Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và mức lương của người lao động dựa trên báo cáo về chuyển tiếp giữa trường học đến việc làm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.45 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
---***---

BÁO CÁO THỰC TẬP GIỮA KỲ
SỬ DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG NGHIÊN CỨU
ẢNH HƯỞNG CỦA TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN ĐẾN MỨC
LƯƠNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DỰA TRÊN BÁO
CÁO VỀ CHUYỂN TIẾP GIỮA TRƯỜNG HỌC ĐẾN
VIỆC LÀM NĂM 2013 TẠI VIỆT NAM
Họ và tên: Phạm Thị Minh Hiền
Mã sinh viên: 1214410064
Lớp: Anh 05
Khóa: 51
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thùy Vinh
Hà Nội, tháng 8 năm 2015

1


Mục lục
Phần 1: Giới thiệu về trung tâm nghiên cứu chính sách và phát triển DEPOCEN
và quá trình hoạt động của bản thân tại đơn vị thực tập

2


Mở đầu
Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong những nhân tố quan trọng tạo nền tảng
phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Vì thế việc nghiên cứu các yếu


tố ảnh hưởng đến lao động, đặc biệt là lao động trẻ có độ tuổi từ 15 – 29 là một vấn đề
vô cùng cấp bách và cần thiết, nhất là khi Việt Nam đang trải qua thời kỳ “cơ cấu dân
số vàng”.
Khi nghiên cứu về lao động trẻ ở Việt Nam, em nhận thấy trình độ học vấn, các
đặc điểm cá nhân của người lao động và mức lương của người lao động là ba yếu tố có
tác động qua lại với nhau và thể hiện mức độ ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Đồng thời,
mức lương cũng thể hiện phần nào mức sống của người lao động. Trên thực tế, rất
nhiều các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng trình độ học vấn ảnh hưởng rất mạnh
mẽ đến mức lương của người lao động, nhưng đó hầu hết là những nghiên cứu ở các
nước phát triển. Vậy nên đặt ra vấn đề về nguồn nhân lực Việt Nam, em nhận thấy
nghiên cứu về trình độ học vấn của người lao động là một vấn đề nhận được nhiều sự
quan tâm từ xã hội và nhà nước. Bài nghiên cứu này sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về
tình hình lao động trẻ ở Việt Nam năm 2013 và sử dụng mô hình kinh tế lượng để
nghiên cứu về ảnh hưởng của trình độ học vấn đến cá nhân người lao động dựa trên bộ
số liệu STWT năm 2013 được cung cấp bởi Trung tâm nghiên cứu chính sách và phát
triển DEPOCEN trong suốt quá trình thực tập tại Trung tâm.
Trong quá trình thực tập và nghiên cứu đề tài trên, em cũng gặp khá nhiều khó
khăn vì thời gian thực tập và nghiên cứu hạn hẹp. Tuy nhiên, em đã nhận được sự giúp
đỡ tận tình từ phía cô và các anh chị bên Trung tâm DEPOCEN. Em xin chân thành
cảm ơn cô đã giúp em hoàn thành bài báo cáo thực tập dưới đây.

3


PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU CHÍNH
SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN DEPOCEN VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT
ĐỘNG CỦA BẢN THÂN TẠI ĐƠN VỊ THỰC TẬP
1.1 Giới thiệu về Trung tâm nghiên cứu chính sách và phát triển DEPOCEN:
1.1.1 Lịch sử thành lập Trung tâm nghiên cứu chính sách và phát triển
DEPOCEN:

Công ty Cổ phần Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển – DEPOCEN –
được thành lập năm 2005 dưới hình thức tổ chức nghiên cứu độc lập. DEPOCEN đã
xây dựng được uy tín trong cộng đồng tư vấn, nghiên cứu chính sách và phát triển
thông qua những nghiên cứu của mình về một loạt các vấn đề kinh tế - xã hội. Các dự
án nghiên cứu tập trung vào phân tích chính sách kinh tế - xã hội; chính sách và các
chương trình phát triển; môi trường kinh doanh và đầu tư; theo dõi và đánh giá các dự
án phát triển; đánh giá tác động của các dự án phát triển, xóa đói giảm nghèo, các dự
án về dịch vụ công như cải cách thủ tục hành chính, đất đai, y tế, giáo dục, nước
sạch vệ sinh, điện khí hóa nông thôn; các dự án sử dụng phương pháp khảo sát (định
tính và định lượng).
Các lĩnh vực và địa bàn hoạt động:
DEPOCEN có kĩ năng và kinh nghiệm chuyên môn trong việc áp dụng các phương

1.1.2

pháp định tính và định lượng, thiết kế thống kê và đánh giá tác động. Kinh nghiệm và
năng lực của DEPOCEN phù hợp với yêu cầu của Điều khoản tham chiếu, cụ thể ở các
lĩnh vực sau:
-

Kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm chuyên sâu trong thực hiện Khảo sát
diện rộng và khảo sát đánh giá dịch vụ công;

-

Kinh nghiệm thực hiện đánh giá tác động trong lĩnh vực phát triển;

-

Kinh nghiệm trong tổ chức, thực hiện khảo sát đánh giá nhu cầu và mức độ

hài lòng của người dân, doanh nghiệp;

-

Kinh nghiệm thực hiện tư vấn ở tất cả 63 tỉnh thành trong cả nước;
4


-

Kinh nghiệm thực hiện tư vấn điều tra khảo sát và tập huấn cho các dự án IFAD
ở Việt Nam;

-

Kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển nông thôn;

-

Kinh nghiệm nghiên cứu về giới;

-

Kiến thức và kinh nghiệm trong phân tích định tính và định lượng ;

-

Thiết kế thống kê và đánh giá tác động (phương pháp giả thử nghiệm);

-


Kĩ năng viết báo cáo và thuyết trình tốt;

-

Khả năng làm việc trong môi trường đa văn hóa;

-

Kinh nghiệm làm việc với các tổ chức và cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa
phương;

-

Kinh nghiệm làm việc với các tổ chức trong nước và quốc tế;

-

Đảm bảo chất lượng dịch vụ tốt.

