Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh tế xã hội ở nghệ an hiện nay full

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 180 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ BÌNH

VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở NGHỆ AN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1.

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà

2.

TS. Nguyễn Văn Thức

Hà Nội – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà và TS. Nguyễn


Văn Thức. Các trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận án là đáng tin cậy và có
xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu
của mình.
Hà Nội, tháng 03 năm 2016
Tác giả luận án

Trần Thị Bình


LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận án xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc Viện Hàn Lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội, Phòng quản lý Đào
tạo, Ban chủ nhiệm Khoa Triết học, cùng Quý cô giáo, thầy giáo tham gia
giảng dạy lớp nghiên cứu sinh chuyên ngành Triết học khóa 2011 – 2014 (đợt
2), Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Đặc biệt xin được trân trọng gửi lời biết ơn đến PGS.TS. Nguyễn Ngọc
Hà và TS. Nguyễn Văn Thức đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.
Tác giả luận án cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, cơ quan, bạn bè
và đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm cho
tác giả trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Hà Nội, tháng 03 năm 2016
Tác giả luận án

Trần Thị Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........................... 5
1.1. Những công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò động lực của khu
vực KTTN ở Việt Nam ................................................................................................... 5
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN
ở Nghệ An ..................................................................................................................... 18
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy vai trò động lực
của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An .......................... 20
Chương 2: VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở
VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................................................... 25
2.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................................ 25
2.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò
động lực của khu vực KTTN......................................................................................... 41
2.3. Biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN ở Việt Nam trong nền kinh tế
thị trường hiện nay ........................................................................................................ 57
Chương 3 : VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN
Ở NGHỆ AN HIỆN NAY.......................................................................................... 70
3.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến khu vực KTTN ở
Nghệ An ........................................................................................................................ 70
3.2. Thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An từ 2000 - 2014 . 84
Chương 4 : QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC PHÁT HUY VAI
TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KTTN Ở NGHỆ AN ................................... 125
4.1. Một số quan điểm để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở
Nghệ An ...................................................................................................................... 125
4.2. Một số giải pháp cơ bản để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực
KTTN ở Nghệ An hiện nay ......................................................................................... 131
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 157
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 161


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1. Tổng sản phẩm trong nước và cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá
thực tế phân theo thành phần kinh tế ............................................................................ 58
Bảng 2. Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế.......... 62
Bảng 3. Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hàng năm
phân theo loại hình doanh nghiệp ................................................................................. 65
Bảng 4: Một số loại khoáng sản chủ yếu có điều kiện khai thác ở Nghệ An ............... 72
Bảng 5: Vốn SXKD bình quân năm của doanh nghiệp đang hoạt động phân theo
loại hình doanh nghiệp. ................................................................................................. 91
Bảng 6: Doanh thu thuần SXKD của các DN phân theo loại hình DN ........................ 92
Bảng 7: Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ............................................................. 93
Bảng 8: Cơ cấu kinh tế của tỉnh tính theo giá trị gia tăng VA ...................................... 95
Bảng 9: Số lao động trong các doanh nghiệp................................................................ 97
đang hoạt động tại thời điểm 31/12 phân theo loại hình doanh nghiệp ........................ 97
Bảng 10: Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp đang hoạt động tại
thời điểm 31/12 phân theo loại hình doanh nghiệp. ...................................................... 98


