Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

mô hình giải pháp nâng cao chất lượng giúp việc hộ gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.69 KB, 33 trang )

MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài :

Với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế. Chất lượng cuộc sống của con người
ngày càng được nâng cao. Yêu cầu về đời sống tinh thần từ đó cũng được chú
trọng . Ngoài giờ làm việc, họ muốn có những khoảng thời gian rảnh để giải trí,
nghỉ ngơi, thư giãn. Nhưng không chỉ có công việc ở ngoài xã hội, mà còn có
những công việc khác ở nhà đang chờ họ giải quyết?
Vậy thì phải làm như thế nào để có thể cân bằng được chất lượng công việc mà vẫn
có thể có thời gian nghỉ ngơi?
Đó là họ cần một người làm giúp việc nhà để khoảng thời gian sau khi từ công ty,
văn phòng trở về; mọi công việc đã được sắp xếp ổn thoả.
Từ đó, đã xuất hiện nhu cầu tìm người giúp việc.
Lao động giúp việc gia đình là một loại hình lao động xuất hiện từ rất lâu trong xã
hội nước ta và có đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay có khá đông người lao động làm nghề giúp việc gia đình và
số lượng này ngày càng tăng do nhu cầu của xã hội. Nghề giúp việc gia đình đã
phần nào đáp ứng nhu cầu về việc làm của người lao động và nhu cầu sử dụng
người giúp việc của một số gia đình. Trước khi bộ luật lao động 2012 được ban
hành thì giúp việc gia đình vẫn chưa được coi là một nghề, cùng với nhiều định
kiến sai về nghề giúp việc gia đình của một bộ phận người dân, nên người làm
nghề giúp việc gia đình thường không được tôn trọng như người làm các công việc
khác.
Tuy đã có những quy định pháp luật về nghề giúp việc nhưng vẫn có những hạn
chế trong việc thực hiện những mô hình và giải pháp để nâng cao chất lượng người
lao động trên địa bàn thành phố Vinh.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.


*Mục đích:
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

1


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Giúp cho mọi người có cái nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn về công việc giúp
việc nhà tại hộ gia đình và tìm ra khó khăn mà người lao động gặp phải. Có những
giải pháp nhằm hệ thống hoá việc kí kết hợp đồng thuê người giúp việc phát triển
ngành nghề.
*Nhiệm vụ:
Tiến hành bài nghiên cứu này, chúng tôi xác định một số nhiệm vụ sau:
Trình bày cơ sở lý luận về mô hình chất lượng lao động để làm nền tảng của việc
nghiên cứu đánh giá, khẳng định được vị trí vai trò của người lao động giúp việc
trong hộ gia đình
Tìm hiểu tình hình chung về mô hình và chất lượng lao động trong hợp đồng thuê
người giúp việc, cũng như trên địa bàn thành phố Vinh. Tìm ra cơ sở đi vào thực
trạng của công việc giúp việc hộ gia đình hiện nay. Tìm thấy những sai lầm trong
quan niệm đánh giá người giúp việc và thái độ của xã hội đối với người giúp việc
hay người ta gọi là “osin – giúp việc nhà”
Đề ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động trong hợp
đồng thuê người giúp việc gia đình.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài do những điều kiện chủ quan, khách quan chúng tôi xác định
phạm vi nghiên cứu như sau:
Về mặt nội dung: Tìm hiểu mô hình và chất lượng lao động trong các hợp đồng
thuê người giúp việc, qua đó khảo sát thực trạng hoạt động của nghề và đánh giá

sự tác động đối với xã hội trên cơ sở đưa ra định hướng và giải pháp phát triển
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

2


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Về mặt không gian: Do địa bàn tương đối rộng, thời gian hạn hẹp, bài nghiên cứu
chỉ tập trung vào một số hộ gia đình, một số công ty môi giới trên địa bàn thành
phố Vinh.
4.Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu:
Nguồn tư liệu:
Bài nghiên cứu này là đề tài khá mới của sinh viên khoa Luật trường Đại học Vinh
nên nguồn tư liệu về sách, tạp chí của khoa rất ít. Ngoài một số sách, báo chúng tôi
tìm hiểu được trên thư viện, trong các cửa hàng sách, đây là những tư liệu thực tế
chúng tôi dựa vào để làm bài nghiên cứu này. Thông qua quá trình học tập và tiếp
xúc môi trường ở thành phố Vinh chúng tôi có cái nhìn nhận, đánh giá sâu sắc hơn
về vấn đề liên quan đến đề tài. Không thể thiếu đó là các nguồn tư liệu thu thập
trên các trang web, trang mạng xã hội góp phần làm cho bài nghiên cứu rõ rang,
chặt chẽ hơn.
Phương pháp nghiên cứu
Thu thập, điều tra và xử lí số liệu
Khảo sát, đánh giá thực trạng của nghề giúp việc cũng như việc kí kết hợp đồng
lao động. Nguồn số liệu thu thập trên các tư liệu, trên thực tế trong thời gian dài
ngắn là không giống nhau. Vì thế việc áp dụng phương pháp thu thập điều tra và
xử lí số liệu rất quan trọng
Phương pháp thực địa
Phương pháp này cho bài nghiên cứu có những số liệu, thông tin chính xác làm cho

bài nghiên cứu có sức thuyết phục người đọc đồng thời khẳng định lại nguồn tư
liệu đã nghiên cứu.
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

3


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Phương pháp chuyên gia
Sự đóng góp ý kiến của cán bộ phụ trách đào tạo người giúp việc, của những người
giúp việc có nhiều kinh nghiệm trong nghề. Công việc này nhằm rút ngắn quá trình
điều tra phức tạp, đi đến nhanh hơn với kết luận.