Nguồn nhân lực:
Các cán bộ làm việc tại Trung tâm hiện nay đều là những cán bộ có trình độ đại học

1.1.3

trở lên thuộc các chuyên ngành có liên quan tới nghiên cứu như thống kê, kinh tế, xã
hội học, luật. Với kinh nghiệm nhiều năm tham gia các hoạt động nghiên cứu, khảo sát
như nghiên cứu phân tích cơ chế, chính sách và khảo sát đánh giá dịch vụ công,
khảo sát đánh giá tác động cho các chương trình/dự án phát triển tại Việt Nam, đội ngũ
cán bộ của Trung tâm luôn được đánh giá cao bởi các khách hàng trong nước cũng như

quốc tế. Ngoài ra, Trung tâm cũng có một đội ngũ đông đảo các cộng tác viên là sinh
viên đang theo học tại các trường đại học trên cả nước.
Các thành viên của Trung tâm DEPOCEN đã có nhiều công trình nghiên cứu và ấn
phẩm được xuất bản rộng rãi trên các tạp chí và sách chuyên ngành quốc tế như Oxford
Bulletin of Economics and Statistics (Bản tin Kinh tế học và Thống kê của trường Đại
học Oxford), Journal of Population Economics (Tạp chí Kinh tế học dân số).

5


1.1.4

Một số dự án lớn DEPOCEN thực hiện:
Tên dự án

Năm thực hiện

Tư vấn đánh giá tác động 6/2014 – 7/2014
RIMs mở rộng đầu kỳ Dự
án Phát triển nông thôn bền
vững vì người nghèo tỉnh
Quảng Bình (SRDP)
Đánh giá tác động có sự 6/2013 – 9/2013
tham gia cho Dự án Phát
triển kinh doanh với người
nghèo tỉnh Bến Tre (DBRP)
Đánh giá tác động dự án 3/2013 – 6/2013
Nước sạch và Vệ sinh Nông
thôn vùng Đồng bằng sông
Hồng – Giai đoạn 1

Khảo sát đầu kỳ cho 05 3/2013 – 8/2013
chương trình ưu tiên trong
Chiến lược V “Đoàn kết và
hành động vì công bằng và
phát triển” của Action Aid
Việt Nam

Phát triển doanh nghiệp và 2/2013 – 9/2013
thách thức đối với tăng
trưởng - khảo sát doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
Nam
Đánh giá Quy trình thực 7/2012 – 9/2012
hiện Sáng kiến Truyền
thông Lồng ghép Thay đổi
Hành vi (IBCC)
Khảo sát đánh giá thực 9/2011 – 2/2012
trạng tham nhũng trong khu
6

Địa điểm thực
hiện
Quảng Bình

Bến Tre

Đối tác
Ban điều phối
dự án SRDP
Quảng Bình

Keystone
Accountability

Thái Bình, Nam World
Bank/
Định, Hải Dương, Trung tâm Quốc
Ninh Bình
gia Nước sạch
và Vệ sinh Môi
trường
Nông
thôn
Hà Giang, Cao Action Aid Việt
Bằng, Lai Châu, Nam
Hòa Bình, Hà
Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh, Đăk
Lăk, Đăk Nông,
Lâm Đồng, Ninh
Bình, TP. Hồ Chí
Minh, Trà Vinh,
Sóc Trăng, Vĩnh
Long
Hà Nội, Bắc Ngân hàng Phát
Ninh, Đồng Nai, triển Châu Á
Bình Dương, TP. (ADB)
Hồ Chí Minh
Ninh Thuận và UNICEF
Điện Biên
Việt Nam


VCCI
(Phòng
Thương mại và


vực doanh nghiệp Việt Nam

Công
nghiệp
Việt Nam)

1.2 Quá trình hoạt động của bản thân tại Trung tâm nghiên cứu chính sách và
phát triển DEPOCEN:
Trong vòng hai tháng thực tập ở trung tâm, trên cương vị là thực tập sinh, em đã rất
may mắn khi được các anh chị ở trung tâm tạo điều kiện học hỏi và làm việc, được
chạy dự án cùng các anh chị và được giao những công việc mang tính chất hỗ trợ các
anh chị trong quá trình thực hiện dự án. Công việc cụ thể mà em được giao tại trung
tâm nghiên cứu chính sách phát triển DEPOCEN như sau:

Dự án
Survey of
Master
Training
Programs for
Vietnam Japa
University

-


-

-

Tertiary
Education
Transparency
Study
Khảo sát mức

-

Công việc cụ thể
Phát bảng hỏi tại các trường đại học lớn trên địa
bàn Hà Nội: trường đại học Dược và trường đại
học Ngoại Thương.
Gọi điện cho các nhà tuyển dụng và doanh nghiệp
Nhật Bản để lấy ý kiến về cuộc khảo sát và đề
nghị gửi bảng hỏi online cho họ
Gọi điện đặt lịch phỏng vấn cho các chuyên gia
đầu ngành để xin phép xếp lịch phỏng vấn sâu
Nhập dữ liệu sau khi thu thập được bảng hỏi giấy
và bảng hỏi online
Sử lý số liệu thô (làm label tiếng anh cho biến,
label value, label var…)
Dịch báo cáo của các anh chị trong trung tâm (từ
tiếng việt sang tiếng anh và từ tiếng anh sang tiếng
việt)
Gỡ băng phỏng vấn các trường đại học trong kế
hoạch thực hiện 3 công khai.

Dịch báo cáo 3 công khai từ tiếng việt sang tiếng
anh
Sử lý số liệu, xuất số liệu và vẽ đồ thị báo cáo
7

Thời gian
24/6 – 7/7

4/7 – 17/7
18/7 – 19/7
19/7 – 23/7
23/7 – 25/7


độ tham gia
hội nhập kinh
tế ASEAN của
doanh nghiệp
vừa và nhỏ

marketing

PHẦN 2: SỬ DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG NGHIÊN
CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN ĐẾN MỨC
LƯƠNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DỰA TRÊN BÁO CÁO VỀ
CHUYỂN TIẾP GIỮA TRƯỜNG HỌC ĐẾN VIỆC LÀM NĂM
2013 TẠI VIỆT NAM
2.1 Tổng quan:
2.1.1 Giới thiệu chung:
Việt Nam đang trải qua thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, vì thế mà lao động trẻ,