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
TT

Ký hiệu viết tắt

Nội dung viết tắt

1

CPI

Chỉ số năng lực cạnh tranh


2

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

3

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

4

DN

Doanh nghiệp

5

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

6

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa


7

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

8

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

9

FDI

Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

10

KCN

Khu công nghiệp

11

KKT

Khu kinh tế


12

KTTN

Kinh tế tư nhân

13

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

14

SXKD

Sản xuất kinh doanh

15

QLDA

Quản lý dự án

16

UBND

Ủy ban nhân dân


17

VCCI

Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gần 30 năm đổi mới, khu vực KTTN đã khẳng định vai trò động lực của nền
kinh tế, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực; góp phần tăng sản phẩm quốc nội,
thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng hiện đại, góp giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho ngừoi lao động và
cải thiện đời sống nhân dân, tạo nên nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng, nhiều DN
khẳng định được "thương hiệu" trên thị trường quốc tế, tăng khả năng cạnh tranh cho
nền kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu. Khi khẳng định vài trò động lực của
khu vực KTTN, tại diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 diễn ra trong hai ngày 21 - 22/4 tại
Nghệ An, cựu Bộ trưởng thương mại Trương Đình Tuyển và một số học giả uy tín
hàng đầu nghiên cứu về kinh tế cho rằng: vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế
cần được xác định là động lực chủ yếu thay vì là một trong những "động lực", điều
doanh nghiệp quan tâm không hẳn là những ưu đãi mà là sự đối xử một cách công bằng
bởi sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế này có cơ sở về mặt kinh tế, xã hội và
thể chế chính trị. C.Mác đã từng khái quát rằng một kết cấu kinh tế - xã hội không thể
bị loại trừ khỏi đời sống xã hội khi bản thân nó vẫn còn sức sống.
Trong những năm gần đây, khu vực KTTN càng đóng vai trò là một trong 4
động lực của nền kinh tế. Khu vực KTTN ngày càng trở thành động lực chủ đạo, sức
sống của nó ngày càng được khẳng định và vươn xa, tuy nhiên xét về mặt lãnh thổ thì
sự phát triển của khu vực kinh tế này chưa đồng đều, do vị trí địa lý trải dài, mỗi địa

phương có những nét đặc thù riêng về bản sắc văn hoá, nguồn lực, vị trí địa lý và
năng lực của nhà cầm quyền. Chính những sự khác biệt này đã quyết định không nhỏ
tới sự phát triển của khu vực KTTN của mỗi vùng, miền và tỉnh.
Nghệ An là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Trung Bộ,
nhưng vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển song mảnh đất này hội tụ
nhiều điều kiện thuận lợi để khu vực KTTN phát triển. Cùng với sự phát triển của
cả nước, thời gian qua khu vực KTTN ở Nghệ An đã phát huy được vai trò động lực
của mình, có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương,


2

Đặc biệt từ khi có luật DN thì khu vực kinh tế này đã huy động được nhiều nguồn
lực xã hội vào SXKD, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, cải
thiện đời sống nhân dân, nhiều DN đã tạo dựng được "thương hiệu" lớn, có nhiều
đóng góp quan trọng cho nguồn thu nội địa của tỉnh; tạo được sự gắn kết kinh tế
giữa Nghệ An và các tỉnh thành thuộc vùng kinh tế Bắc miền Trung nói chung và
nhiều tỉnh, thành trên cả nước nói riêng, đồng thời thúc đẩy, liên kết với các thành
phần kinh tế khác cùng phát triển.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra những thành quả đó vẫn chưa đáp ứng được
kỳ vọng của Chính phủ cũng như chính quyền và nhân dân tỉnh Nghệ An, mặc dù
số lượng cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp của khu vực KTTN tăng lên rất nhanh,
song chất lượng hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh cũng
như chính sự nội lực vươn lên để phát huy vai trò động lực của khu vực kinh tế này.
Điều đó được thể hiện trên nhiều khía cạnh như; quy mô hoạt động của DN thuộc
khu vực KTTN còn nhỏ bé, manh mún, công nghệ sản xuất lạc hậu, đơn giản, vốn
và lao động ít, doanh thu thấp so với mức bình quân chung của cả nước, sức cạnh
tranh trên thị trường còn yếu, hiệu quả kinh doanh chưa cao, trong SXKD vẫn còn
mang tính tự phát cao, trình độ quản lý của nhiều DN còn yếu kém, trình độ tay
nghề của người lao động còn thấp, nhiều DN thuộc khu vực kinh tế này hoạt động

chưa lành mạnh, buôn lậu, trốn thuế, sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng, vi
phạm pháp luật nhà nước, sản xuất chưa gắn với bảo vệ môi trường... Bên cạnh đó
còn gặp phải những khó khăn vướng mắc về cơ chế, chính sách và môi trường tâm
lý xã hội, làm cho KTTN ở Nghệ An chưa phát huy được tiềm năng tối đa của
mình, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong xu thế hội nhập
kinh tế toàn cầu hiện nay.
Vì vậy, cần đánh giá đúng thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời
cho đến nay, trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm và một số giải pháp cơ bản có tính
khả thi nhằm phát triển khu vực kinh tế này theo tinh thần Đại hội Đảng toàn toàn
quốc lần thứ XI và dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ XII nêu


3

rõ; DN Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH,
HĐH và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVII đưa Nghệ An
trở thành một tỉnh khá trong khu vực phía Bắc vào năm 2015, tạo cơ sở để đến
năm 2020 cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp, phấn đấu xây dựng thành phố
Vinh thành trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng Bắc – Trung Bộ. Với lý do trên
việc nghiên cứu “Vai trò động lực của KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở Nghệ An hiện nay” là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về vai trò động lực của khu vực
KTTN và biểu hiện vai trò động lực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, đánh giá
thực trạng phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời (năm 2000) cho đến nay, luận
án đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò động

lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt mục đích đề ra, luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Thứ hai, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò động lực và biểu hiện vai trò
động lực của khu vực KTTN ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, phân tích thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An
từ khi có luật doanh nghiệp ra đời cho đến nay.
Thứ tư, đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục phát huy
vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An.