5.Bố cục đề tài
Bố cục của đề tài gồm có 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung:
Chương 1: Tổng quan về nghề giúp việc gia đình trong hộ gia đình
Chương 2: Mô hình và chất lượng lao động người giúp việc gia đình trên địa bàn
thành phố Vinh
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp phát triển nâng cao mô hình và chất
lượng lao động thuê người giúp việc hộ gia đình trên địa bàn thành phố Vinh.
Phần kết luận

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

4



MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

5


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ NGHỀ GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TRONG HỘ
GIA ĐÌNH
1.1

Khái quát chung

Bối cảnh lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam Cùng với sự tăng trưởng kinh
tế, ổn định xã hội chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam trong khoảng gần
20 năm qua được nâng cao rõ rệt; trong những đóng góp cho sự phát triển đó có
vai trò của lực lượng lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ). Họ đã góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống, giải phóng phụ nữ làm việc ngoài xã hội với
cường độ cao khỏi gánh nặng công việc trong gia đình, có nhiều thời gian hơn
dành cho sự nghiệp, học hành, nghỉ ngơi, giải trí..., bên cạnh đó, GVGĐ còn mang
lại thu nhập tương đối ổn định cho nhiều lao động, đặc biệt là lao động nữ ở nông
thôn có trình độ học vấn thấp, không có nghề nghiệp ổn định. Chính vì vậy, nhu
cầu xã hội đối với loại hình lao động này ngày một gia tăng. Theo Trung tâm Dự
báo và Thông tin thị trường lao động Quốc gia dự đoán, số lượng việc làm liên
quan tới GVGĐ sẽ tăng từ 157.000 người năm 2008 lên tới 246.000 người vào

năm 2015. LĐGVGĐ mang đậm nét đặc trưng về giới với 98,7% lực lượng lao
động là phụ nữ, xuất thân chủ yếu từ nông thôn, gia cảnh khó khăn, nghề nghiệp
không ổn định, một số lớn tuổi không có chồng, bị góa hoặc ly hôn... Bên cạnh đó,
môi trường làm việc của người GVGĐ thường khép kín trong không gian nhà của
người sử dụng lao động (gia chủ), vì vậy quan niệm xã hội ít nhiều thiếu sự tôn
trọng đối với NGV. Trên thực tế GVGĐ vẫn chưa được công nhận là một nghề,
chưa được quản lý và đào tạo. Chính vì những đặc thù này, LĐGVGĐ dễ phải đối
mặt các nguy cơ như bị mắng chửi, đánh đập, đe dọa, bị lạm dụng sức lao động,
lạm dụng tình dục... nguy cơ không được gia chủ thực hiện đúng thỏa thuận ban
đầu về công việc, thời gian, tiền lương,... hoặc các quyền lợi của họ không được
đảm bảo, ví dụ như quyền được chi trả một phần bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm
xã hội (BHXH), ... Nhìn nhận vai trò của GVGĐ cũng như những bất cập trên,
Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực tích cực nhằm bảo vệ LĐGVGĐ được
thể hiện tại 5 Điều (từ Điều 179 đến Điều 183) trong Bộ luật Lao động 2012, tuy
nhiên các quy định này vẫn mang tính khung. Để các quy định của Bộ luật đi vào
cuộc sống cần có những hành động tiếp theo để đưa ra những hướng dẫn chi tiết,
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

6


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

đầy đủ và cụ thể, dễ áp dụng hơn đối với quan hệ lao động đặc thù này, cũng như
định hướng hành động cho các bên liên quan đến việc thực thi pháp luật như chính
quyền các cấp, cơ quan quản lý lao động địa phương, các tổ chức dịch vụ việc
làm, người sử dụng lao động và bản thân LĐGVGĐ.
Hợp đồng giúp việc gia đình xuất hiện từ rất lâu trong xã hội Việt Nam và hợp
đồng này đã rất phát triển, nhưng ở trước thời kì bộ luật lao động năm 2012 có hiệu

lực thì giúp việc gia đình vẫn chưa được xem là một nghề trong cơ cấu các ngành
nghề của Việt Nam. Sự ra đời Bộ luật Lao Động năm 2012 đã đánh dấu một bước
tiến quan trọng về mặt pháp lý cho hợp đồng giúp việc gia đình nếu như trước đây
hợp đồng giúp việc gia đình không được xem là một ngành nghề, không được thừa
nhận với sự “bình đẳng” trước các ngagnh nghề khác thì giờ đây giúp việc gia đình
chính thức được pháp luật Việt Nam thừa nhận là một ngành nghề nhà nước. Lao
động giúp việc gia đình được pháp luật bảo vệ cho những và lợi ích hợp pháp của
Bộ luật Lao động năm 2012. Tuy rằng, trong Bộ luật này không có một khái niệm
định nghĩa một cách trực tiếp về nghề giúp việc gia đình nhưng nó đã nêu ra định
nghĩa về lao động là người giúp việc gia đình và những công việc mà người giúp
việc gia đình làm trong nhà chủ sử dụng lao động. Tại điều 179 của Bộ luật Lao
động năm 2012 định nghĩa: “lao động làm giúp việc gia đình là người lao động làm
thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình, các
công việc trong gia đình bao gồm: công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em,
chăm sóc người bệnh, người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia
đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại”
Theo quy định tại điều 179 Bộ luật Lao động năm 2012 và điều 3 nghị định số
27/2014 NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về lao
động là giúp việc gia đình, lao động làm nghề giúp việc gia đình là người lao động
làm thường xuyên các công việc trong gia đình (là các công việc được lặp đi lặp lại
theo một khoảng thời gian nhất định hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng…) của một
hoặc nhiều hộ gia đình các công việc trong gia đình bao gồm: công việc nội trợ,
quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, người già, lái xe, làm vườn và
các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương
mại trong đó bao gồm người lao động sống tại gia đình người sử dụng lao động và
người lao động không sống tại gia đình người sử dụng lao động.
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

7



MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Từ định nghĩa trên của bộ luật lao động năm 2012 kết hợp với khái niệm chung
về nghề nghiệp trong xã hội “nghề là một lĩnh vực trong hoạt động lao động mà
trong đó nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kĩ năng để
làm ra các sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu
của xã hội. Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong
1.2

Đặc điểm nghề giúp việc hộ gia đình

Nghề giúp việc gia đình được đánh giá tổng quan là một nghề làm các việc nhà,
không liên quan đến hoạt động thương mại, bao gồm 6 nhóm đơn vị năng lực là:
chế biến món ăn – đồ uống; lau dọn nhà – sân vườn; giặt – là; chăm sóc trẻ sơ sinh
– trẻ nhỏ; chăm sóc người cao tuổi – người bệnh; chăm sóc vật nuôi – cây cảnh. Là
công việc mà nhận tiền lương theo hợp đồng, có thêm kinh nghiệm, tay nghề trong
công việc nội trợ, giúp bản thân cảm thấy thoải mái, tự nuôi sống bản thân và giúp
đỡ gia đình góp phần làm cho người lao động có tinh thần trách nhiệm và kĩ năng
sống tốt hơn.
Thời gian làm việc của nghề giúp việc là bao gồm:
Giúp việc theo giờ: Hiện nay, dưới hình thức giúp việc theo giờ ngày càng tăng. Là
hình thức thuê người giúp việc làm theo những giờ cố định trong ngày hoặc có thể
thuê người giúp việc hỗ trợ chủ thuê khi có công việc. Đây là hình thức khá tiện
lợi “ cần lúc nào, có lúc đó” giảm chi phí cho người thuê, có áp dụng cho một số
sinh viên….
Giúp việc lâu dài:

Công việc mang tính chất ổn định, gắn bó với gia đình chủ


thuê. Đây là hình thức khá phổ biến, hình thành lâu nay. Nhược điểm của hình thức
này là gia chủ với người làm phải hợp tính cách….với công việc cần làm thường
xuyên nên khi người giúp việc nghỉ thì chủ nhà sẽ rất vất vả để hoàn thành công
việc hàng ngày.
Nghề giúp việc gia đình cũng có những yếu tố ảnh hưởng nhất định như kinh tế, xã
hội, con người, môi trường, điều kiện giao thông và một số yếu tố khác….
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

8


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

1.3 Vị trí, vai trò nghề giúp việc trong hộ gia đình
Từ những điều đã nêu ở trên chúng ta có thể nhận ra rằng vai trò của nghề giúp
việc gia đình là rất lớn và quan trọng vì nó đem lại rất nhiều giá trị về mặt kinh tế,
chính trị,xã hội.
Thứ nhất, đối với sự phát triển kinh tế: Khi ra đời, giúp việc gia đình đã tạo ra công
ăn việc làm cho rất nhiều lao động mà đa phần là lao động nữ từ những gia đình có
hoàn cảnh khó khăn ở các vùng nông thôn. Mà khi những người lao động này chưa
tìm được việc làm có thu nhập để trang trải cho cuộc sống, và giúp giảm bớt gánh
nặng kinh tế cho gia đình của họ thì tỉ lệ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn cũng
sẽ giảm dần. Việc này góp phần rất lớn đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo của
những vùng nông thôn ở nước ta. Mặt khác, đối với những gia đình có sử dụng lao
động giúp việc thì các thành viên trong gia đình đó, nhất là những người lao động
chính, họ sẽ có thêm thời gian nhàn rỗi hơn để thư giãn nghỉ ngơi, chăm sóc sức
khoẻ và tái tạo lại sức lao động của mình. Từ đó, khi bước vào làm việc thì năng
suất lao động của họ sẽ cao hơn, tạo ra nhiều giá trị hơn.

Thứ hai, đối với sự phát triển xã hội: Nghề giúp việc gia đình đã giúp cho những
lao động nhàn rỗi ở các vùng nông thôn có được thu nhập ổn định. Từ đó, điều
kiện kinh tế và chất lượng cuộc sống của họ, cũng như của gia đình họ sẽ được cải
thiện đáng kể. Khi đó sẽ giảm thiểu được các tệ nạn xã hội như: trộm cướp, gây rối
trật tự công cộng, an ninh xã hội sẽ được đảm bảo…. Đời sống của nhân dân sẽ
được tốt đẹp hơn. Thường thì các gia đình có nhu cầu sử dụng giúp việc là những
gia đình có điều kiện kinh tế tương đối tốt, nên khi vào làm việc, người giúp việc
sẽ được tiếp cận với các trang thiết bị như: máy giặt, tủ lạnh, các trang thiết bị khác
trong gia đình hiện đại. Mặt khác, người giúp việc gia đình sẽ sống với gia chủ,
nhưng không phải gia đình nào cũng giống nhau, nên để có thể hoà hợp với gia
đình chủ, họ phải rèn luyện thêm kĩ năng xã hội của mình như kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng thích nghi với các điều kiện sống khác nhau,… Khi đó, vô hình chung thì kĩ
năng xã hội của họ được nâng lên. Còn đối với gia đình người sử dụng lao động,
họ sẽ có nhiều thời gian hơn trong các công tác xã hội.
Thứ ba, giúp góp phần thực hiện chính sách bình đẳng giới: Đa phần người giúp
việc gia đình là phụ nữ nên nghề này cũng góp phần không nhỏ trong suy nghĩ về
giới ở Việt Nam. Trong những năm qua, nhờ thực hiện chính sách của Nhà nước
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

9


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

về thúc đẩy bình đẳng giới nên vai trò của người phụ nữa trong xã hội ngày càng
được nâng lên, trong tư tưởng của người dân đã dần xem nam giới và nữ giới bình
đẳng như nhau về mọi mặt trong xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội còn một bộ phận
không nhỏ người dân còn giữ quan điểm “trọng nam khinh nữ” rằng “ nữ giới chỉ
làm những công việc nhà, còn việc kiếm tiền của nam giới”. Nên nghề giúp việc ra

đời đã góp phần không nhỏ trong việc làm thay đổi quan niệm đó. Cụ thể, nữ giới
vẫn có thể ra ngoài xã hội làm việc kiếm tiền như nam giới và những công việc gia
đình cũng là công việc tạo ra thu nhập, thậm chí thu nhập từ nghề giúp việc gia
đình còn cao hơn những nghề khác mà họ làm ở nông thôn.
Thứ tư, nghề giúp việc gia đình đối với sự ổn định của chính trị. Từ khi ra đời cho
đến này, giúp việc gia đình đã thu hút được rất nhiều lao động tham gia, và nghề
này còn tăng rất nhiều trong thời gian tới. Đồng thời, chính vì những giá trị kinh tế
mà nó đem lại cho nên giúp việc gia đình cũng có vai trò rất quan trọng trong việc
ổn định chế độ chính trị của nước ta.
Ở nước ta hiện nay, nghề giúp việc gia đình đã mang lại thu nhập ổn định cho rất
nhiều lao động và những lao động này thường thuộc nhóm người dễ bị tổn thương
trong xã hội. Bởi lẽ họ đến từ các vùng quê nghèo, trình độ tương đối thấp và
thường là phụ nữ hoặc người chưa thành niên và trẻ em. Nếu như không có nghề
giúp việc gia đình thì những nhóm lao động này sẽ thất nghiệp và khi không có thu
nhập thì họ sẽ là đối tượng rất dế bị các phần tử phản động lợi dụng để chống lại
chính quyền và nền chính trị của nước ta. Mặt khác, trong một quốc gia mà tồn tại
một số lượng lớn người lao động bị thất nghiệp thì đây cũng sẽ là một gánh nặng
rất lớn đối với quốc gia đó và khi đó sẽ rất khó để duy trì sự ổn định của nền chính
trị.
1.4 Chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng lao động nghề giúp việc:
Người giúp việc: Độ tuổi của người giúp việc dựa trên sự nhận thức, đánh giá về
công việc ta phân chia như sau:
Độ tuổi từ 15 đến dưới 30
Độ tuổi từ đủ 30 đến dưới 45
Độ tuổi từ đủ 45 đến 60
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