đặc biệt là lao động ở độ tuổi 15 – 29 trở thành mối quan tâm hàng đầu của xã hội.
Ngày nay, theo sự phát triển của xã hội, lao động trẻ có điều kiện tiếp xúc với giáo dục
nhiều hơn, họ không còn phải bỏ học sớm để kiếm việc làm như bố mẹ của họ trước
đây. Tuy nhiên, điều đó lại đặt ra thách thức không nhỏ đối với lao động trẻ, vì nhu cầu
lao động trẻ có trình độ cao ngày càng tăng trong khi trình độ học vấn của lao động trẻ
Việt Nam lại chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp nước ngoài.
Mặt khác, lao động trẻ hiện nay có hoàn cảnh sống, điều kiện khác biệt rất nhiều
so với thời kỳ bố mẹ của họ, ví dụ như: kinh tế phát triển, sự phát triển ngày càng
mạnh của khoa học công nghệ, hội nhập thế giới, điều kiện gia đình…. Vì thế để định
hướng cho các lao động trẻ, chúng ta cần phải biết những yếu tố nào là quan trọng và
quyết định đến mức lương của lao động trẻ. Trong bài nghiên cứu này, em tập trung
giải quyết câu hỏi:” liệu trình độ học vấn có phải là yếu tố quan trọng quyết định đến
mức lương của lao động trẻ hay không” và “liệu các yếu tố mang tính cá nhân (nơi

8


sống, giới tính, tình trạng hôn nhân…) có ảnh hưởng đến mức lương của lao động trẻ
hay không”.
Bài nghiên cứu được chia làm ba phần. Ở phần đầu tiên, em sẽ rà soát lại các
công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh tế học trong và ngoài nước để chỉ rõ
mối quan hệ giữa mức lương và trình độ học vấn của các nước phát triển trên thế giới,
đồng thời khẳng định lại giả thuyết đặt ra cho bài nghiên cứu “mức lương càng cao khi
trình độ học vấn càng cao” là hoàn toàn có cơ sở.
Phần hai, bài nghiên cứu sẽ tập trung tổng quan lại tình hình thực tế về các đặc
điểm của lao động trẻ Việt Nam thông qua bộ số liệu STWT (School to Work
Transitions) vào năm 2013 tại Việt Nam. Em tập trung vào việc đưa ra những con số
cụ thể được làm sạch từ bộ số liệu để so sánh mức độ ảnh hưởng của những đặc điểm
thuộc cá nhân người lao động đến mức lương trung bình. Đây cũng là nền tảng để em

đưa ra được cơ sở sử dụng các biến dữ liệu trong phần chạy mô hình kinh tế lượng.
Phần ba, bài nghiên cứu sẽ đưa ra kết quả chạy mô hình kinh tế lượng và một số
kết luận về câu hỏi nghiên cứu được nêu trên.
2.1.2

Tổng quan về tài liệu nghiên cứu:
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng

hàng đầu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Việt Nam cũng rất quan tâm đến
vấn đề phát triển con người, đặc biệt là phát triển kỹ năng và nâng cao trình độ của
người lao động. Rất nhiều nghiên cứu trước đây cũng các nhà kinh tế học trên thế giới
cũng cho rằng, trình độ học vấn quyết định đến mức lương mà người lao động nhận
được, tất nhiên điều này có thể đúng, có thể sai trong nhiều trường hợp.
Những năm 1980 ở những nước phát triển trên thế giới, có rất nhiều nhà kinh tế
học quan sát các yếu tố ảnh hưởng đến mức lương mà người lao động nhận được,
nhiều cuộc khảo sát được thực hiện ở người lao động có độ tuổi dao động từ 15 đến 29,
nhiều công trình nghiên cứu và giả thuyết được đặt ra. Điển hình cho nghiên cứu về
vấn đề này là công trình nghiên cứu của nhóm nhà kinh tế học Kevin Murphy và Finis
Welch vào 5/1989 mang tên “Wage premiums for College Graduates recent and
9


possible explanations”. Bài nghiên cứu đã mô tả những thay đổi về ảnh hưởng của
những lao động có (và không có) bằng đại học đến mức lương trong vòng 25 năm và
thảo luận mối quan hệ đó trong sự xuất hiện của lực lượng lao động thuộc thời kỳ
baby-boom. Tác giả đã sử dụng đến 24 cuộc khảo sát với 1.679.037 cá nhân từ năm
1964 đến năm 1987. Kết quả là, Murphy và Welch chỉ ra rằng có một sự khác biệt về
mức lương giữa những lao động có trình độ đại học và những lao động có trình độ
THPT tăng từ năm 1963 đến năm 1971 (mức tăng trung bình lên đến 61%). Tuy nhiên
vào năm 1971 đến năm 1979 thì tác động này lại giảm xuống. Nguyên nhân là do thời

kỳ bùng nổ lao động thuộc thời kỳ baby-boom khiến cho cung nhiều hơn cầu, đặc biệt
trong giai đoạn năm 1980, mặt khác, đây là thời kỳ công nghệ có sự phát triển vượt
bậc, vì thế mà tác động này có ít nhiều ảnh hưởng.
Gần hơn so với chúng ta một chút, vào 5/1997, nhóm tác giả Richard Blundell,
Lorraine Dearden, Alissa Goodman, Howard Reed với công trình nghiên cứu
“Higher education, employment and earnings in Britain”. Hướng đi của nghiên cứu
này là kiểm định ảnh hưởng của giáo dục sau đại học đến tương lai của người lao động
(không chỉ là mức lương họ sẽ nhận được mà còn là việc lao động có tìm được việc
làm thích hợp hay không). Nhóm tác giả đặc biệt quan tâm đến những người đã tốt
nghiệp (hoặc chưa tốt nghiệp sau đại học) ở độ tuổi 33, họ sinh vào năm 1958 thuộc bộ
số liệu NCDS. Câu hỏi nghiên cứu của nhóm tác giả này là những yếu tố quyết định
đến việc người lao động có tiếp tục theo học sau đại học hay không và ảnh hưởng của
các loại bằng sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ…) đến mức lương thực tế của người lao động.
Kết quả cho thấy, hoàn cảnh gia đình chính là một yếu tố quan trọng nhất quyết định
đến con đường học vấn của người lao động. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
những lao động đã có bằng sau đại học nhận được mức lương thực cao hơn so với
những lao động không có bằng sau đại học hoặc đang học trình độ sau đại học. Sự khác
biệt này còn thể hiện rõ ràng giữa nam và nữ. Tuy nhiên nghiên cứu không chỉ ra được
nguyên nhân tại sao mức độ ảnh hưởng này lại khác biệt giữa nam và nữ, và cũng
không giải thích được vì sao khi ước lượng tác động này với mức lương theo giờ và
10


