Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quá trình xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng ở miền nam từ năm 1954 đến năm 1965 tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.1 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH HÙNG

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1965

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

HÀ NỘI - 2016


Công trình đƣợc hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn Đình Lê
Phản biện 1: GS. TS. Nguyễn Ngọc Cơ
Phản biện 2: PGS. TS. Đoàn Ngọc Hải
Phản biện 3: PGS. TS. Hồ Khang

Luận án đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án tiến sĩ họp tại:
Học viện Khoa học xã hội vào hồi
ngày tháng năm 2016.

Có thể tìm hiểu luận án tại:


Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc 1954 - 1975 là một sự kiện lịch
sử đặc biệt không chỉ của lịch sử hiện đại Việt Nam mà của cả lịch sử thế
giới thế kỷ XX. Một sự kiện mang tầm vóc lớn của thời đại, đƣợc sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu trên toàn thế giới. Trong đó bạo lực vũ trang là
một trong hai chủ thể của sự kiện lịch sử tầm vóc thời đại này.
Nghiên cứu về lịch sử xây dựng và hoạt động của Lực lƣợng vũ trang
cách mạng ở miền Nam (LLVTCMMN) giai đoạn 1954 - 1965 sẽ làm sáng tỏ
hoàn cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau hiệp định Giơnevơ, những
sáng tạo của nhân dân miền Nam trong việc xây dựng và hoạt động vũ trang
để nhằm bảo vệ chính mình, những sáng tạo đó cung cấp cho Đội tiên phong
cách mạng những luận cứ vững chắc để chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc,
thừa nhận và chỉ đạo xây dựng, phát triển và đẩy mạnh hoạt động của
LLVTCMMN. Sáng tỏ quá trình xây dựng và hoạt động của LLVTCMMN
trong giai đoạn có tính chất khởi đầu nền tảng 1954 - 1965, sáng tỏ vai trò
của nó với tiến trình cách mạng nói chung và vai trò quyết định trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc 1954 - 1975.
Nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc cũng gợi mở, đem lại
những luận cứ khoa học giúp xây dựng và củng cố đƣờng lối đối ngoại,
đƣờng lối quốc phòng - an ninh đúng đắn khoa học trong tình hình mới. Do
vậy, yêu cầu về nghiên cứu, tổng kết và đúc rút bài học kinh nghiệm trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nƣớc 1954 -1975 càng trở nên cấp bách. Nhƣng bƣớc khởi đầu của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, quá trình xây dựng và hoạt động của
LLVTCMMN giai đoạn 1954 - 1965 chƣa đƣợc nghiên cứu với tƣ cách làm
một chỉnh thể, một hệ thống liên tục bài bản và toàn diện. Do vậy một công

trình nghiên cứu sâu, toàn diện, hệ thống về LLVTCMƠMN giai đoạn 1954 1965 sẽ góp phần vào việc nhận thức đầy đủ hơn vai trò quyết định của
LLVTCMƠMN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc cũng nhƣ làm
phong phú thêm trong nhận thức về nghệ thuật chiến tranh nhân Việt Nam.
1


Công trình cũng gợi mở những luận điểm có ý nghĩa phƣơng pháp luận trong
hoàn cảnh xây dựng và bảo vệ đất nƣớc hiện nay.
Từ những ý nghĩa trên, chúng tôi chọn: “Quá trình xây dựng và hoạt
động của lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam từ năm 1954 đến
năm 1965” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Tái hiện hệ thống, quy luật, quy mô xây dựng và hoạt động của lực
lƣợng vũ trang cách mạng ở miền Nam từ năm 1954 đến năm 1965.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ yêu cầu tất yếu phải duy trì hoạt động của
LLVTCMMN đối với cách mạng miền Nam.
- Phân tích, luận giải làm sáng tỏ chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng
xây dựng lực lƣợng vũ trang và đấu tranh vũ trang trong những năm 1954 1965. Quá trình xây dựng và hoạt động của LLVTCMMN đánh bại Mỹ VNCH trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1965.
- Đánh giá đặc điểm, vai trò của quá trình xây dựng và hoạt động của
lực lƣợng vũ trang cách mạng ở miền Nam từ năm 1954 đến năm 1965.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Quá trình xây dựng và hoạt động của LLVTCMMN từ năm 1954 đến năm
1965.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Miền Nam, từ Quảng Trị (Nam vỹ tuyến 17) trở vào,
dựa trên cơ sở phân chia theo Hiệp định Giơnevơ.

- Về thời gian: Từ khi Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết (7/1954) đến
tháng 7 - 1965, khi chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, Hoa Kỳ
chính thức thực thi chiến lƣợc “chiến tranh cục bộ”.
- Về nội dung: Luận án khảo cứu toàn diện quá trình xây dựng và hoạt
động của lực lƣợng vũ trang cách mạng ở miền Nam từ năm 1954 đến năm
1965.
2


4. Nguồn tài liệu, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu
Luận án khai thác các tài liệu của Văn kiện Đảng toàn tập và tài liệu của
Xứ ủy, Trung ƣơng Cục, Liên khu ủy khu V; Trung tâm Lƣu trữ Quốc gia II,
Quân khu V,VII,IX và lịch sử quân sự các tỉnh thành phố trực thuộc trung
ƣơng từ Quảng Trị trở vào; Sách, báo, tạp chí, luận văn thạc sỹ lịch sử, luận
án tiến sỹ lịch sử và các nguồn tài liệu khác có liên quan đến đề tài luận
án…từ năm 1954 đến năm 1965.
4.2 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận án đƣợc thực hiện dựa trên những quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; những quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân
dân.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử
dụng phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra, chúng
tôi còn sử dụng một số phƣơng pháp nhƣ phƣơng pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh và phƣơng pháp liên ngành nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của
luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Một là, tái hiện bức tranh tổng thể quá trình xây dựng và hoạt động của
lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1954 đến năm 1965 nhằm

chống lại cuộc chiến tranh xâm lƣợc thực dân kiểu mới của Mỹ và VNCH.
- Hai là, góp phần khẳng định vai trò to lớn của LLVTCMMN trong giai
đoạn bản lề của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc giai đoạn 1954 1965.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án đƣa vị thế của LLVTCMMN trong giai đoạn từ năm 1954 đến
năm 1965 vào vị trí xứng đáng của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Luận án bổ sung tƣ liệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc nhân
dân Việt Nam; đồng thời có thể tham khảo, góp phần vào việc nghiên cứu,
giảng dạy lịch sử; bổ sung vào truyền thống và kinh nghiệm xây dựng và
chiến đấu hơn 70 năm vinh quang của các lực lƣợng vũ trang nhân dân Việt
3