10



MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Những người làm nghề giúp việc thường có xuất thân từ những vùng nông thôn
nghèo khó, trình độ học vấn thấp, không có việc làm ổn định. Họ tìm đến công
việc giúp việc gia đình để bươn trải cuộc sống. Mức lương cơ bản của người giúp
việc trong hộ gia đình trên địa bàn thành phố Vinh dao động trong khoảng trên
dưới 3 triệu đồng, ngoài ra họ còn được thưởng thêm nếu làm tốt công việc trong
các dịp lễ tết.
Nghề giúp việc nhà tuy không đòi hỏi chuyên môn cao, nhưng yếu tố thái độ lại
quyết định chất lượng dịch vụ. Thế nhưng, thị trường này lại chưa có một cái quy
chuẩn cụ thể nào về chất lượng. Hay nói một cách khác, cả người làm việc lẫn
người đi thuê vẫn phải dựa vào cảm tính và một chút... may mắn
Với yêu cầu của xã hội hiện nay người giúp việc đòi hỏi phải có phẩm chất tốt, lý
lịch rõ ràng. Khi tiếp xúc với những trang thiết bị hiện đại trong quá trình làm việc
họ sẽ học được kĩ năng sử dụng và bảo quản nó đồng thời cải thiện kĩ năng giao
tiếp trong quá trình sống gắn bó với gia đình chủ
Chủ sử dụng lao động phần lớn là các hộ gia đình tư nhân, có điều kiện kinh tế tốt,
có nhiều thế hệ chung sống với nhau trong một gia đình, thường có các đối tượng
là trẻ nhỏ hoặc người già nhưng họ không đủ điều kiện thời gian để chăm sóc. Nên
yêu cầu cần phải có một người giúp việc đỡ đần họ làm những công việc trên. Vì
thế nên ngày càng có nhiều hộ gia đình có nhu cầu tìm người giúp việc.
Cơ sở pháp lí để điều chỉnh giữa người giúp việc và chủ sử dụng người giúp việc:
Nghị định số 27/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao
động về lao động là người giúp việc gia đình.

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

11



MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH VÀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG NGƯỜI GIÚP
VIỆC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH
2.1 Giới thiệu địa phương:
Thành phố Vinh, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Vinh là đô thị loại 1 thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam, là trung tâm kinh tế, chính trị
của tỉnh và đã được Chính phủ Việt Nam quy hoạch để trở thành trung tâm kinh
tế - văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ. Diện tích 104,96 km². Dân số: 480.000 người
(2013). Thành phố Vinh có tọa độ địa lý từ 18°38'50" đến 18°43’38" vĩ độ Bắc, từ
105°56’30" đến 105°49’50" kinh độ Đông. Vinh là thành phố nằm bên bờ sông
Lam, phía Bắc giáp huyện Nghi Lộc, phía Nam và Đông Nam giáp huyện Nghi
Xuân, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Hưng Nguyên. Thành phố Vinh cách thủ
đô Hà Nội 295 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.424 km, cách thủ
đô Viên Chăn (Lào) 400 km về phía Tây. Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa, có 2 mùa rõ rệt và có sự biến động lớn từ mùa này sang mùa khác. Nhiệt
độ trung bình 24 °C, nhiệt độ cao tuyệt đối 42.1 °C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 4 °C.
Độ ẩm trung bình 85-90%. Số giờ nắng trung bình 1.696 giờ. Năng lượng bức xạ
dồi dào, trung bình 12 tỷ Keal/ha năm, lượng mưa trung bình hàng năm 2.000mm
thích hợp cho các loại cây trồng phát triển. Có hai mùa gió đặc trưng: Gió Tây
Nam - gió khô xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 9 và gió Đông Bắc - mang theo mưa
phùn lạnh ẩm ướt kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Các đơn vị hành chính
bao gồm 16 phường: Bến Thủy, Cửa Nam, Đội Cung, Đông Vĩnh, Hà Huy
Tập, Hồng Sơn, Hưng Bình, Hưng Dũng, Hưng Phúc, Lê Lợi, Lê Mao, Quán
Bàu, Quang Trung, Trung Đô, Trường Thi, Vinh Tân và 9 xã: Hưng Chính, Hưng
Đông, Hưng Hòa, Hưng Lộc, Nghi Ân, Nghi Đức, Nghi Kim, Nghi Liên, Nghi
Phú. Thành phố Vinh nằm giữa hai khu kinh tế lớn là Nghi Sơn (Thanh Hóa)
và Vũng Áng (Hà Tĩnh), bên cạnh thành phố là khu kinh tế Đông Nam (Nghệ An).

Năm 2010, Tốc độ tăng trưởng giá trị SX so với cùng kỳ là 18,1%, thu nhập bình
quân đầu người đạt 38,1 triệu đồng, thu ngân sách đạt 2800 tỷ đồng. TP phấn đấu
trong năm 2011, tốc độ tăng trưởng giá trị SX từ 18,5-19.5%, thu ngân sách đạt từ
3.200 - 3.300 tỷ đồng. Vinh cũng được biết đến là một thành phố trẻ năng động, có
nhiều tòa nhà cao tầng. Hiện có rất nhiều dự án phát triển đô thị tại đây. Trong
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

12


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

tương lai không xa, Vinh sẽ là một thành phố hiện đại xứng tầm là đô thị trung tâm
vùng Bắc Trung Bộ. Về cơ cấu kinh tế, Đến 2010, ngành công nghiệp chiếm tỷ lệ
41%, dịch vụ 57,3%, nông nghiệp 1,61% Thành phố Vinh nằm trên trục giao thông
huyết mạch Bắc - Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng
không, nắm giữ vị trí trọng yếu trên con đường vận chuyển trong nước từ Bắc vào
Nam và ngược lại. Đồng thời rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - văn hóa trong
khu vực và quốc tế. Bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường hàng không,… ngày
càng được nâng cấp và hiện đại hoá.
2.2 Thống kê số liệu về tình hình giúp việc hộ gia đình ở nước ta hiện nay
Đặc trưng nhân khẩu, xã hội của lao động giúp việc gia đình Các kết quả nghiên
cứu về LĐGVGĐ tại Việt Nam đều có chung nhận định: LĐGVGĐ chủ yếu là nữ
giới, chiếm 98,7% (GFCD 2012), đặc điểm này là do tính chất công việc GVGĐ
như nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình,... mang đặc trưng giới, chủ
yếu là do người phụ nữ thực hiện. Về trình độ học vấn, nhìn chung trình độ học
vấn của LĐGVGĐ không cao, đa số từ THCS trở xuống, đặc biệt có đến 22% 31,8% NGV có trình độ tiểu học trở xuống, thậm chí còn có không ít người không
biết chữ. Về độ tuổi của người LĐGVGĐ chủ yếu ở độ tuổi trung niên (36-55 tuổi)
chiếm tỷ lệ cao nhất với 61,5%, và có khoảng 14,8% người lao động ở độ tuổi 56

trở lên.
Bảng : đặc trưng nhân khẩu, xã hội của LĐGVGĐ (%)