theo tuần thì lại có sự khác biệt đáng kể. Một điểm thú vị nữa là, nhóm tác giả cũng chỉ
ra rằng, sự ảnh hưởng của việc cá nhân không hoàn thành trình độ sau đại học sẽ làm
cho lao động nam có mức lương thấp hơn, nhưng điều này lại không xuất hiện đối với
đối tượng là nữ. Mặt khác, nam bắt đầu quá trình học sau đại học ở độ tuổi 21 trở đi sẽ
có mức lương thấp hơn những người bắt đầu việc học này trước tuổi 21 nếu như các
yếu tố khác là không đổi.
Đó là những tác phẩm thuộc những năm 1980-1990, còn vào thời kì năm 2000,

Francesco Pastore cho ra mắt tác phẩm “School-to-work Transition in Mongolia”
năm 2009. Tiếp nối kết quả của những nhà nghiên cứu trước, bài viết còn cho biết thêm
vì sao giáo dục trung học và đại học lại kém phát triển bằng việc chỉ ra rằng cung về
giáo dục ít hơn nhiều so với cầu về giáo dục. Mục đích chính của nghiên cứu vẫn là
ước lượng sự ảnh hưởng của giáo dục giới trẻ đến tích lũy về nguồn nhân lực và phân
phối nguồn thu nhập ở Mongolia. Tác giả sử dụng bộ số liệu SWTS (School-to-Work
Transitions), khảo sát người trẻ tuổi độ tuổi 15 – 29 vào năm 2006 được thực hiện bởi
NSO (National Satistical Office of Mongolia) và ILO (the International Labour
Office’s). Sử dụng phương pháp ước lượng OLS để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến
thu nhập, với mức lương được tính theo tháng, tập trung vào những biến liên quan đến
đặc tính đặc trưng của người lao động (độ tuổi, giới tính, khu vực sống, tình trạng hôn
nhân….) và tất nhiên là trình độ giáo dục của họ. Kết quả nghiên cứu cho thấy bằng
cấp là một trong yếu tố quyết định đến mức lương, người lao động gặp nhiều khó khăn
trong việc tìm việc làm với bằng cấp thấp mặc dù có thể họ có một kỹ năng tốt hơn so
với những lao động khác. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, phụ nữ có ít cơ hội
hơn trong thị trường lao động, mặc dù có trình độ học vấn cao hơn nam giới. Tuy nhiên
nam giới khi mất việc lại mất một khoảng thời gian dài hơn để tìm được công việc mới
với mức lương thậm chí còn thấp hơn so với công việc cũ.
Ở Việt Nam, không phải không có nghiên cứu về vấn đề này. Nhóm tác giả
Dang Nguyen Anh, Le Bach Duong, Nguyen Hai Van với tác phẩm “ Youth
employment in Vietnam: Charateristics, determinants and policy responses” vào
11


9/2005 đã tìm hiểu về quy luật “higher education, higher wage” ở Việt Nam. Nhóm
nghiên cứu đã thu thập các bằng chứng thực nghiệm về các đặc điểm và yếu tố quyết
định đến lao động trẻ ở những nước đang phát triển, và dựa trên cơ sở bằng chứng thực
nghiệm này, đưa ra những chính sách phù hợp với bối cảnh đất nước đang phát triển
như Việt Nam. Bài viết sử dụng bộ số liệu VLSS (Vietnam Living Standard Surveys)
vào năm 1990s, bộ số liệu VHLSS (Vietnam Household Living Standard Survey) vào

năm 2002 và bộ số liệu SAVY (Survey Assessment for Vietnamese Youth) vào năm
2003 và sử dụng mô hình logit để nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ
học vấn là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả đầu ra của lao
động trẻ, trình độ lao động càng cao thì lao động càng có khả năng tìm được công việc
thích hợp với mức lương cao hơn. Tuy nhiên nền tảng gia đình cũng ảnh hưởng nhiều
đến xác suất người trẻ tuổi có việc làm và nhận được công việc tốt, ví dụ như trình độ
học vấn của bố, dân tộc, nơi sống (đô thị/ nông thôn), nghề nghiệp bố, tình trạng kinh
tế gia đình…
Mặc dù không phải nghiên cứu nào cũng đưa ra kết quả khẳng định 100% về
mức độ ảnh hưởng của trình độ lao động đến tiền lương, tuy nhiên các nghiên cứu đều
nhận thấy được mức độ quan trọng của trình độ học vấn của người lao động. Chính vì
thế, mục đích chính của bài nghiên cứu này là kiểm định lại ảnh hưởng này ở Việt Nam
hiện nay, đồng thời chỉ ra được sự khác biệt về tác động này giữa ba mức tuổi 15 – 19,
20 – 24 và 25 – 29 bằng việc sử dụng phương pháp OLS với các yếu tố căn bản như
mức lương tính theo tháng và các đặc điểm của cá nhân người lao động.
2.1.3

Mô tả số liệu và phương pháp nghiên cứu:
Bộ số liệu được sử dụng trong bài nghiên cứu là bộ số liệu từ cuộc điều tra “

Chuyển tiếp từ trường học đến việc làm Việt Nam” do Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) và Tổng cục Thống kê thực hiện vào năm 2013. Bộ số liệu được khảo sát trên
2722 đối tượng có độ tuổi từ 15 đến 29 trên toàn quốc.
Để sử dụng bộ số liệu này, em chia 2722 đối tượng thành ba nhóm tuổi 15 – 19,
20 – 24 và 25 – 29. Lý do khi chia bộ số liệu thành ba nhóm tuổi là do, độ tuổi từ 15 –
12