Nam anh hùng. Kết quả cũng gợi mở những vấn đề có ý nghĩa phƣơng pháp
luận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận án gồm có 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chƣơng 2: Lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1954 đến
năm 1960.
Chƣơng 3: Lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam từ năm 1961 đến năm
1965.
Chƣơng 4: Một số nhận xét về lực lƣợng vũ trang cách mạng ở miền
Nam từ năm 1954 đến năm 1965.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Nhóm các công trình nghiên cứu trong nước về cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước nói chung

1.1.1 Nhóm các công trình tổng kết, sách của các nhà lãnh đạo Đảng
Cộng sản, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam
Trƣớc hết phải kể đến một số công trình nghiên cứu về chiến tranh và
chiến tranh cách mạng nhƣ Tuyển tập Luận văn Quân sự, Tập III, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội; Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trƣờng Chinh, Võ Nguyên
Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng, Song Hào (1996)…
Đại tƣớng Văn Tiến Dũng đã viết cuốn Về cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, Nxb Sự thật, Hà Nội ngay trong năm 1976. Đại tƣớng Võ Nguyên
Giáp, ngƣời anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã viết sách Chiến
tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979...
1.1.2 Nhóm các công trình chuyên khảo cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước ở Việt Nam
4


Trần Văn Giàu với cuốn Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 2 và tập 3,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1965 và 1968. Viện lịch sử quân sự, Lịch sử
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975 gồm 9 tập, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội. Trong đó nghiên cứu về giai đoạn kháng chiến chống Mỹ 1954 1965 đƣợc nêu ra trong 03 tập đầu: Tập 1 có nhan đề Nguyên nhân chiến
tranh. Tập 2 với nhan đề Chuyển chiến lược. Tập 3 Đánh thắng chiến tranh
đặc biệt.
Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Lịch sử Nam
Bộ kháng chiến, tập II 1954 - 1975, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2010…
Những công trình đó có cũng đi vào nghiên cứu cụ thể cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân ta 21 năm nói chung, hoặc nghiên cứu cụ
thể một khía cạnh, một lĩnh vực của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc
có liên quan đến LLVT. Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu đó, nhóm tác giả
nghiên cứu này chƣa có công trình chuyên sâu nghiên cứu quá trình xây dựng
và hoạt động của LLVTCMMN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung

và giai đoạn bản lề của cuộc kháng chiến (1954 -1965) với ý nghĩa là một
vấn đề, một phƣơng diện quan trọng nhất của một cuộc chiến tranh toàn diện
chống lại một siêu cƣờng hùng mạnh nhất thế giới thời kỳ bấy giờ.
1.2 Nhóm các công trình chuyên khảo về lực lượng vũ trang nhân
dân nói chung và lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam
1.2.1 Nhóm sách chuyên khảo về lực lượng vũ trang nhân dân và Lực
lượng vũ trang cách mạng miền Nam
Bộ Quốc phòng, Các chuyên đề về chiến tranh nhân dân địa phương
trong bảo vệ tổ quốc, Tài liệu lƣu tại Viện Lịch sử quân sự. Các cuốn Lịch sử
Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994;
Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 của
Viện Lịch sử quân sự.
Hầu hết các quân khu đều đã xuất bản các cuốn sách về lịch sử lực lƣợng
vũ trang nhân dân hay cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Lịch sử Khu VI
(cực Nam Trung Bộ - Nam Tây Nguyên) kháng chiến chống Mỹ 1954-1975,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995 của Quân khu V; Quân khu IX - 30
5


năm kháng chiến (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999 của
Quân khu IX; Khu VIII (Trung Nam Bộ) kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1954-1975, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 do Trần Dƣơng làm chủ
biên; Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu VII (1945-2010), Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2010 của Quân khu VII…
Các Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh tại miền Nam cũng đều xuất bản sách
liên quan tới lịch sử lực lƣợng vũ trang nhân dân hoặc cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc trên địa bàn. Tiêu biểu là Quảng Nam - Đà Nẵng, 30
năm chiến đấu và chiến thắng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988 của Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; Lược sử cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre, 1993 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh

Bến Tre; Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai (1945-1995), Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1999 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai...
1.2.2 Nhóm công trình luận văn, luận án và các bài tạp chí khoa học về
lực lượng vũ trang nhân dân và Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam
Trần Thị Thu Hƣơng, Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá "quốc
sách" ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961-1965), luận
án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000...
Cũng liên quan đến nhóm các công trình chuyên khảo về lực lƣợng vũ
trang cách mạng, đã có hàng trăm bài báo khoa học đăng trên các tạp chí Lịch
sử quân sự, Nghiên cứu lịch sử, Lịch sử Đảng. Tiêu biểu trong số này có
Nguyễn Đình Lê, Vài nét về lực lƣợng vũ trang cách mạng Nam Bộ thời kỳ
1954-1960, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 4 năm 1996; Nguyễn Đình Lê, Nghị
quyết 15 với lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam, Tạp chí Lịch sử quân
sự, số 1 năm 1999; Hồ Khang, Trận đánh báo hiệu, Tạp chí Lịch sử quân sự,
số 1 năm 2003; Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3 năm 2003; Tạp chí Lịch sử
quân sự, số 12 năm 2005; Nguyễn Đình Lê, Lực lƣợng vũ trang cách mạng
miền Nam trong tiến trình chuyển hƣớng chỉ đạo cách mạng của Đảng ở thời
điểm bản lề lịch sử, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1 năm 2010…
Thành quả của các công trình nghiên cứu đó về LLVTCMMN là rất lớn,
có thể trong một lĩnh vực cụ thể của xây dựng hoặc hoạt động của
6


LLVTCMMN, hoặc khái quát nó trong một khoảng thời gian nhất định gắn
với những sự kiện lịch sử nổi bật, những trận đánh, những chiến dịch có ý
nghĩa chiến lƣợc. Quy mô, phạm vi nghiên cứu có thể khái quát một giai
đoạn nhỏ, một thời điểm bƣớc ngoặt của lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu
nƣớc trong giai đoạn 1954-1965 hoặc một lĩnh vực cụ thể có liên quan đến
xây dựng và hoạt động của LLVTCMMN trong giai đoạn này.