4

Phạm vi nghiên cứu: thời gian từ năm 2000 (từ khi luật DN ra đời) đến năm 2014.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về khu vực KTTN
để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp chung của khoa học xã hội là: trừu tượng
hóa, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, diễn dịch, thống kê,

so sánh…Ngoài ra tác giả còn tham khảo, thu thập số liệu qua các tài liệu, báo cáo
của các Sở, Ban ngành của tỉnh Nghệ An như: Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh
Nghệ An, Sở kế hoạch và đầu tư, Văn phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
tại Nghệ An, DNNVV ở Nghệ An, Chi cục thuế Nghệ An...
5. Những đóng góp mới của luận án
Một là, góp phần làm rõ thêm tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển khu vực
KTTN cũng như biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, làm rõ thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ năm 2000 đến 2014.
Ba là, nêu ra một số quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản có tính khả
thi để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh
tế - xã hội ở Nghệ An trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong việc học tập, giảng
dạy, nghiên cứu về khu vực KTTN ở nước ta nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng.
Đồng thời, luận án cũng có giá trị tham khảo cho việc hoạch định chính sách phát
triển KTTN ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay và thời gian sắp tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm có 4 chương, 10 tiết.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò động lực
của khu vực KTTN ở Việt Nam
Kể từ khi nước ta tiến hành đổi mới (từ 1986) đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vai trò động lực của khu vực KTTN đối với nền kinh tế. Dưới đây là

những công trình tiêu biểu.
Công trình “Khoán sản phẩm trong nông nghiệp” (gồm một số bài của các
tác giả Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Văn Sơn, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, năm 1981). Các tác giả phân tích tính ưu việt của chế độ khoán mới
(tức khoán sản phẩm trong nông nghiệp đến nhóm người lao động và người lao
động trên phạm vi cả nước ta). Các tác giả phân tích sâu trên cơ sở khái quát từ
thực tiễn ở huyện Đồ Sơn thành phố Hải Phòng cho đến nhân rộng sang các tỉnh
phía Nam và chứng minh rằng chế độ khoán mới là đúng theo nguyên tắc quản lý
XHCN, là phương thức quản lý tiến bộ, thích hợp với trình độ sản xuất thủ công
lúc bấy giờ ở các đơn vị hợp tác xã nông nghiệp, văn minh hơn nhiều so với khoán
việc trước đây. Khoán là hình thức phân phối thích hợp trong các hợp tác xã nông
nghiệp nhân tố tích cực để có thể kích thích hàng triệu con người hăng say lao
động, phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, góp phần củng cố quan hệ sản
xuất XHCN. Sự phân phối ấy là thích hợp trong các hợp tác xã nông nghiệp lúc
bấy giờ. Đồng thời các tác giả phê phán những quan điểm bảo thủ trong nhận thức
tư tưởng về vấn đề này, qua đó làm sáng tỏ nghị quyết của Đảng, khẳng định cơ sở
khoa học, cơ sở lý luận của vấn đề khoán sản phẩm trong nông nghiệp.
Trong cuốn “Chuyển hẳn sang cơ chế hạch toán, kinh doanh XHCN: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa bỏ tập trung quan liêu – bao cấp, chuyển hẳn
sang hạch toán, kinh doanh XHCN” (của Đào Xuân Sâm, Nxb thành phố Hồ Chí
Minh, 1985). Tác giả đưa ra những vấn đề rất hệ trọng về tư tưởng, lý luận, chính
sách cấp bách trong cuộc sống. Tác giả nhận định sâu sắc ở thời điểm này (1985) cơ
chế quản lý cũ vẫn tồn tại mức độ khá nặng, cơ chế quản lý mới triển khai chậm; vì


6

vậy phải dứt khoát xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập
trung, dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN thì mới đẩy mạnh được
SXKD có hiệu quả. Theo tác giả thành phố Hồ Chí Minh là nơi thể hiện đầy đủ và