19 là độ tuổi mà quá trình chuyển tiếp từ trường học đến việc làm chưa thực sự xảy ra,
lao động ở độ tuổi này có trình độ học vấn chưa cao do còn đang tham gia vào quá

trình đào tạo, độ tuổi 20 – 24 là độ tuổi mà quá trình chuyển tiếp này xảy ra mạnh mẽ
nhất, lao động ở độ tuổi này cũng có quyền tự quyết định đến việc có tiếp tục đi học
cao hơn không hay dừng việc học và tham gia hoàn toàn vào lực lượng lao động, độ
tuổi cuối cùng 25 – 29 là khi quá trình chuyển tiếp này đã diễn ra hoàn toàn, lao động
độ tuổi này thể hiện mức độ ảnh hưởng giữa giáo dục và tiền lương là mạnh mẽ nhất.
Trong phần báo cáo về đặc điểm của lao động Việt Nam năm 2013, em sử dụng tổng
cộng 2722 đối tượng tham gia (bao gồm cả những lao động có việc làm và đang thất
nghiệp). Tuy nhiên, đến phần sử dụng số liệu để ước lượng tác động ảnh hưởng, em chỉ
sử dụng những đối tượng lao động đã có việc làm và có lương từ việc làm hiện tại. Bộ
số liệu lúc này thu gọn còn 896 quan sát, trong đó có 129 quan sát có độ tuổi 15 – 19,
317 quan sát có độ tuổi 20 – 24 và 450 quan sát có độ tuổi từ 25 – 29. Trong đó, em
cũng tập trung đến các đặc điểm: mức lương tính theo giờ, nơi sống (nông thôn/ thành
thị), giới tính, tình trạng hôn nhân, loại hợp đồng, và trình độ học vấn (được chia làm 8
cấp độ: không bằng cấp, tiểu học, THCS, THPT, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học và sau đại học. Bài nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp ước lượng OLS để
đánh giá tác động với biến phụ thuộc là mức lương được tính theo tháng và biến giải
thích là các đặc điểm được nêu ở trên.
2.2 Phân tích về các yếu tố ảnh hưởng đến mức lương người lao động:
2.2.1 Báo cáo về tình trạng lao động ở Việt Nam theo khảo sát năm 2013
Kết quả cuộc khảo sát về tình trạng lao động được tính toán thể hiện đồ thị sau:

13


Đồ thị 1: Tình trạng lao động qua khảo sát về chuyển dịch giữa trường học đến
việc làm năm 2013
Trong số 2722 đối tượng được khảo sát từ độ tuổi 15 đến 29, có đến 37.33% số
người được hỏi đang trong tình trạng thất nghiệp, không có việc làm; 38.46% người
được hỏi đang làm thuê cho các công ty/ doanh nghiệp/ tổ chức (giảng viên, kỹ sư, kế
toán, bảo vệ, nhân viên văn phòng…) hoặc chỉ đơn thuần là làm việc thuê cho các công

trình nhỏ (thợ hồ, thợ xây dựng…) hay lao động chân tay làm việc cho các quán hàng
ăn. Khoảng 41.64% số lao động làm thuê làm việc trên cơ sở thỏa thuận miệng, không
có văn bản hay hợp đồng, vì thế mà công việc của họ không đảm bảo được quyền lợi
tối thiểu cho người lao động.
Có khoảng 8.23% người được hỏi là lao động tự làm, 0.77% chủ lao động; số
lượng người thuộc nhóm lao động tự làm có độ tuổi dao động từ 16 đến 29; trong đó có
17.41% lao động tự làm có độ tuổi là 29. Tuy nhiên, đối với đối tượng lao động thuộc
nhóm chủ lao động (thuê một hoặc nhiều lao động) thì độ tuổi dao động từ khoảng 20
đến 28 tuổi, trong đó có đến 33.33% người được khảo sát là chủ lao động có tuổi là 28.
Ngoài ra, 14.88% đối tượng được hỏi là giúp việc không lương trong các gia
đình hoặc trang trại, tuy họ không được trả công, nhưng họ cũng vẫn được xếp vào
nhóm người lao động và có việc làm. Lý do cho việc họ làm việc cho các cơ sở kinh
doanh gia đình mà không có lương bao gồm (i) không thể tìm được việc làm có lương
hoặc tiền công 19.06% (ii) do gia đình yêu cầu 65.59% (iii) học kinh doanh gia đình
7.18%.
Một trong những yếu tố mà lao động phải đi làm không lương là do độ tuổi của
những đối tượng làm việc không lương trong các gia đình hoặc trang trại này dao động
từ 15 đến 24. Tuy nhiên có đến 48.89% trong số đó dưới 20 tuổi, đây là độ tuổi đang
đi học, chưa thực sự có quyền quyết định trong vấn đề việc làm và còn phụ thuộc kinh
tế nhiều từ phía gia đình.
14


Một điểm sáng là, khi khảo sát về mức độ cảm nhận của người lao động về trình độ
giáo dục/ đào tạo có đang phù hợp với công việc hiện tại hay không, thì có khoảng
69.83% cho rằng trình độ giáo dục của họ đang phù hợp với công việc hiện tại, có
khoảng 13.71% cho rằng họ đang làm công việc quá thấp so với trình độ học vấn của
họ và có khoảng 12.60% cho rằng họ đang thiết hụt kiến thức và cần phải đào tạo thêm
về kỹ năng cho công việc hiện tại. Còn khi được hỏi về mức độ hài lòng đối với công
việc hiện tại, 10.54% người được hỏi rất hài lòng với công việc trên (chủ yếu rơi vào

độ tuổi từ 25 trở lên), 71.23% người học hỏi chỉ hài lòng với công việc đang làm,
17.23% người được hỏi không hài lòng thậm chí rất không hài lòng với công việc đang
làm.
Tỷ lệ thất nghiệp và có việc làm theo từng độ tuổi:
2.2.2.1 Độ tuổi từ 15 đến 19:
Đối với độ tuổi từ 15 đến 19 là độ tuổi đang đi học cấp 3 và vừa bước vào đại
2.2.2

học/cao đẳng, kinh tế vẫn còn phụ thuộc nhiều vào gia đình, vì thế mà tỷ lệ không có
việc làm ở độ tuổi này là khá cao.