Những thành quả nghiên cứu của các tác giả và công trình nghiên cứu
chuyên khảo trên sẽ là những tƣ liệu quý báu, là cơ sở để tác giả tập hợp, kế
thừa, vận dụng để triển khai trong quá trình xây dựng và hoàn thiện luận
án…
1.3 Nhóm các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài và
của chính quyền Sài Gòn
William Westmoreland - ngƣời trực tiếp chỉ huy quân đội Mỹ ở miền
Nam Việt Nam viết cuốn Tường trình của một quân nhân, Nxb Trẻ Thành
phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1988. Năm 1995, Robert Strange
McNamara, nguyên Bộ trƣởng quốc phòng Mỹ, ngƣời đã tham gia hoạch
định chính sách về Việt Nam dƣới 2 đời tổng thống Kennedy và Johnson
hoàn thành cuốn hồi ký Nhìn lại quá khứ, tấm thảm kịch và những bài học
kinh nghiệm về Việt Nam, Nxb Random House, 1995…
Do quan điểm lập trƣờng giai cấp tƣ sản, xuất phát điểm từ phía bên kia
những học giả đã cố gắng đề cập đến cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam
tiệm cận một cách khách quan nhất. Nhƣng cách nhìn nhận đánh giá về cuộc
chiến tranh có khác nhau, chƣa thật sự khách quan, không phù hợp với quan
điểm chính thống của Đảng. Mặc dù vậy, tác giả luận án coi đây là một trong
những nguồn tài liệu quan trọng để so sánh, đối chiếu tham khảo phục vụ cho
việc nghiên cứu của mình.
1.4 Những vấn đề Luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết
Do chƣa có một công trình khoa học cụ thể, tầm cỡ luận án nghiên cứu
chuyên sâu, làm rõ quy luật ra đời, hoạt động, đặc điểm, vai trò xây dựng và
hoạt động của LLVTCMMN trong giai đoạn bản lề của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc 1954 - 1965. Luận án nhằm hƣớng đến đi sâu làm rõ,
luận giải khoa học một số nội dung sau:
7


- Phân tích các yếu tố, hoàn cảnh lịch sử tác động sâu sắc đến quá trình

ra đời của đƣờng lối cách mạng bạo lực của Đảng, cơ sở cho sự ra đời, xây
dựng và hoạt động của LLVTMMN trong giai đoạn từ 1954 đến năm 1965;
Phân tích quy luật ra đời, hoạt động, đặc điểm, tính chất của công tác xây
dựng và hoạt động LLVTCMN trong giai đoạn 1954 -1965; Trên cơ sở hệ
thống, tổng thể, có tính đến những yếu tố khu vực, đặc thù đối với quá trình
đó. Luận án cố gắng luận giải thành quy luật, đánh giá khách quan vai trò của
lực lƣợng vũ trang ở miền Nam đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nƣớc ở miền Nam trong giai đoạn 1954 - 1965; Nhận xét quá trình xây dựng
và hoạt động của lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam. Gợi mở những
vấn đề có ý nghĩa phƣơng pháp luận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay.
Chương 2
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG MIỀN NAM TỪ NĂM
1954 ĐẾN NĂM 1960
2.1 Các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng và hoạt động của
Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam
2.1.1 Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình
ở Đông Dương.
Thực hiện nghiêm chỉnh hiệp định Giơnevơ phía Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã di chuyển ra Bắc vĩ tuyến 17 tới 120.000 bộ đội và cán bộ. Cách
mạng miền Nam lại quay trở lại thời kỳ phát triển từ không đến có, quy luật
lấy ít thắng nhiều, quy luật trƣờng kỳ kháng chiến, vừa đánh vừa phát triển
lực lƣợng… từ thuở mới kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp đƣợc phát
huy trong hoàn cảnh mới.
2.1.2 Mỹ và Chính quyền Ngô Đình Diệm, đối tượng đấu tranh mới
của cách mạng miền Nam.
Mỹ quyết định chọn Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến lƣợc toàn cầu
phản cách mạng nhằm đè bẹp cách mạng Việt Nam, ngăn chặn và đẩy lùi chủ
nghĩa cộng sản ở Đông Dƣơng và Đông Nam Á. Xây dựng mộ căn cứ quân
8



sự; áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam; thiết lập căn cứ
quân sự ở Đông Nam Á.
2.1.3 Thủ đoạn của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt
Nam từ năm 1954 đến năm 1960
Tháng 3 - 1956, dƣới sự bảo trợ của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm
tổ chức tổng tuyển cử, bầu ra Quốc hội. Tháng 10 - 1956, Diệm ban hành
hiến pháp của “nền Đệ nhất cộng hoà” và thực thi toàn diện về quân sự;
Về chính trị; Về văn hóa - xã hội. Khi chính quyền Mỹ - Diệm đã đƣợc xây
dựng một cách hoàn bị từ Trung ƣơng đến cơ sở. Việt Nam Cộng Hòa bắt tay
vào thực hiện “bình định” miền Nam Việt Nam, thực hiện ngay chính sách
“tố cộng, diệt cộng”.
2.1.4 Bối cảnh quốc tế
Phong trào giải phóng dân tộc từ các nƣớc Trung Đông lan nhanh sang
châu Phi và Mĩ Latinh, năm 60 của thế kỷ XX đƣợc gọi là “năm châu Phi”.
Phong trào công nhân đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ
ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa phát triển mạnh trở thành một
mũi tiến công quan trọng đánh vào giai cấp tƣ sản, chủ nghĩa tƣ bản độc quyền
nhà nƣớc.
Ở bán đảo Đông Dƣơng, sau hiệp định Giơnevơ chính phủ Vƣơng quốc
Campuchia đi theo con đƣờng trung lập. Ở Lào, Đảng Nhân dân Lào ra hoạt
động công khai năm 1955 và Mặt trận Lào yêu nƣớc tích cực hoạt động,
những chuyển biến nhƣ vậy có lợi cho cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, phong trào cộng sản và công nhân các nƣớc cũng có những
chuyển động bất lợi. Quan điểm Đảng Cộng sản lãnh đạo hai quốc gia lớn
nhất trong hệ thống XHCN lúc đó chƣa ủng hộ dùng giải pháp bạo lực để
thống nhất đất nƣớc cùng những đặc điểm nổi bật của cuộc chiến tranh lạnh
đã tác động không nhỏ đến quá trình hoạch định đƣờng lối chống Mỹ, cứu
nƣớc của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2.1.5 Miền Bắc Việt Nam tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
Năm 1958 miền Bắc thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển một
bƣớc về kinh tế - văn hóa. Kết quả của kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) về cải
9


tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những chuyển biến to lớn trên miền Bắc nƣớc
ta.
Đến năm 1960, quân đội nhân dân đã hoàn thành các nhiệm vụ theo kế
hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất; có bƣớc trƣởng thành mới, từ lực lƣợng
chủ yếu là bộ binh với tổ chức chƣa thật thống nhất, vũ khí, trang bị còn thiếu
thốn đã trở thành quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các lực lƣợng:
Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân.
2.2. Lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam từ năm 1954 đến năm
1960
2.2.1 Lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam từ năm 1954 đến năm
1956
2.2.1.1 Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống
Pháp
Chiến trƣờng miền Nam đã chứng tỏ, qua 9 năm kháng chiến, tổ chức
lực lƣợng vũ trang ở đây phù hợp với khả năng của chiến trƣờng ở xa trung
ƣơng, thích ứng với một chiến trƣờng đánh du kích trong hậu phƣơng của
địch. Các đơn vị vũ trang quy mô nhỏ, kiên cƣờng, có chống chọi với lực
lƣợng quân sự lớn hơn mình gấp nhiều lần, tiêu diệt đƣợc nhiều sinh lực địch,
giữ vững vùng căn cứ và mở ra một số vùng giải phóng.
2.2.1.2 Chủ trương thi hành hiệp định Giơnevơ và đấu tranh thi hành
hiệp định Giơnevơ
Ngày 5 - 9 - 1954, Bộ chính trị Trung ƣơng Đảng họp nhằm cụ thể hóa
nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn hiện tại là: “lãnh đạo
nhân dân miền Nam thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực

hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại,
v.v.), cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập…”.
2.2.1.3 Hình thành và các hình thức hoạt động vũ trang cách mạng của
lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam những năm từ 1954 đến năm 1956
Từ 200 cán bộ, chiến sĩ để lại hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị, lực
lƣợng tự vệ vũ trang tuyên truyền Nam Bộ đã phát triển thành 37 trung đội vũ
trang tuyên truyền, nhƣng chỉ hoạt động có mức độ, do sợ trái với đƣờng lối, chủ
trƣơng của Đảng tại thời điểm đó là đấu tranh chính trị. Tính đến tháng 5 - 1956,
10


riêng tại vùng căn cứ U Minh Hạ (Cà Mau), Liên tỉnh ủy miền Tây đã xây dựng
đƣợc 14 “Đại đội” vũ trang (mỗi đại đội tƣơng đƣơng một trung đội); các tỉnh
đều xây dựng đƣợc lực lƣợng tự vệ mật.
Dựa vào địa hình hiểm trở, vào phong tục tập quán nhân dân miền Tây
đồng bằng khu V đã vũ trang tự vệ chống lại sự đàn áp của Mỹ - Diệm. Hình
thức tự vệ độc đáo còn mang tính tự phát của cán bộ và đồng bào miền Tây,
nhƣng nó là bƣớc đầu của sự kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang tự vệ.
2.2.2 Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam 1957 - 1958
2.2.2.1 Thủ đoạn khủng bố của Mỹ - Diệm trong năm 1957 – 1958
Hàng loạt các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, các chƣơng trình cải cách
điền địa, lập khu trù mật, khu dinh điền và luật 10/59 ... chính quyền Mỹ Diệm đã làm cho cách mạng miền Nam tổn thất nặng nề. Để tiến lên tiêu diệt
hoàn toàn cách mạng miền Nam, Mỹ - Diệm tiếp tục thi hành thêm nhiều
chính sách khốc liệt hơn.
2.2.2.2. Chủ trương xây dựng và hoạt động của Lực lượng vũ trang cách
mạng miền Nam 1957 - 1958
Trƣớc hành động ngang nhiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ của Mỹ VNCH, ngày 8 - 6 - 1956, Bộ Chính trị họp, ra Nghị quyết xác định tính chất,
nhiệm vụ, phƣơng châm của cách mạng miền Nam. Tuy xác định cách mạng
miền Nam vẫn dùng phƣơng pháp hòa bình, chính tị nhƣng không có nghĩa là
không vũ trang để bảo vệ mình và hỗ trợ đấu tranh chính trị. Cụ thể hóa chủ

trƣơng của Đảng, Nam bộ và khu V đã chỉ đạo sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của địa bàn mình
2.2.2.3 Quá trình xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang cách
mạng ở miền Nam trong những năm 1957 - 1958
Tháng 6 - 1958, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Ban quân sự miền
Đông trực thuộc Xứ ủy Nam Bộ, làm nhiệm vụ chỉ huy thống nhất lực lƣợng
vũ trang tuyên truyền của Nam Bộ, làm tham mƣu cho Xứ ủy về công tác và
hoạt động vũ trang. Cuối năm 1958, các đơn vị vũ trang tiếp tục hoạt động có
hiệu quả ở nhiều nơi. Đặc biệt, ngày 11-10-1958, Xứ ủy Nam Bộ cùng Ban
quân sự và Đảng ủy lực lƣợng vũ trang miền Đông tổ chức tiến công quận lỵ
Dầu Tiếng (tỉnh Thủ Dầu Một). Chiến thắng Dầu Tiếng chứng tỏ LLVTCM
11


đã tổ chức đƣợc một trận đánh quy mô tƣơng đối lớn, có ý nghĩa hỗ trợ
phong trào đấu tranh chính trị … Trận đánh đã khai thông đƣợc đƣờng dây
liên lạc giữa chiến khu A (Chiến khu Đông, chiến khu Đ), với chiến khu Bắc
Tây Ninh (chiến khu Dƣơng Minh Châu, chiến khu B), tạo điều kiện cho Xứ
ủy Nam Bộ rời PhnômPênh (Campuchia) về đứng chân tại căn cứ Đông Nam
Bộ, để chỉ đạo cách mạng miền Nam.
Đến cuối năm 1958, cách mạng đã thành lập đƣợc chính quyền tự quản
trong nhiều vùng ở Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng, trong đó có
những khu căn cứ rộng liên hoàn 5 - 7 xã, có nơi trên 10 xã. Hầu hết các
buôn, làng có chính quyền tự quản đều lập đội du kích xã. Khu đã thành lập 2
trung đội, 3 tiểu đội vũ trang tập trung và một đội vũ trang công tác.
2.2.3 Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam trong đồng
khởi 1959 - 1960
2.2.3.1 Chủ trương của Trung ương Đảng trong Nghị quyết 15, bước
ngoặt cho lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam
Tháng 1 - 1959, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng quyết định triệu tập

Hội nghị lần thức 15 (khóa II) mở rộng tại Hà Nội ra nghị quyết 15. Nghị
quyết Trung ƣơng 15 xác định con đƣờng phát triển cơ bản của cách mạng
bạo lực. Do đó nó có ý nghĩa to lớn, chấm dứt sự lúng túng của Đảng trong
chỉ đạo cách mạng miền Nam, nó đƣợc xem mốc đánh dấu sự chuyển hƣớng
chỉ đạo chiến lƣợc cách mạng miền Nam.
2.2.3.2 Lực lượng vũ trang cách mạng ở Nam Bộ
Nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn phong trào nổi dậy của quần chúng và lấy
vũ khí đối phƣơng trang bị cho lực lƣợng vũ trang, Bí thƣ Xứ ủy Nam Bộ
Nguyễn Văn Linh đã phê duyệt kế hoạch tiến công vào Tua Hai của lực
lƣợng vũ trang Liên tỉnh ủy miền Đông.
Trận Tua Hai là trận thắng lớn thối động miền Đông Nam Bộ và lan tỏa ra
toàn Miền, tạo ra bƣớc ngoặt chuyển thế cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn
lực lƣợng sang thế tiến công đánh bại quân thù và là trận thắng giòn giã đầu tiên
của chiến tranh cách mạng Việt Nam, đánh lại chiến tranh xâm lƣợc thực dân
mới của Mỹ. Chiến thắng Tua Hai tiêu biểu cho một phƣơng thức phổ biến
trong phong trào đồng khởi ở Tây Ninh và miền Đông Nam Bộ và toàn Miền
12