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

13


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Đặc trưng
Độ tuổi

Dưới 18
18- 35 tuổi
36- 55 tuổi
56 tuổi trở lên
Trình độ học vấn
Dưới tiểu học
Tiểu học- THCS
THCS trở lên
Tình trạng đào tạo Đã qua đào tạo
nghề
Chưa qua đào tạo
N
( Nguồn: số liệu khảo sát ILO 2011)

Số liệu điều tra tại Hà Nội. TP. HCM
Năm 2011

Năm 2012
3.0
1.6
61.5
17.2
23.8
68.8
14.8
12.5
31.8
22.0
53.9
62.6
14.3
15.4
98.4
1.6
371
130

Phần lớn LĐGVGĐ tại Việt Nam chưa qua đào tạo nghề. Trong số 371 NGV
được hỏi, có 98,4% người chưa từng qua đào tạo về GVGĐ. Chỉ có 6 trường hợp
có được đào tạo (thực tế, những trường hợp này chủ yếu được đào tạo để đi GVGĐ
ở nước ngoài, sau đó, họ quay về Việt Nam làm việc). Tình trạng hôn nhân của
LĐGVGĐ, theo kết quả nghiên cứu “Việc làm bền vững đối với LĐGVGĐ ở Việt
Nam”, ILO, 2011 cho thấy LĐGVGĐ có tỷ lệ “góa/ly hôn/ly thân” khá cao
(20,7%), và họ ít ràng buộc trong cuộc sống gia đình hơn nên thường lựa chọn
sống cùng gia chủ. Những người đang có vợ/chồng thường lựa chọn hình thức làm
việc theo giờ để thuận tiện hơn trong việc vừa làm việc vừa chăm lo cho cuộc sống
gia đình. Lý do đi làm GVGĐ Theo kết quả nghiên cứu “Việc làm bền vững đối

với LĐGVGĐ ở Việt Nam”, ILO, 2011, trước khi tham gia vào thị trường
LĐGVGĐ, phần lớn người lao động làm nông nghiệp hoặc các nghề nghiệp tự do
(như phụ xây, buôn bán,…) ở địa phương. Theo nhận định của người lao động, so
với các gia đình xung quanh ở địa phương, 47,3% người có mức sống của gia đình
thuộc mức nghèo; 50,4% người có mức sống gia đình trung bình. Có 65,7% người
lao động đi làm GVGĐ vì lý do muốn có thêm thu nhập cho cuộc sống bản thân và
gia đình. Một số lý do khác được đưa ra là thấy bản thân phù hợp với nghề giúp
việc gia đình (9%), không tìm được việc làm khác (5,7%), không biết làm nghề
nào khác (5,7%), muốn thoát ly nghề nông (5,7%),… …Qua nghiên cứu của
GFCD 2012, mức lương bình quân của LĐGVGĐ tại Hà Nội khoảng
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

14


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

2.800.000đ/tháng, cao hơn thu nhập bình quân của người dân sống tại khu vực
ngoại thành Hà Nội khoảng 1.417.000đ/tháng cùng thời điểm. Cũng theo đánh giá
của người dân, có 238/450 (52,9%) người được hỏi cho rằng mức thu nhập của
LĐGVGĐ là cao, ổn định. Như vậy, tăng thu nhập, giải quyết khó khăn kinh tế cho
gia đình là lý do chính mà nhiều lao động nữ, không nghề nghiệp, học vấn thấp,
kinh tế gia đình khó khăn lựa chọn công việc này. Rõ ràng, không thể phủ nhận vai
trò đóng góp về mặt giá trị kinh tế mang lại từ GVGĐ. 2. Những trở ngại của
người lao động khi lựa chọn công việc GVGĐ Trở ngại về tâm lý Xã hội Việt Nam
xa xưa vốn “coi rẻ” những người đi ở đợ, làm mướn, họ sống và làm việc vất vả
nhưng không được ăn cùng mâm, ngủ cùng nhà với gia đình chủ, quần áo đều mặc
lại đồ thừa … họ không được gọi tên riêng, mà chỉ là “con sen”, “thằng mới”.
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, một xã hội có phân công lao động nghề nghiệp

theo năng lực, chuyên môn rõ ràng dần được hình thành ở Việt Nam, tạo cơ hội
cho LĐGVGĐ được phát triển theo nhu cầu xã hội; cộng đồng dân cư dần dần đã
bớt đi sự coi thường những người làm GVGĐ; thái độ của xã hội với công việc
GVGĐ đang có xu hướng ngày càng tôn trọng hơn. Có đến 42,8% ý kiến của
người dân được hỏi cho rằng thái độ của họ cởi mở hơn, không còn sự coi thường
NGV. Tuy nhiên, vẫn còn 7% ý kiến người dân cho rằng công việc này không
được người dân coi trọng bằng các công việc khác, 10,7% LĐGVGĐ tiềm năng bị
người thân phản đối khi đi làm GVGĐ. Tỷ lệ LĐGVGĐ tiềm năng gặp phải sự
cười chê/dị nghị của hàng xóm khi quyết định đi làm GVGĐ là 4,3% (GFCD,
2013). Những con số này tuy không lớn, nhưng vẫn nói lên đây là một yếu tố cản
trở người lao động lựa chọn công việc này, hoặc không dám công khai đi làm
GVGĐ với chính quyền và cộng đồng địa phương, điều này có thể sẽ dẫn đến
những thiệt thòi cho NGV trong những trợ giúp cần thiết để bảo vệ cho quyền lợi
của mình. Trở ngại về hiểu biết pháp luật Bên cạnh trở ngại tâm lý còn có những
trở ngại pháp lý, đó là sự thiếu hiểu biết của người lao động về các quy định pháp
luật liên quan đến LĐGVGĐ. Theo kết quả nghiên cứu của GFCD 2013, trong số
NGV tiềm năng được phỏng vấn, có 27,9% người đã từng nghe đến quy định pháp
luật về LĐGVGĐ. Khoảng 70% NGV tiềm năng chưa biết đến các quy định pháp
luật liên quan đến LĐGVGĐ. Truyền thông, phổ biến sâu rộng những văn bản
pháp luật mới về LĐGVGĐ – Bộ luật Lao động 2012 trong cộng đồng dân cư cũng
là công việc rất cần được triển khai sớm ở các địa phương. Về nghĩa vụ của người
sử dụng lao động, theo Điều 180, 181 – Bộ luật Lao động 2012, người sử dụng lao
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