15


Đồ thị 2: Tình trạng lao động ở độ tuổi 15 -19 theo khảo sát chuyển tiếp từ trường
học đến việc làm ở Việt Nam năm 2013
Có đến 62.58% lao động ở độ tuổi trên không có việc làm (thậm chí là những
công việc không yêu cầu bằng cấp như gia sư, thợ hồ, phục vụ bàn tại quán ăn hoặc
quán café…), 17.98% số lao động giúp việc không lương cho các gia đình và trang trại
theo yêu cầu từ phía gia đình và chỉ có khoảng 19.02% số lao động được làm những
công việc trả lương. Tuy nhiên, mức lương trung bình ở độ tuổi này cũng thấp hơn so
với độ tuổi trên 20, vào khoảng 2.5 triệu một tháng. Trên thực tế, mức lương tại độ tuổi
dưới 20 tuổi như vậy là khá cao. Vì đối với những lao động chưa có bằng cấp cao
(bằng cao nhất là bằng cấp trung học phổ thông) thì cơ hội tìm việc để có được một
công việc với mức lương cao là rất khó.
Tuy nhiên lao động được khảo sát trong nhóm tuổi này có tình trạng học tập
hiện tại không khả quan, chỉ có 4.65% vẫn còn đi học hoặc tham gia các chương trình
đào tạo, 44.96% đã hoàn thành việc học (bằng cấp cao nhất là trung học cơ sở
(43.10%) và trung học phổ thông (27.59%)) và 50.39% bỏ học trước khi tốt nghiệp
16



(bằng cấp cao nhất là tiểu học (47.69%) và trung học cơ sở (43.08%)). Như vậy có thể
thấy, mặc dù độ tuổi từ 15 – 19 là độ tuổi đang đi học và chuyển bị những bước đầu
cho việc chuyển tiếp giữa trường học và việc làm, nhưng việc học vẫn chưa được coi
trọng và quan tâm, chính vì thế rất có thể khiến cho lao động trẻ nay khi bước vào giai
đoạn chuyển tiếp thực sự không có đủ kỹ năng và trình độ cần thiết cho công việc.
2.2.2.2 Độ tuổi từ 20 đến 24:

Đây là độ tuổi có sự chuyển giao giữa trường học và việc làm mạnh mẽ nhất.
Lao động trẻ ở độ tuổi này đã qua trưởng thành (qua tuổi 18) và có thể tự quyết định
con đường sự nghiệp cũng như công việc cho bản thân.
Đồ thị 3: Tình trạng
lao động ở độ tuổi 20
-24 theo khảo sát
chuyển tiếp từ trường
học đến việc làm ở
Việt Nam năm 2013

Theo như số liệu quan sát được,tỷ lệ thất nghiệp ở độ tuổi này đã giảm đáng kể
(34.55% chỉ bằng gần một nửa so với độ tuổi 15-19). Tỷ lệ người làm thuê ở độ tuổi
này cũng cao hơn so với độ tuổi dưới 20 (42.3%). Tỷ lệ chủ lao động/ lao động tự làm
ở độ tuổi này cao hơn so với độ tuổi trước (0.57% và 6.48%).
Mức lương trung bình trong độ tuổi này cũng cao hơn so với độ tuổi dưới 20, rơi vào
khoảng 3.014 triệu đồng. Về tình trạng học tập hiện tại, có khoảng 64.35% trả lời rằng
đã hoàn thành xong việc học (bằng cấp cao nhất là đại học (12.75%) và cao đẳng
(14.71%), tuy nhiên tỷ lệ lao động chỉ tốt nghiệp trung học phổ thông lại chiếm đa số
(41.18%)). Mặt khác, tỷ lệ lao động bỏ học trước khi tốt nghiệp cũng khá cao (27.13%)
17



trong số đó hầu hết chỉ có bằng cao nhất là tiểu học (43.02%) và trung học cơ sở
(44.19%). Tỷ lệ bỏ học trước khi tốt nghiệp này ở vùng nông thôn (31.65%) cao hơn so
với thành thị (22.64%).
2.2.2.3 Độ tuổi 25 đến 29

Đồ thị 4: Tình trạng lao động ở độ tuổi 25 -29 theo khảo sát chuyển tiếp từ trường
học đến việc làm ở Việt Nam năm 2013
Đây là độ tuổi về cơ bản đã hoàn thành xong quá trình chuyển tiếp từ trường
học đến việc làm. Lao động đã dần ổn định sự nghiệp và tìm kiếm một công việc ổn
định cho bản thân. Kết quả nghiên cứu trên 883 người ở độ tuổi từ 25 đến 29 cho thấy.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thời kỳ này giảm xuống còn có 12.6%, tỷ lệ người làm thuê tăng
lên khá nhiều (57.9%) và tỷ lệ chủ lao động/ lao động tự làm cũng tăng lên so với độ
tuổi trước đó (1.81% và 16.5%). Mức lương trung bình của lao động ở độ tuổi này
cũng cao hơn, rơi vào khoảng 3.8 triệu. Trên thực tế, lao động ở độ tuổi này qua một
thời gian làm việc đã có nhiều kinh nghiệm làm việc hơn và có thể có cơ hội nhiều hơn
trong con đường thăng tiến sự nghiệp.

18


Khi điều tra về mức độ hài lòng với công việc, thì có đến 77.16% số người được
khảo sát trả lời rằng họ hài lòng với công việc hiện tại, và chỉ có khoảng 8.87% là
không hài lòng. Mặt khác ở độ tuổi này, hầu hết lao động đều làm việc trên cơ sở hợp
đồng văn bản (74.72%) với thời gian thực hiện hợp đồng lao động là khá dài, điều này
cũng giải thích cho việc mức lương của người lao động ở độ tuổi này là cao hơn người
lao động dưới 24 tuổi.
Mặt khác, khi được hỏi về cảm nhận mức độ phù hợp trình độ giáo dục/ đào tạo
với công việc của người lao động, thì có đến 82.71% trả lời rằng họ thấy trình độ học
vấn hiện tại là phù hợp với công việc của họ đang làm. chỉ có khoảng 17.07% nhận

thấy trình độ học vấn hiện tại đang cao hơn hoặc thấp hơn so với công việc họ đang
làm. Như vậy có thể nhận thấy, lao động ở độ tuổi này đã có khoảng thời gian trải
nghiệm cũng như va chạm với công việc thực tế, vì thế họ có xu hướng ổn định trong
công việc nhiều hơn so với hai nhóm độ tuổi trước đó.
Qua kết quả khảo sát trên, ta nhận thấy, độ tuổi cũng là một trong các yếu tố
quan trọng quyết định đến mức lương của người lao động, độ tuổi càng cao mức lương
trung bình càng cao. Chính vì thế, hoàn toàn có cơ sở khi đưa biến tuổi là một trong
những biến giải thích cho biến lương của người lao động.