đó là tiến công quân sự tạo ra “đòn xeo” để quần chúng nổi dậy đồng khởi
đánh bại chính quyền VNCH tại địa phƣơng, một phƣơng thức điển hình
chứng minh vị trí, vai trò, khả năng của LLVTCMMN trong phong trào đồng
khởi.
2.2.3.3 Lực lượng vũ trang cách mạng ở đô thị Sài G n
Đầu năm 1960, lực lƣợng vũ trang khu Sài Gòn - Gia Định cũng đƣợc
thống nhất. Đại đội tập trung đầu tiên của Khu vẫn mang phiên hiệu C12
nhƣng đã có 3 tiểu đội. Vùng giải phóng đƣợc mở rộng.
2.2.3.4 Lực lượng vũ trang cách mạng ở Khu V
Thực hiện của Đảng và cụ thể hóa chủ tƣởng đó của Liên Khu ủy khu V,
toàn Quân khu đã khẩn trƣơng tổ chức xây dựng đƣợc 12 đại đội đặc công và 2

đại đội bộ binh. Các tỉnh cũng xây dựng đặc công và bộ binh, Gia Lai đầu năm
1960 đã xây dựng đƣợc 6 trung đội vũ trang tập trung mang tên làng 10, làng
20, làng 30, làng 40, làng 50, làng 60…
Tháng 7 - 1960, trận Hoài Đức - Bắc Ruộng là một thắng lợi lớn của
quân và dân khu V. Đối phƣơng phải thừa nhận: “trận Tua Hai Tây Ninh và
chi khu Hoài Đức - Bắc Ruộng là thất bại chua cay của quân lực Việt Nam
Cộng hòa”.

13


Chương 3
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG MIỀN NAM
TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1965
3.1 Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược của các bên ở miền
Nam Việt Nam sau phong trào đồng khởi
3.1.1 Bối cảnh lịch sử những năm 60 của thế kỉ XX
3.1.1.1 Bối cảnh lịch sử thế giới những năm 60 của thế kỉ XX
a. Tác động của Liên Xô và Trung Quốc với cách mạng Việt Nam
Tuy có điều kiện thuận lợi là phe XHCN lớn mạnh không ngừng và dần
tiến đến cân bằng chiến lƣợc với CNTB nhƣng bản thân Liên Xô đến năm
1964 mới chia sẻ con đƣờng cứu nƣớc cảu Việt Nam, còn Trung Quốc vì
nhiều lí do không ủng hộ con đƣờng cách mạng bạo lực để giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nƣớc. sang đầu những năm 1960, mối bất hòa giữa hai
Đảng cầm quyền, hai quốc gia lớn nhất của phe XHCNb. Mỹ và đồng minh
ngày càng gay gắt …
b. Mỹ và đồng minh
G.Ken-nơ-đi lên làm tổng thống Mỹ, năm 1961 đã thay thế bằng một
chính sách và một chiến lƣợc quân sự mới - chiến lƣợc “phản ứng linh hoạt”
và đem thử nghiệm ngay chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt

Nam.. Tuy nhiên trong nội bộ phe CNTB, chủ nghĩa tƣ bản dân tộc có những
bƣớc phát triển mới, tự chủ hơn, độc lập hơn với Mỹ và cạnh tranh quyết liệt
với Tƣ bản Mỹ và vị trí siêu cƣờng kinh tế của Mỹ.
c. Phong trào giải phóng dân tộc
Phong trào giải phóng dân tộc phát triển sâu rộng, đánh bại hoàn toàn
chủ nghĩa thực dân cũ và hệ thống thuộc địa của chúng, tăng cƣờng cho
phong trào cách mạng thế giới. Năm 1960 đƣợc gọi là năm châu Phi. 1965 đã
có 40 nƣớc ở Á, Phi, Mĩ Latinh giành đƣợc độc lập.
3.1.1.2 Bối cảnh trong nước những năm 60 của thế kỉ XX
a. Công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và củng cố quốc phòng ở miền
Bắc
14


Từ năm 1960 trở đi, miền Bắc bƣớc vào một thời kỳ mới - thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm xây
dựng bƣớc đầu cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thực hiện một
bƣớc công nghiệp hóa đã giành đƣợc thắng lợi to lớn.
Lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Bắc sau 10 năm xây dựng đã trƣởng
thành vƣợt bậc. Các sƣ đoàn chủ lực tiến lên chính quy, hiện đại hóa. Các
quân binh chủng đƣợc trang bị thêm nhiều vũ khí hiện đại và ở tƣ thế sẵn
sàng chiến đấu.
b. Tình hình miền Nam sau phong trào đồng khởi
Tính đến cuối năm 1960, phong trào đồng khởi ở miền Nam đã làm tan
rã phần lớn chính quyền cơ sở nông thôn của chế độ Sài Gòn. Đồng khởi đã
chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của chế độ VNCH, đẩy chế độ Sài Gòn
vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Qua phong trào đồng khởi, nhân dân miền
Nam đã giành quyền làm chủ dƣới những hình thức khác nhau, mức độ khác
nhau: ở Nam Bộ, 1.100/1.296 xã với 4,5 triệu dân; ở khu V là 4.440/4.700
thôn với 2 triệu dân.

3.1.1.3 Yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam sau phong trào
đồng khởi
Yêu cầu khách quan của cách mạng miền Nam thời kỳ này là phải xây
dựng LLVTCMMN phải đủ sức ngăn chặn, tiến tới tiêu diệt một bộ phận
quan trọng sinh lực đối phƣơng đƣa cách mạng miền Nam Việt Nam tiến lên.
Tuy nhiên đáp ứng yếu cầu nhiệm vụ đó, đội tiên phong phải xử lý các mối
quan hệ quốc tế hết sức phức tạp, nhạy cảm trong thời điểm chiến tranh lạnh
đầu những năm 1960. Quá trình xử lý dựa trên quan điểm chỉ đạo độc lập,
sáng tạo đó sẽ quyết định tới nhịp điệu, quy mô, đặc điểm, tính chất của quá
trình xây dựng và hoạt động của LLVTCMMN trong chống chiến tranh đặc
biệt.
3.1.2 Chủ trương chiến lược của các bên ở miền Nam Việt Nam sau
phong trào đồng khởi
3.1.2.1 Chiến lược chiến tranh đặc biệt Hoa Kỳ và chính quyền Sài G n
a. Kế hoạch chiến tranh Stalay - Taylor
15


Để cụ thể hóa chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt
Nam. Mỹ - Diệm xây dựng và thực thi kế hoạch Stalay – Taylor.
b. Kế hoạch chiến tranh Johnson - McNamara
Cuối năm 1963, khi các mục tiêu cơ bản của kế hoạch Stalay - Taylor đã
bị thảm bại. Ngày 17-2-1964, tổng thống thức 36 của nƣớc Mỹ, Johnson đã
thông qua kế hoạch chiến tranh mới: Johnson – McNamara.
3.1.2.2 Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng từ năm
1961 đến năm 1965
Để đáp ứng yêu cầu chống chiến tranh đặc biệt, năm 1961, 1962 Bộ
chính trị đã có các nghị quyết lãnh đạo đƣa đấu tranh vũ trang lên song song
với đấu tranh chính trị và tại hội nghị TƢ9, tháng 12-1963 đã đƣa đấu tranh
vũ trang đi trƣớc một bƣớc so với đấu tranh chính trị.