15


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ


động phải ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với LĐGVGĐ. Một bên có
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bất kỳ khinào nhưng phải báo
trước 15 ngày. Người sử dụng lao động có nghĩa vụ: Trả cho LĐGVGĐ khoản tiền
BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật để người lao động tự lo bảo hiểm; Tôn
trọng danh dự, nhân phẩm của LĐGVGĐ; Bố trí chỗ ăn, ở sạch sẽ, hợp vệ sinh cho
LĐGVGĐ, nếu có thoả thuận. Vừa phỏng vấn, vừa tuyên truyền những quy định
mới trong Bộ luật Lao động 2012 cho người dân địa phương và LĐGVGĐ tiềm
năng, GFCD đã thu được kết quả bước đầu về sự hiểu biết về quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng lao động
Về cơ bản, học vấn của NGV càng thấp thì hiểu biết về nghĩa vụ của người sử
dụng lao động bị hạn chế hơn. Khi NGV không nắm được những nghĩa vụ của gia
chủ, họ sẽ không biết để yêu cầu gia chủ đảm bảo việc thực hiện những quyền lợi
cho bản thân mình. Điều 183, Bộ luật Lao động 2012 quy định người sử dụng lao
động không được phép ngược đãi, quấy rối, cưỡng bức lao động đối với NGV.
Người sử dụng cũng không được phép giữ giấy tờ tùy thân của NGV. Vấn đề đặt ra
là liệu NGV có nắm được những quy định này để tự bảo vệ mình và báo cáo với
các cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp cần thiết? Thông tin thu được cho
thấy, phần lớn (trên 70%) NGV không đồng ý với việc người sử dụng giữ một
phần lương của mình hay mắng chửi NGV khi họ làm việc không đúng yêu cầu.
Tuy nhiên, tỷ lệ NGV không đồng ý với việc gia chủ khám xét đồ đạc của NGV
khi gia đình bị mất tài sản/tiền bạc hoặc giữ giấy tờ tùy thân của NGV khá thấp
(dưới 50%).

2.3 Tình hình về chất lượng lao động giúp việc trong hộ gia đình trên địa bàn
thành phố Vinh hiện nay.
Theo số liệu thống kê của trung tâm quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao
động (Bộ kế hoạch đầu tư) tính đến năm 2016, Việt Nam có khoảng 200 nghìn lao
động giúp việc hộ gia đình và nhu cầu đối với loại hình lao động này đang ngày
càng tăng, đặc biệt là ở các thành phố lớn nói chung và thành phố Vinh nói riêng.
2.3.1 Một số yếu tố ảnh hưởng đến giúp việc tại hộ gia đình

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

16


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Trong bất cứ ngành nghề nào cũng đều chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố khác
nhau nhưng mỗi yếu tố lại có tầm ảnh hưởng nhất định đối với từng ngành. Nghề
giúp việc cũng vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng như: kinh tế, xã hội, con người,
môi trường, điều kiện giao thông…..
Giúp việc hộ gia đình – sự lựa chọn của người lao động
Đối với công việc này, phù hợp rất nhiều đối tượng vì nó không yêu cầu cao về
trình độ học vấn. Từ độ tuổi 14, 15 những người mới học xong THCS nghỉ học
kiếm tiền trang trải cuộc sống đến những người 40, 50 tuổi hay có cả những lao
động 60 tuổi.
*Công việc của người giúp việc
Công việc của Người giúp việc hộ gia đình xoay quanh những công việc trong gia
đình: lau dọn nhà cửa – sân vườn, đi chợ nấu ăn, chăm sóc trẻ nhỏ, người già,
người bệnh, chăm sóc cây cảnh vật nuôi trong nhà. Những công việc mang tính
chất thường xuyên, lặp đi lặp lại hàng ngày trong gia đình.
*Thái độ đối với công việc
Đối với người thuê
Có hai quan điểm trong thái độ của người thuê:
Tôn trọng công việc: Đây là cũng là một ngành nghề làm công ăn lương, bày tỏ
thái độ đúng mực trong mối quan hệ chủ - tớ
Thiếu tôn trọng, khinh thường công việc: Họ cho rằng người giúp việc là “người
sai vặt”. Ở đây có sự phân biệt đẳng cấp giàu – nghèo, người ta hay “mỉa mai”
nghề này bằng từ “osin”.

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

17


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Đối với Người giúp việc
Đối với Người giúp việc cũng có hai quan điểm đối lập nhau:
Một số người cho rằng, giúp việc cũng là một nghề, họ đam mê thích thú với công
việc, kiếm tiền bằng chính sức lao động của bản thân
Bên cạnh đó, cũng không ít người bởi xuất thân từ quê ra hay ít học mà họ thường
mặc cảm, hay xem mình là người có địa vị thấp hèn trong xã hội, thường chạnh
lòng về thái độ của chủ nhà
Sơ đồ thái độ đối với công việc giúp việc hộ gia đình

Tôn trọng

Ham mê
Giúp việc hộ gia đình
Người thuê

Khinh thường

Người
làm

Mặc cảm


Tình hình lao động trong các hợp đồng thuê người giúp việc trên địa bàn TP Vinh
Quá trình hình thành nên mối quan hệ lao động
Người giúp việc được giới thiệu chủ yếu qua ba nguồn: Qua giới thiệu của người
quen, qua quá trình tự tìm và qua công ty môi giới.
Nhiều gia đình khi có nhu cầu tìm người giúp việc thường ưu tiên cách chọn đối
tượng là họ hàng, những người quen thân hoặc thông qua sự giới thiệu nhờ các mối
quan hệ đáng tin cậy. Đây là sự lựa chọn mà nhiều người sử dụng vì tính chất đặc
biệt không thích có người lạ sống cùng. Bên cạnh đó cũng có một vài hạn chết như
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