Trình độ học vấn và mức lương trung bình ứng với từng trình độ học vấn:
2.2.3.1 Trình độ học vấn của lao động:
Một thực trạng của lao động Việt Nam đó là trình độ giáo dục/ đào tạo của lao động
2.2.3

Việt Nam chưa cao, đây là một trong những yếu tố làm cho lao động Việt Nam giảm đi
cơ hội được làm việc trong các cơ quan/ doanh nghiệp hoặc tổ chức lớn. Nghiên cứu về
chuyển tiếp giữa trường học và việc làm năm 2013 cũng cho thấy:
-

Tỷ lệ lao động không bằng cấp đạt 5.36%
Tỷ lệ lao động có bằng tiểu học là 18.3%
Tỷ lệ lao động có bằng THCS là 25.18%
Tỷ lệ lao động có bằng THPT là 26.27%
Tỷ lệ lao động có bằng trung học chuyên nghiệp là 6.8%
19


-

Tỷ lệ lao động có bằng cao đẳng là 5.71%

Tỷ lệ lao động có bằng đại học là 11.65%
Tỷ lệ lao động có bằng đại học là 0.47%
-

Đồ thị 5: Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn khác nhau tình toán từ khảo sát
chuyển tiếp giữa trường học đến việc làm năm 2013 tại Việt Nam
Như vậy có thể thấy tỷ lệ lao động có trình độ đại học/ cao đẳng là khá thấp.
Thậm chí tỷ lệ này ở các khu vực nông thôn còn thấp hơn khá nhiều so với khu vực
thành thị.

20


Đồ thị 6: Trình độ học vấn giữa thành thị và nông thôn của lao động khảo sát
chuyển tiếp từ trường học đến việc làm năm 2013
Tỷ lệ lao động có bằng cấp thấp như tiểu học, bằng THCS hay thậm chí là
không có bằng cấp ở nông thôn cao hơn so với thành thị. Tuy nhiên, đối với tỷ lệ
những lao động có bằng cấp cao hơn (trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau
đại học…) ở thành thị lại cao hơn, thậm chí là cao hơn khá nhiều ở bằng cao đẳng và
đại học. Cụ thể là trong khi tỷ lệ lao động có bằng đại học ở thành thị là 19.35% thì ở
nông thôn chỉ là 3.98%; tỷ lệ lao động có bằng cao đẳng ở nông thôn là 3.88% trong
khi ở thành thị là 6.59%. Thực tế cho thấy, ở các vùng nông thôn Việt Nam, trẻ em ít
được tiếp cận với giáo dục hơn trẻ em ở thành thị, nhiều gia đình vì hoàn cảnh kinh tế
khó khăn mà chấp nhận cho con ở nhà lao động, dù độ tuổi của các em vẫn rất nhỏ. Vì
thế, có rất nhiều lao động dù mới ở độ tuổi 15 đến 19 nhưng sau khi tốt nghiệp trung
học cơ sở đã ở nhà và lao động (làm nông hoặc làm thuê cho các nhà máy, xí nghiệp,
nhà hàng ăn….)

21



2.2.3.2 Mức lương trung bình ứng với từng trình độ học vấn

Qua khảo sát những người có việc làm và được trả lương, ta có thể tính toán giá
trị mức lương trung bình ứng với từng độ tuổi khác nhau. Kết quả được thể hiện trong
bảng dưới đây:
Trình độ học vấn

Mức lương trung bình
(VND đồng)
Không bằng cấp
2.775.551
Tiểu học
3.121.971
THCS
3.567.470
THPT
3.404.337
Trung học chuyên nghiệp
3.779.286
Cao đẳng
3.243.696
Đại học
6.176.895
Sau đại học
4.700.500
Bảng 1: Mức lương trung bình ứng với từng trình độ học vấn khác nhau
Thống kê từ bảng 1 cho thấy trình độ học vấn càng cao thì mức lương trung
bình cũng cao lên. Nếu như ở những lao động có trình độ học vấn thấp (chỉ tốt nghiệp
THCS hoặc tiểu học, và thậm chí là không có bẳng cấp) thì mức lương trung bình chỉ

rơi vào khoảng 3 triệu đồng một tháng. Với trình độ đại học, mức lương có thể lên đến
6 triệu đồng một tháng, có sự khác biệt đáng kể với trình độ trước đó. Tuy nhiên, khảo
sát một số lao động có trình độ sau đại học thì mức lương trung bình của họ chỉ ở mức
4.7 triệu đồng một tháng, tức là có phần thấp hơn so với những lao động có trình độ đại
học.
Tuy rằng chưa thể đưa ra kết luận ngay về mối quan hệ giữa mức lương trung
bình và trình độ học vấn là mối quan hệ cùng chiều, cần phải kiểm định thêm. Nhưng
bước đầu ta có thể kỳ vọng vào kết quả chạy mô hình rằng, với trình độ học vấn càng
cao thì mức lương trung bình sẽ càng cao.
Một số yếu tố khác:
2.2.4.1 Giới tính:
Căn cứ theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luật bình
2.2.4

đẳng giới được ban hành năm 1992 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10. Theo
22


đó thì nam và nữ đều có quyền bình đẳng trong cả phương diện xã hội và gia đình. Tuy
nhiên, theo kết quả khảo sát với 1338 đối tượng nam và 1384 đối tượng nữ, thì tỷ lệ
thất nghiệp ở nam giới vẫn thấp hơn so với nữ giới, mặc dù sự chênh lệch này không
quá lớn ( 32.74% đối với nam và 41.76% đối với nữ).
Đồ thị 7: Tỷ lệ thất nghiệp và có việc làm giữa nam và nữ
Mặt khác, mức lương trung bình mà nữ nhận được cũng thấp hơn so với nam.
Theo khảo sát cho thấy, mức lương trung bình mà lao động nữ nhận được dao động ở
mức 3.2 triệu đồng và mức lương trung bình mà lao động nam nhận được dao động ở
mức 3.4 triệu đồng. Mặc dù sự chênh lệch này không lớn nhưng cũng cho thấy được
mặc dù trong xã hội bình đẳng hiện nay, sự phân biệt giữa nam và nữ không phải là
không có. Như vậy có thể dự đoán rằng, giới tính cũng là một trong những nguyên

nhân ảnh hưởng đến mức lương của người lao động.
2.2.4.2 Tình trạng hôn nhân:

Tình trạng hôn nhân

Giới tính

Mức lương trung bình
(VND đồng)
Nam
3.301.41
Độc thân/ chưa từng kết
hôn
Nữ
3.151.76
Nam
2.150.00
Đính hôn/ ăn hỏi
Nữ
2.900.00
Nam
3.628.35
Kết hôn
Nữ
3.322.59
Nam
5.000.00
Li thân/ li dị
Nữ
2.587.50

Bảng 2: Mức lương trung bình của lao động ứng với tình trạng hôn nhân
Mặc dù bài nghiên cứu không chỉ ra được nguyên do vì sao mức lương trung
bình lại có sự khác biệt ở các tình trạng hôn nhân khác nhau của người lao động. Tuy
nhiên theo như kết quả khảo sát, ta cũng dễ dàng nhận thấy sự khác biệt này, theo đó
người lao động mới chỉ đính hôn sẽ có mức lương thấp nhất đối với cả nam và nữ (chỉ
khoảng 2.1 triệu với nam và 2.9 triệu với nữ) trong khi người lao động kết hôn và có
gia đình lại có mức lương cao hơn (dao động khoảng 3.3 triệu với nữ và 3.6 triệu với
23


nam), nguyên nhân có thể là do khi lao động lập gia đình, họ có xu hương tìm kiếm
công việc có mức thu nhập cao để có thể chăm sóc được gia đình. Một điểm thú vị là,
kết quả khảo sát cho thấy lao động nam li thân/ li dị vợ có mức lương trung bình cao
vượt bậc (khoảng 5 triệu đồng). Sự khác biệt về lương với lao động đã lập gia đình và
chưa từng lập gia đình còn thể hiện rõ hơn khi họ có con cái. Đối với lao động không
có con, mức lương trung bình của họ chỉ vào khoảng 3 triệu, trong khi đó mức lương
trung bình của những lao động đã có con vào khoảng 3.7 triệu.
2.2.5

Nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn đến mức lương:
Bảng 3: Kết quả chạy mô hình kinh tế lượng

Phụ nữ
Tiểu học
Trung học
cơ sở
Trung học
phổ thông
Trung học
chuyên

nghiệp
Cao đẳng
Đại học
Sau đại học
Không có
con
Đính
hôn/ăn hỏi
Kết hôn
Li thân/ li
dị
Sống cố
định tại địa
phương
Hợp đồng
có thời hạn

All
Độ tuổi từ 15-19 Độ tuổi từ 20-24 Độ tuổi từ 25-29
-.08413549** -.17859948**
-.07039884
-.06699013
.10161055
-.2122896
.3272337*
.1296063
.15622546*
-.17089247
.41676642**
.1535465

.
21931121***
.
28855369***

-.11243891

.49074073***

.20437681*

-

.43865498**

.3316174***

.24976226**
.
46799105***
.46776321**
-.02869448

-

.50547068**
.60580671***

.28091922**
.49929831***


.72272814

.26710744
-.06301255

.55827471**
.01242753

-.14542376

.03446401

.09698803

-.5660925*

-.07968299
-.10608221

.69553316*
-

-.1478264
-.41878878

-.02450198
.07510714

.05439843


.14791128

.04510962

.03781829

-.02609997

.08031975

-.03281439

24

-.04389049


Tuổi
Nông thôn
_cons

.
03412999***
-.00628472
7.0314804**
*
0.2277
896


.06954136**

.02347049

.03525521**

.07068437
5.8349438***

-.03211191
7.0715578***

.00086525
6.9611408***

R_squared
0.2016
0.1139
0.1936
Number of
129
317
450
obs
legend: * p<0.05; ** p<0.01; *** p<0.001
Ghi chú: Biến lương theo tháng là biến phụ thuộc, các biến nêu trên là biến giải thích
Đối với độ tuổi từ 15 – 19, trình độ học vấn không ảnh hưởng đến mức lương
của người lao động và ở độ tuổi này ta cũng bỏ qua các biến giả là trình độ lao động từ
mức trung học chuyên nghiệp trở lên. Một điểm dễ nhận thấy là, giới tính trong độ tuổi
này có ảnh hưởng đến mức lương của người lao động trong khi ở hai nhóm tuổi còn lại

điều này không xảy ra. Nếu lao động là nữ, mức lương của họ sẽ thấp hơn 17.9% so
với lao động là nam.
Đối với độ tuổi từ 20 – 24, tác động ảnh hưởng của trình độ học vấn đến mức
lương của người lao động thể hiện rõ ràng nhất. Trình độ học vấn càng cao, mức lương
càng cao. So với những lao động không có bằng cấp, lao động có bằng tiểu học có mức
lương cao hơn đến 32.7%, và chênh lệch này ngày càng tăng lên đối với các mức học
vấn tăng dần, cao nhất là bằng đại học (chênh lệch với lao động không có bằng cấp lên
đến 60.9%). Tuy nhiên ở cấp sau đại học thì mức độ ảnh hưởng này lại không có ý
nghĩa, trên thực tế, bộ số liệu được sử dụng trong khoảng độ tuổi từ 20 – 24 chỉ có duy
nhất 1 cá nhân có bằng sau đại học với mức lương không cao (2 triệu đồng 1 tháng) vì
thế mà ta khó có thể khảo sát được mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn đến tiền
lương ở độ tuổi này. Như vậy có thể thấy, ở độ tuổi mà thời kỳ chuyển tiếp giữa trường
học và việc làm diễn ra mạnh mẽ, thì trình độ học vấn là một trong những yếu tố quan
trọng nhất quyết định đến mức lương của người lao động. Điều này có thể được lý giải
là do lao động ở độ tuổi này sau khi tốt nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng,
vì thế trình độ học vấn chính là điểm mà các nhà tuyển dụng đánh giá khi thuê lao
động. Và tất nhiên, với lao động có trình độ học vấn cao hơn thì kỹ năng làm việc của
25


×