3.2 Xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng miền
Nam từ năm 1961 đến năm 1965
3.2.1 Công tác xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam (1961 1965)
3.2.1.1 Tổ chức lực lượng vũ trang và xây dựng hệ thống tổ chức chỉ huy
trên chiến trường Nam Bộ và khu V
Tổ chức lực lƣợng vũ trang là một nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây
dựng lực lƣợng vũ trang cách mang miền Nam. Để đối phó với đối phƣơng
hùng mạnh, thực thi một chiến lƣợc chiến tranh hiện đại, bài bản đầy thủ
đoạn thì LLVTCMMN phải củng cố tổ chức từ Miền, Khu xuống đến cơ sở
thành một tổ chức quân sự hiện đại, khoa học, phải đƣợc xây dựng về chính
trị nhằm đáp ứng tình hình và nhiệm vụ khó khăn gian khổ. Thành công của
công tác xây dựng LLVTCMMN gắn liền với thành quả của nhiệm vụ hàng
đầu này.
3.2.1.2 Xây dựng căn cứ địa, củng cố căn cứ của các cơ quan lãnh đạo,
chỉ huy và các hành lang chiến lược
Hành lang chiến lƣợc từ Bắc vào Nam là một sáng tạo nổi bật có một
không hai trong lịch sử quân sự thế giới, tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam, cho
nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam. “Con đƣờng chiến lƣợc” không
ngừng mở rộng và duy trì hoạt động liên tục bất chấp những nỗ lực của đối
16


phƣơng với hỏa lực vƣợt trội là yếu tố sống còn của lực lƣợng vũ trang cách
mạng miền Nam. Hành lang chiến lƣợc đó mang trong lòng sức mạnh của
hậu phƣơng miền Bắc, sức mạnh của bạn bè quốc tế, sức mạnh của thời đại.
Bảo vệ, duy trì và không ngừng mở rộng hành lang chiến lƣợc cũng tức
là không ngừng đẩy mạnh cuộc cách mạng DTDCND ở miền Nam đi đến
thắng lợi nói chung và không ngừng đẩy mạnh xây dựng, hoạt động của lực
lƣợng vũ trang cách mạng ở miền Nam nói riêng.
3.2.1.3 Xây dựng các đơn vị chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương

của cách mạng miền Nam
Năm 1964 đánh dấu sự phát triển đồng đều, cấn đối của 3 thứ quân. Tất
cả các xã đều có lực lƣợng du kích từ 1 tiểu đội đến trung đội, cấp huyện có
đại đội mạnh hoặc non một đại đội. Cấp tỉnh có từ 1 đến 2 tiểu đoàn tập
trung. Miền và Khu là cấp trung đoàn.
Trình độ tác chiến qua đó đƣợc nâng lên phù hợp với khả năng đánh bại
các kế hoạch chiến tranh trong khuôn khổ “chiến tranh đặc biệt” của đối
phƣơng. Cùng với chủ lực Miền, các địa phƣơng cấp quân khu đã đạt trình độ
mở những đợt tấn công phối hợp 3 thứ quân với lực lƣợng cỡ 2, 3 tiểu đoàn
đến 2 trung đoàn nhằm vào các chi khu của quân Sài Gòn. Các quân khu của
Nam Bộ đều đã đạt trình độ tiêu diệt từ 2 đến 3 chi khu.
3.2.1.4 Bước đầu hình thành những binh chủng hiện đại của lực lượng
vũ trang cách mạng miền Nam
a. Binh chủng Pháo Binh
b. Binh chủng Đặc Công và biệt động Sài Gòn
Sự ra đời của một số binh chủng, mặc dù mới, trang bị còn thiếu thốn, ít
kinh nghiệm chiến đấu nhƣng đã có vai trò tích cực nhằm tăng cƣờng đáng kể
sức mạnh chiến đấu của 3 thứ quân của LLVT cách mạng ở miền Nam. Nó
chứng tỏ LLVT cách mạng ở miền Nam không ngừng lớn mạnh, đủ sức hiệp
đồng tác chiến đánh bại chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt” của đối phƣơng
3.2.1.5 Xây dựng bến bãi, kho tàng, tiếp nhận chi viện của Trung ương
Sự chuẩn bị các kho tàng bến bãi để tiếp nhận sự chi viện của trung
ƣơng đã trực tiếp phát triển lực lƣợng vũ trang 3 thứ quân, đặc biệt là chủ lực
Miền và các Quân khu. Là điều kiện trực tiếp để có thể mở những trận đánh,
17


những chiến dịch lớn tiêu diệt chủ lực quân đội Sài Gòn cấp tiểu đoàn, cấp
trung đoàn (chiến dịch Bình Giã năm 1964, chiến dịch Xuân - Hè 1965
Phƣớc Long - Đồng Xoài…).

3.2.1.6 Xây dựng và hoạt động lực lượng an ninh Miền Nam đáp ứng
yêu cầu và nhiệm vụ mới của lực lượng vũ trang cách mạng
Công tác xây dựng và hoạt động của lực lƣợng an ninh miền Nam trong
giai đoạn 1954 - 1965 và đặc biệt là giai đoạn 1961 - 1965 đã bảo vệ nội bộ
của LLVTCM và bảo mật các hoạt động của nó, giữ gìn đảm bảo yếu tố bất
ngờ, yếu tố bí mật, góp phần quan trọng vào các chiến thắng vĩ đại của
LLVTCM trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc.
Vừa xây dựng vừa hoạt động chiến đấu của Ban An ninh Miền và các Khu
nằm trong hoạt động chung với những đặc điểm, tính chất phổ biến nhƣng
cũng đặc thù của quá trình xây dựng và hoạt động của LLVTCM trong giai
đoạn 1954 - 1965.
3.2.2. Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam chiến đấu đánh bại
chiến tranh đặc biệt
3.2.2.1. Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam phối hợp đấu tranh
chính trị, binh vận đánh bại “quốc sách ấp chiến lược” và tác chiến đánh bại
mũi nhọn “bình định” của quân đội Sài G n (1961 - 1963)
LLVTCMMN đã có những phát triển nhanh chóng, đã dần tiến lên song
song với đấu tranh chính trị. LLVT 3 thứ quân, 2 chân 3 mũi giáp công, 3 vùng
chiến lƣợc đã phát huy sức mạnh của nó. Sự phối hợp giữa LLVTCMMN với
chính trị và binh vận làm chậm lại quốc sách “ấp chiến lƣợc” và các cuộc hành
quân càn quét bình định của đối phƣơng. Tuy nhiên, những nỗ lực cố gắng đó
không lật ngƣợc đƣợc tình thế, Mỹ - QĐSG có thành công nhất định trong thủ
đoạn thâm độc của mình.
Mấu chốt, chìa khóa của thế cờ đó là chiến thuật “trực thăng vận, thiết
xa vận”. Cách mạng chƣa có “phƣơng thuốc hữu hiệu” để đối phó một cách
hiệu quả với chiến thuật tân kỳ này thì thế giằng co vẫn là chủ đạo trong hình
thái chiến tranh thời kỳ này. Không có LLVTCMMN hỗ trợ, mũi chính trị và
binh vận rất khó để phát huy sức mạnh của mình.
18