18


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

vì nể nang các mối quan hệ mà người thuê hay người lao động chưa có sự lựa chon
phù hợp (Đối với nguồn thứ nhất và nguồn thứ 2)
Trường hợp nguồn thứ ba qua công ty môi giới. Qua công ty môi giới thì sự tin cậy
không được đảm bảo vì phải làm trong một theo giờ ngắn hạn cho nên công việc
chủ yếu là dọn dẹp vệ sinh và nhiều trường hợp xảy ra mất đồ đạc
Tình hình nguồn lao động và ngu cầu cần người lao động giúp việc hộ gia đình
Dọc theo các con đường lớn trên thành phố Vinh chúng ta đã có thể thấy rất nhiều
tấm biển có đề dòng chữ “tại đây cần người giúp việc” hay những tờ giấy có ghi
“dịch vụ dọn dẹp vệ sinh nhà cửa”, “Trung tâm thuê người giúp việc”, …. Được
dán trên thân cây, cột điện, bảng tin…. Có nơi chỉ cách nhau vài mét trên hai thân
cây đều dán thuê người giúp việc với địa chỉ khác nhau. Như vậy, có thể thấy rằng
ngu cầu cần thuê người giúp việc trên địa bàn thành phố Vinh ngày càng tăng lên.
Một số công ty môi giới việc làm ngày càng phát triển quảng cáo ở khắp nơi. Với
nhu cầu là vậy, nguồn lao động giúp việc gia đình tại thành phố Vinh cx rất đông

đảo, là trung tâm vùng đất rộng, thành phố phát triển thu hút rất nhiều lao động từ
nhiều vùng quê đến với nơi đây, không chỉ thế nơi đây là nơi tập trung các trường
đại học nên việc sinh viên làm thêm công việc này cũng rất phổ biến.
2.3.2 Mô hình chất lượng lao động trong hợp đồng thuê Người giúp việc hộ gia
đình trên địa bàn thành phố Vinh

LĐGVGĐ mang đậm nét đặc trưng về giới với 98,7% lực lượng lao động là phụ
nữ, xuất thân chủ yếu từ nông thôn, gia cảnh khó khăn, nghề nghiệp không ổn
định, một số lớn tuổi không có chồng, bị góa hoặc ly hôn... Bên cạnh đó, môi
trường làm việc của người GVGĐ thường khép kín trong không gian nhà của
người sử dụng lao động (gia chủ), vì vậy quan niệm xã hội ít nhiều thiếu sự tôn
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

19


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

trọng đối với NGV. Trên thực tế GVGĐ vẫn chưa được công nhận là một nghề,
chưa được quản lý và đào tạo. Chính vì những đặc thù này, LĐGVGĐ dễ phải đối
mặt các nguy cơ như bị mắng chửi, đánh đập, đe dọa, bị lạm dụng sức lao động,
lạm dụng tình dục... nguy cơ không được gia chủ thực hiện đúng thỏa thuận ban
đầu về công việc, thời gian, tiền lương,... hoặc các quyền lợi của họ không được
đảm bảo, ví dụ như quyền được chi trả một phần bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm
xã hội (BHXH), ...
Vì phần lớn người giúp việc xuất thân từ các vùng nông thôn nên khả năng sử
dụng các thiết bị hiện đại vẫn còn hạn chế cho nên thời gian đầu khi đến làm giúp
việc nhà họ vẫn còn bỡ ngỡ và chưa quen dẫn đến công việc không được giải quyết
thuận lợi, vì vậy, họ cần có sự chỉ bảo từ phía chủ nhà và thời gian thích nghi nên

có những trường hợp khi mới quen với công việc thì lại nghỉ làm. Số hộ gia đình
tìm được người giúp việc lâu dài và ưng ý chiếm tỉ lệ rất ít, nhìn chung chất lượng
lao động vẫn còn thấp. Số người giúp việc qua đào tạo bài bản gần như là rất ít. Độ
tuổi lao động trên địa bàn thành phố dao động từ 15 đến dưới 30 tuổi (chiếm
15%),trên 30 tuổi tới 45 (chiếm 35%).trên 45 đến dưới 60 (chiếm 40%).trên 60
tuổi (chiếm 10%).
(theo số liệu khảo sát)
Người lao động giúp việc trong một số gia đình vẫn được trả bảo hiểm nếu có sự
cam kết pháp lí là sẽ làm việc lâu dài. Nếu trong trường hợp người giúp việc nghỉ
giữa chừng thì tuỳ theo sự thoả thuận của các bên (dựa vào điều 19 nghị định Số:
27/2014/NĐ-CP)

*Độ tuổi lao động
Độ tuổi lao động tương đối rộng từ những học sinh mới học xong THCS đến
những người cao tuổi.
Dựa vào từng giai đoạn phát triển về nhận thức, đánh giá về công việc mà ta có thể
phân chia như sau:
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

20


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Ở độ tuổi 15-30:
Năng động, nhanh nhẹn, tháo vát, tiếp thu nhanh, chỉ cần dạy một lần là có thể
biết và nhớ.
Ở độ tuổi này chủ yếu là những các nhân xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn phải
bươn trải cuộc sống. Ở độ tuổi này, họ thường dễ sao nhãng công việc, tỏ vẻ không

thích thú, có thể tự nhiên xin nghỉ việc, giận vu vơ. Do đang ở lứa mơ mộng. Việc
chọn người giúp việc ở độ tuổi này thích hợp với những gia đình trẻ hoặc gia đình
có con cái đi làm ăn xa, có ý định giữ người giúp việc ở lại làm lâu dài và gắn bó.
Ở độ tuổi 30-45:
Ở độ tuổi này người giúp việc đã chín chắn, có cái nhìn về chiều sâu của công việc,
có nhiều kinh ngiệm và hiểu biết việc hơn, chủ nhà không tốn thời gian đào tạo tay
nghề sử dụng trang thiết bị trong nhà. Tuy nhiên, những người giúp việc ở độ tuổi
này họ muốn có đồng lương khá, phù hợp với kinh nghiệm làm việc của họ. Vì
vậy, gia đình nào trả lương không xứng đáng thì họ có thể nghỉ bất cứ lúc nào để
tìm một công việc khác phù hợp hơn. Muốn tuyển người ở độ tuổi này cần phải giữ
được mức lương ổn định, phù hợp thì họ mới có thể làm lâu dài.
Độ tuổi 50-60:
Độ tuổi tương đối cao, có những bất cập trong sinh hoạt với gia đình mà tính tình
hay tự ái, làm cũng hay quên. Mặc dù vậy, người ta có câu “gừng càng già càng
cay” họ bươn trải với cuộc sống nhiều, có nhiều kinh nghiệm, kĩ năng. Thuê người
giúp việc trong độ tuổi này phù hợp với gia đình có con nhỏ và cần người để ý
trông con.

