứ 6. Không có sự
khác nhau lớn như tỷ lệ chết của mật độ chuồng nuôi cao ở thí nghiệm khác. Lãi

xuất mỗi m2 tăng lên hầu hết ở thí nghiệm thứ nhất bằng khoảng 65 xu (tiền A
Rập) cho mỗi gà/ m2, khi tăng ở mật độ chuồng nuôi.
Theo Beremski Ch, 1978 [63] thí nghiệm nuôi 4 nhóm gà Broiler trên nền
chuồng có đệm lót, ở mật độ là 20, 22, 18 và 16 con/m2; ở giai đoạn 6, 7, 8 tuần
tuổi, với cùng thức ăn hỗn hợp. Mật độ chuồng nuôi đã không ảnh hưởng đến chỉ


25

số so sánh các sản phẩm lúc 7 tuần tuổi. Tỷ lệ tăng trưởng giảm theo sự tăng mật
độ đàn ở giai đoạn vỗ béo lúc 8 tuần tuổi, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng và
chỉ số thịt xẻ không bị ảnh hưởng lúc 6, 7, 8 tuần tuổi bởi mật độ đàn. Tăng mật
độ nuôi lúc 6 đến 8 tuần tuổi đã làm giảm sự tăng trưởng nhưng tăng sản phẩm
thịt trên đơn vị diện tích nền chuồng bằng 7,0 tới 9,3% ở tuần tuổi 6, 7 và đến
20,7% ở tuần tuổi 8.
Nhiều tác giả cũng đưa ra khuyến cáo: Nuôi gà Broiler ở mật độ nuôi từ
11 con/m2 - 12 con/m2 là thích hợp, nếu nuôi ở mật độ cao thì tỷ lệ chết cũng cao
và khối lượng cơ thể giảm, đặc biệt nuôi trên 14 con/m2 - 15 con/m2.
Khi làm thí nghiệm trên gà Broiler BE11, V35, AV35 từ 1 - 49 ngày tuổi
nuôi nhốt với mật độ khác nhau, các tác giả Nguyễn Hữu Cường và Bùi Đức
Lũng, 1996 [3] có kết quả như sau:
- Với gà BE11, V35 nuôi vụ Hè và vụ Đông.
+ Tỷ lệ nuôi sống lô I mật độ 8 con/m2 cho kết quả cao nhất đạt 97,5%,
thấp nhất ở lô II có mật độ 14 con/m2 là 92,86%.
+ Tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng ở lô I cho kết quả tốt hơn (2,05 kg)
so với lô II (2,11 kg).
+ Hiệu quả kinh tế/1m2 chuồng:
Lô I: Mùa hè = + 38.130đ

Mùa đông = + 32.500đ


Lô II: Mùa hè = - 62.060đ

Mùa đông = + 12.330đ

Tác giả có khuyến cáo mùa hè mật độ tối ưu là 8 con/m2, mùa đông mật
độ tối ưu là 10 con/m2 nền chuồng, đối với gà Broiler.
Theo khuyến cáo của hãng AborAcres, 1995 [62] thì mật độ nhốt tối đa
cho gà Broiler như sau:
Mật độ gà/m2
Khối lượng sống trung
Chuồng nuôi điều khiển Chuồng nuôi thông
bình khi xuất bán (kg)
được tiểu khí hậu
thoáng tự nhiên
1,0
33
22
1,5
22
15
1,8
18
12
2,0
17
11
2,5
14
9

3,0
11
7


×