Thế cờ đó chỉ thay đổi khi xảy ra sự kiện chiến thắng Ấp Bắc (Mỹ Tho)
2-1-1963. Qua chiến thắng Ấp Bắc, chiến thuật “trực thăng vận, thiết xa vận”
không còn là con “ngáo ộp” nữa. 3 thứ quân của LLVTCMMN tự tin chống
trả một cách hữu hiệu, qua đó vực dậy mãnh liệt các mũi đấu tranh chính trị
và binh vận nhằm giành thế chủ động trên chiến trƣờng tiến tới đánh bại
chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt” trong hai năm tiếp theo 1964 - 1965.
3.2.2.2. Lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đẩy mạnh hoạt động
tác chiến mùa khô 1964 - 1965
Từ tháng 12-1964 đến tháng 7-1965, trên chiến trƣờng miền Nam đã
liên tiếp tiến hành 3 chiến dịch tiến công địch trên một địa bàn rộng lớn ở
miền Đông Nam Bộ và khu V, lực lƣợng vũ trang có bƣớc trƣởng thành vƣợt
bậc, nhất là lực lƣợng chủ lực Miền. Trình độ chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch
đƣợc nâng lên một bƣớc, mở ra khả năng lực lƣợng chủ lực Miền và khu V
có thể cơ động trên nhiều địa bàn, phối hợp với lực lƣợng vũ trang địa
phƣơng đánh tập trung quy mô ngày càng lớn, dài ngày, tiêu diệt ngày càng
nhiều sinh lực quan trọng của QĐSG. Cùng với các cuộc đấu tranh vũ trang,
phong trào đấu tranh chính trị cũng đƣợc đẩy mạnh, những nội dung cơ bản
của chiến lƣợc “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã phá sản, cuối năm 1964
CQSG còn giữ đƣợc 3.461 ấp tân sinh, đến tháng 6-1965 chỉ còn 2.000 ấp,
quân tổng trù bị chủ lực, xƣơng sống của chế độ Sài Gòn đã “ngã gục” trƣớc
đòn tiến công của lực lƣợng quân giải phóng.
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM TRONG GIAI ĐOẠN
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1965
4.1 Sự ra đời của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam là yêu
cầu tất yếu, là qui luật đấu tranh của công cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
4.1.1. Ra đời để bảo vệ thực lực cách mạng miền Nam

4.1.2. Gắn với bước nhảy vọt của cách mạng miền Nam qua phong trào
đồng khởi 1959-1960
19


4.1.3. Có nguồn gốc vững chắc từ cuộc đấu tranh của nhân dân miền
Nam chống Chiến tranh Đặc biệt
4.2. Đặc điểm xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang cách
mạng miền Nam trong thời kỳ 1954-1965
4.2.1. Kiềm chế địch
4.2.2. Thành phần cơ bản lực lượng lực lượng tại chỗ
4.2.3 Cơ cấu của đạo quân thực hiện chiến tranh nhân dân
4.2.4. Sở trường
4.3 Vai trò của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam trong
chống Mỹ, cứu nước
4.3.1 Vai tr của lực lượng vũ trang cách mạng trong bước ngoặt Đồng
khởi
4.3.2 Lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam đã tô đậm thêm truyền
thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam
4.3.3 Quân giải phóng miền Nam - một hình ảnh mới của “Bộ đội cụ
Hồ” trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
4.4 Một số kinh nghiệm lịch sử
4.4.1 Sự chỉ đạo của Đảng - nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam
4.3.2 Phải phải kế thừa và vận dụng linh hoạt nghệ thuật sử dụng
phương pháp bạo lực cách mạng
4.3.3. Xây dựng và hoạt động đúng đắn, linh hoạt, sát hợp với thực tiễn
4.3.4 Xây dựng lực lượng vũ trang phải thường xuyên chú trọng xây dựng
cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, phù hợp với đặc
điểm từng vùng chiến trường, từng nhiệm vụ được giao ở mỗi thời kỳ lịch sử

4.3.5 Không ngừng tìm t i, vượt qua thử thách, khắc phục khó khăn tổng
kết kinh nghiệm để chiến đấu chống lại những thủ đoạn tinh vi, vũ khí hiện
đại và chiến thuật tân kỳ của kẻ thù

20


KẾT LUẬN
Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết, đã chấm dứt 9 năm kháng chiến chống
thực dân Pháp đồng thời là mốc mở đầu cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu
nƣớc trƣờng kỳ của dân tộc ta. Mỹ và Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa với
âm mƣu của mình, đã thi hành hàng loạt những chính sách nhằm chà đạp lên
nguyện vọng thống nhất đất nƣớc, tiêu diệt phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân. Nó đã đàn áp dã man các phong trào đấu tranh vì mục tiêu
hoà bình của nhân dân miền Nam, từng bƣớc đặt miền Nam vào tình trạng
chiến tranh. Bằng những chính sách “tố cộng, diệt cộng”, Luật 10/59 và sau
đó là chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ - Diệm đã đẩy cách mạng miền
Nam vào tình thế khó khăn, tổn thất vô cùng nghiêm trọng. Khả năng và con
đƣờng hòa bình thống nhất đất nƣớc đến đây đã bị Mỹ - Diệm hoàn toàn bác
bỏ. Tình thế cách mạng đó đòi hỏi miền Nam không thể tiếp tục đấu tranh
bằng hình thức chính trị nhƣ cũ đƣợc nữa.
Sự ra đời của lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam là một tất yếu
lịch sử khi những chiến sĩ 9 năm xƣa cùng quần chúng nhân dân trƣởng thành
trong phong trào chính trị buộc phải cầm vũ khí đứng lên chống lại một kẻ
thù không từ một thủ đoạn nào để dìm phong trào cách mạng miền Nam
trong bể máu. Chứa chất căm thù với quân thù tàn bạo, nhân dân đã lập các
đội tự vệ, dân canh mà bảo vệ mình, bảo vệ cán bộ. Từ cuối năm 1957, đầu
năm 1958, hầu hết các địa phƣơng đều thành lập đội vũ trang tự vệ. Sau đó,
từ vũ trang tự vệ tiến lên vũ trang tuyên truyền để trừ gian diệt ác, cảnh cáo,
trừng trị những tên đầu sỏ, cởi mở kìm kẹp cho phong trào cách mạng phát