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

21


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

*Giới tính
Phù hợp với những công việc trong gia đình. Công việc giúp việc nhà đều do người
phụ nữ đảm nhận.
Trình độ học vấn của người giúp việc

Đa số người giúp việc đều xuất thân từ những gia đình nông thôn, phần lớn chỉ học
hết THCS. Đây là những người có sức khoẻ tốt, biết làm nhiều công việc, chăm
chỉ, không bị vướng bận việc gia đình. Với tính chất công việc không yêu cầu về
trình độ học vấn nên đây là sự lựa chọn của nhiều gia đình vì tiền công sẽ thấp hơn
nhiều so với những người có trình độ cao khi họ làm nghề khác mang tính lao động
trí óc.
Với thực trạng này thì đa phần việc giao kết giữa người lao động và người sử dụng
lao động thường không qua hợp đồng mà chỉ bằng lời nói. Vì vậy, việc pháp lý hoá
là không cao. Việc đặt ra câu hỏi rằng: người không biết chữ có phải kí hợp đồng
bằng văn bản không? Trên thực tế, trên thành phố Vinh, hầu hết tất cả mọi người
đều biết chữ, nhưng xét trong trường hợp này thì là người biết chữ hay không biết
chữ theo điều 16 - Bộ luật lao động thì đều phải giao kết bằng văn bản.

*Yêu cầu thuê người giúp việc qua hợp đồng.
Trong cuộc sống hiện đại, con người khá bận rộn với công việc xã hội. Đặc biệt ở
các thành phố lớn như thành phố Vinh thì một số gia đình gặp phải khó khăn trong
việc nội trợ, chăm sóc trẻ nhỏ, người già, người ốm yếu và nhiều khi quá sức đối
với họ, ảnh hưởng đến năng suất lao động ngoài xã hội. Với số lượng người giúp
việc khá đông đảo trên thị trường lao động, các gia đình không quá khó khăn để
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

22


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

tìm được người giúp việc. Nhưng trong một số trường hợp người thuê họ khá khó
tính trong công việc lựa chọn người làm, thậm chí dổi người làm đến chục lần vẫn
không vừa ý. Cũng giống như các ngành nghề khác yêu cầu đối với công việc cần

phải đổ mồ hôi công sức, mang tính chuyên nghiệp, kĩ năng tốt. Trong nhịp sống
hiện nay đối với nghề giúp việc đòi hỏi một số yêu cầu sau:
Yêu cầu về phẩm chất: Osin phải có phẩm chất tốt, sơ yêu lí lịch rõ ràng, biết tôn
trọng việc riêng của gia đình chủ; thật thà, tư cách đạo đức tốt, siêng năng, cần cù,
cẩn thận biết tự giác trong công việc, đặc biệt là không nhiều chuyện, tham lam.
Yêu cầu về kĩ năng: Người giúp việc phải sử dụng thành thạo, bảo quản an toàn
những trang thiết bị hiện đại từ bếp gas, bàn ủi, máy giặt, máy rửa chén, máy hút
bụi,…cùng nhiều thiết bị phục vụ sinh hoạt khác trong gia đình. Bên cạnh đó yêu
cầu về kĩ năng giao tiếp cũng góp phần nào cho sự ổn định, lâu dài gắn bó giữa gia
đình và người làm.
Đối với những yêu cầu này chủ yếu chỉ được áp dụng qua công ty môi giới. Nhưng
dưới hình thức này cũng không ít gia đình hay người lao động gặp phải rủi ro.
Người thuê và người làm không lựa chọn được đúng theo yêu cầu của mình. Họ
phải đổi đi đổi lại nhiều lần mà nhiều khi vẫn không vừa ý.
Với yêu cầu về người giúp việc là vậy nhưng cũng không ít người lao động “kén cá
chọn canh” họ tìm hiểu rất nhiều gia đình cần thuê người giúp việc, họ lựa chọn
những gia đình cảm thấy phù hợp với bản thân, với mức lương kha khá ổn định
cho cuộc sống của họ.
Đặt ra những yêu cầu này góp phần cạnh tranh cao giữa những người lao động
giúp việc, yêu câu họ phải có ham mê thích thú với công việc, tạo động lực cho
ngành nghề ngày càng phát triển về chất lượng và số lượng
NHÓM NGHIÊN CỨU
s

23


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

Sơ đồ những yêu cầu cơ bản đối với người giúp việc gia đình

Siêngnăng, làmviệcchuyên
Y/c cơbản

Yêu cầu đối với
người giúp việc

Đức tính thật thà
Tự giác trong công việc

y/c phụ,
bổ sung

Sử dụng thành thạo trang
thiết bị
Biết cách giao tiếp ứng xử

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

24


MÔ HÌNH GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GVGĐ

*Mức lương yêu cầu công việc
Hiện nay mức lương của người lao động giúp việc nhà còn tùy thuộc vào sự thỏa
thuận giữa người làm và chủ thuê mà chưa được quy định rõ ràng. Dưới cách thức
thỏa thuận này thì mức lương cũng phụ thuộc vào tính chất, thời gian làm việc. Đối
với những trường hợp làm lâu dài ổn định, gắn bó với gia chủ thì số tiền họ nhận
được là khoảng trên dưới 3 triệu một tháng – công việc làm thường xuyên, mức

lương ở mỗi gia đình là không giống nhau. Ngoài ra, với cách thức làm việc theo
giờ thì số tiền người giúp việc làm được cũng khác nhau, mỗi giờ người lao động
nhận được 10.000đ – 20.000đ. Thường thì họ làm theo buổi và 4h/buổi, dưới cách
thức này nếu làm việc thường xuyên đều đặn thì một tháng người giúp việc nhận
được một số tiền lương khá cao. Ngoài với mức lương đã được trả theo sự thỏa
thuận giữa hai bên thì người giúp việc có thể được nhận thêm tiền thưởng trong các
dịp lễ tết nếu có thái độ làm việc tốt.
*Đăng kí qua sàn
Trên thực tế, người giúp việc hộ gia đình tìm đến với các công ti môi giới việc làm
để xin việc trên địa bàn thành phố Vinh có tỉ lệ khá thấp. Chủ yếu họ xin việc
thông qua những mối quan hệ ,nhờ người thân tìm, thậm chí họ đăng trên mạng xã
hội để tìm (đối với người trẻ). Bởi hình thức này khá đơn giản, không mất nhiêu
thời gian, giấy tờ thủ tục rườm rà và phí môi giới cho các công ty. Hiện nay trên
thành phố Vinh chỉ mới có một số văn phòng môi giới việc làm giúp việc như:công
ty tư vấn kết nối :130 Trần Thủ Độ Thành Phố Vinh .
Nhưng qua sự môi giới của một só công ty hoặc của người môi giới, cả người thuê
và người giúp việc vẫn gặp phải tình trạng tính phí môi giới, đó là những rủi ro

NHÓM NGHIÊN CỨU
s

25


×