triển dù chƣa hề có chủ trƣơng của Trung ƣơng. Giữa năm 1958, Bộ chỉ huy
quân sự miền Đông đƣợc thành lập để đẩy mạnh các hoạt động quân sự và vũ
trang tuyên truyền. Đến năm 1959, toàn miền Nam có 139 trung đội vũ trang
tập trung và vũ trang tuyên truyền, hàng trăm tổ tự vệ hoạt động tự vệ, hỗ trợ
đấu tranh chính trị và tiến lên diệt tề trừ gian, diệt ác phá kìm.
Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của
kẻ thù, trƣớc là để bảo vệ lực lƣợng cách mạng miền Nam rồi đấu tranh thống
21


nhất đất nƣớc, cơ sở thực tiễn đó đã thôi thúc Nghị quyết 15 vƣợt qua những
“ải lịch sử” của thời đại, đã công khai đến với Đảng bộ và nhân dân miền
Nam. Mở ra một phong trào “đồng khởi” lịch sử, đƣa cách mạng miền Nam
từ thế giữ gìn lực lƣợng sang thế tiến công, giải phóng và làm chủ một vùng
nông thôn rộng lớn ở miền Nam Việt Nam. “Hợp pháp hóa” các hoạt động
xây dựng và đấu tranh vũ trang, cũng là thời điểm phát triển bƣớc ngoặt của
LLVTCM. Nhƣ vậy, lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam thời kỳ 19541960 tuy còn nhỏ bé nhƣng đó chính là nhân tố sống còn đối với cách mạng
miền Nam.
Từ năm 1961, để đối phó với những thất bại của chúng trong phong trào
đồng khởi, Mỹ - Diệm đã quân phiệt hóa cao độ chính quyền Sài Gòn. Đã đề
ra chiến lƣợc chiến tranh cực kỳ nguy hiểm, chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt”
và các chiến thuật nhằm âm mƣu dập tắt ngọn lửa cách mạng đang bùng lên
mạnh mẽ. Để đối phó, Trung ƣơng Đảng cũng có sự điều chỉnh đƣờng lối
lịch sử, nâng đấu tranh vũ trang lên thành hình thức đấu tranh cơ bản, đƣa
phong trào nổi dậy khởi nghĩa của nhân dân miền Nam phát triển thành chiến
tranh cách mạng theo phƣơng án 2 của Nghị quyết 15. Để làm đƣợc điều đó,
các lực lƣợng vũ trang cách mạng miền Nam đã đƣợc thống nhất lại thành
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam với hệ thống tổ chức quy cũ từ Trung
ƣơng đến địa phƣơng. Thống nhất để phát triển cũng nhƣ đủ năng lực tiếp
nhận sự chi viện có hiệu quả của miền Bắc XHCN.

Sự chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc của Đảng là một quá trình lâu dài,
bắt đầu từ năm 1961 và chỉ thực sự hoàn thiện vào năm 1963, khi Bộ chính
trị khẳng định đấu tranh quân sự, vũ trang phải đi trƣớc một bƣớc so với đấu
tranh chính trị. Vì thế, sự chuyển hƣớng đó là kết quả của sự kết tinh cả một
thời kỳ đấu tranh lâu dài, phức tạp. Do đó, sự chuyển hƣớng này không chỉ
có ý nghĩa lịch sử sâu sắc mà còn có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Sự chuyển
hƣớng đó đã làm nên sức mạnh cho các phong trào cách mạng, là sự mở đầu
cho hàng loạt những thắng lợi sau này của cách mạng miền Nam Việt Nam.
Nó không chỉ làm thất bại chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ mà còn
góp phần cùng nhân dân cả nƣớc thực hiện thành công cuộc “chiến tranh thần
22


thánh”, đánh bại một nƣớc đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, mang lại hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Những năm 1961-1963, do chủ trƣơng kìm chế thắng Mỹ - VNCH trong
chiến tranh đặc biệt, Quân giải phóng miền Nam tuy đã xây dựng đƣợc
những đơn vị chủ lực đầu tiên nhƣng về cơ bản vẫn mang tính chất là đội
quân du kích, tác chiến đến cấp đại đội, trung đội. Lực lƣợng vũ trang hầu
nhƣ chỉ tập kích những đồn, bốt nhỏ lẻ, đánh những trận trên quy mô từng
huyện, từng xã, hạn chế các hoạt động lớn do tránh gây “tiếng vang” trong
tình hình quốc tế phức tạp lúc bấy giờ. Bởi thế, đội quân cách mạng còn nhỏ
bé, thiếu kinh nghiệm, bị hạn chế về nhiều mặt không tránh khỏi những vấp
váp, khó khăn ban đầu trƣớc kẻ thù lớn mạnh. Tuy nhiên, với bản chất cách
mạng cùng sự sáng tạo, tìm tòi, Quân giải phóng đã vƣợt lên trên mọi thử
thách đó, dần trƣởng thành và đánh bại hoàn toàn kế hoạch Staley - Taylor
bình định miền Nam trong 18 tháng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn với
chiến công tiêu biểu là trận Ấp Bắc lịch sử.
Đến năm 1964, hình thái chiến tranh đã thay đổi. Trong khi Mỹ đã bƣớc
đầu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chuẩn bị đƣa binh lính tham chiến trực

tiếp ở miền Nam. Trung ƣơng Đảng cũng chủ trƣơng đẩy mạnh phát triển
Quân giải phóng lên chính quy, hiện đại nhằm làm tan rã hoàn toàn quân đội
Sài Gòn, cố gắng giành chiến thắng nhanh nhất trong thời gian tƣơng đối
ngắn. Bởi thế, từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965 có thể đƣợc coi là giai
đoạn bản lề của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, Quân giải phóng miền Nam từng
bƣớc đƣợc xây dựng, phát triển trên quy mô lớn. Trong đó, bộ phận chủ lực
đƣợc chú trọng, hình thành nên những “nắm đấm mạnh” ở Miền và các quân
khu. Các lực lƣợng chuyên môn, kỹ thuật cũng đƣợc phát triển nhanh chóng.
Trên cơ sở đó, hình thức tác chiến trên chiến trƣờng cũng có sự thay đổi với
sự xuất hiện của các chiến dịch quy mô lớn, dài ngày, có sự tham gia của
nhiều trung đoàn, tiểu đoàn cùng các đơn vị binh chủng chuyên môn trên một
phạm vi rộng lớn, đánh tiêu diệt, tiêu hao từng bộ phận quan trọng sinh lực
23


×