đậm nét mọi đặc điểm của nền kinh tế ở bước đầu thời kỳ quá độ, tại đó có thể thấy
đậm nét nhất những mặt tích cực và tiêu cực cũng như tính phức tạp của tình hình
kinh tế nước ta hơn nữa thành phố có những nhân tố mới, kinh nghiệm mới có ý
nghĩa chung cho cả nước; điều đó tạo thuận lợi cho việc tổng kết, khái quát lý luận.
Tác giả Lê Huy Thực trong bài viết “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam từ Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (Tháng 3/1989)
đến Đại hội X về vấn đề KTTN” nêu khái quát những đóng góp tích cực và hạn chế
của KTTN ở Việt Nam hiện nay; đưa ra các quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách về phát triển KTTN ở nước ta. Trong bài viết này tác giả cho rằng, cần
quan tâm thúc đẩy khu vực KTTN phát triển; tăng cường vai trò quản lý và điều
hành của nhà nước; tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và minh bạch trong việc
tiếp cận các nguồn lực nhằm khơi dậy mọi nguồn lực sản xuất của KTTN .
Trong công trình “Về việc phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay” (Luận án tiến sĩ của Trần Thị Hạnh, bảo vệ năm 1994), từ góc độ
kinh tế học, tác giả làm rõ những khái niệm cơ bản về hoạt động kinh doanh tư
nhân, các hình thức kinh doanh, vai trò, vị trí của khu vực KTTN; phân tích một
cách có hệ thống về quá trình phát triển của khu vực KTTN Việt Nam qua các thời
kỳ phát triển, nêu lên thực trạng của khu vực KTTN nước ta, những hạn chế về môi
trường kinh doanh mà khu vực kinh tế này đang vấp phải, từ đó đề xuất một số giải
pháp cụ thể để thúc đẩy khu vực KTTN phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm
đầu của đổi mới, nên vấn đề thúc đẩy khu vực KTTN còn có nhiều tranh luận, phức
tạp, cần được tiếp tục bổ sung phát triển để phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.
Trong công trình “KTTN ở Việt Nam từ năm 1986 đến năm 1995”(luận án
của Hồ Sỹ Lộc, bảo vệ năm 1995), tác giả làm rõ quá trình phát triển và nhận thức
về KTTN trong 10 năm đầu đổi mới, nêu lên một sự phát triển sinh động về thực
trạng KTTN ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 1995, đồng thời đưa ra nhận xét về đặc


7


điểm tính chất của khu vực KTTN và xu hướng phát triển trong những năm tiếp
theo. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra sáu bài học kinh nghiệm, đặc biệt tác giả nhấn mạnh
Đảng và Nhà nước cần phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của khu vực KTTN. Khi tiến
hành cải tạo quan hệ sản xuất phải căn cứ vào tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, đồng thời nhà nước phải tăng cường quản lý đối với khu vực kinh tế này.
Tác giả Xuân Hà “Trung Quốc thúc đẩy phát triển khu vực KTTN” (Tạp chí
Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay, số 3/2000) đề cập đến vai trò của chính phủ và
cho rằng chính phủ cần có những giải pháp trực tiếp kích thích phát triển KTTN;
mở rộng hơn nữa các thị trường vốn cho khu vực KTTN và làm lành mạnh hóa thể
chế pháp lý.
Trong công trình “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân – lý
luận và chính sách” (của Hà Huy Thành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002),
tác giả đã trình bày một cách khách quan, hệ thống về khu vực KTTN ở nước ta
hiện nay, đóng góp, hạn chế và nguyên nhân, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp
để tạo điều kiện cho KTTN tiếp tục phát triển theo đúng định hướng XHCN và có
những đóng góp to lớn cho nền kinh tế đất nước.
Trong cuốn KTTN trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay (do Tiến sĩ Đinh
Thị Thơm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003), tác giả đã phân tích
những thay đổi trong nhận thức về phát triển KTTN, những yếu tố tạo nên sự khác
biệt giữa chế độ TBCN và chế độ XHCN trong suốt nhiều thập kỷ qua, luận giải sự
tồn tại tất yếu của sở hữu tư nhân, KTTN trong giai đoạn phát triển hiện nay, phân
tích và đánh giá những hình thức đa dạng của nó ở phương Tây, cũng như ở phương
Đông. Các tác giả cho rằng, KTTN trong giai đoạn đầu là nguyên nhân tăng tỷ lệ
thất nghiệp, giảm tỷ lệ tăng GDP, tăng khoảng cách giàu nghèo; tuy nhiên về lâu
dài, KTTN trong điều kiện mới sẽ đẩy nhanh trở lại tăng trưởng kinh tế thông qua
quá trình phân bổ lại một cách hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là sự hỗ trợ nguồn
nhân lực từ các DN công nghiệp sang khu vực dịch vụ; sẽ là công cụ nâng cao tính
hiệu quả của toàn bộ đời sống kinh tế, góp phần làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu
kinh tế, cơ cấu ngành theo hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân nói riêng và nền



8

kinh tế thế giới nói chung.
Tác giả Lê Thanh Sinh trong bài viết “Tiếp tục đổi mới cơ chế để khuyến khích
phát triển KTTN ở nước ta hiện nay” (Tạp chí Triết học, số 1, 2003) cho rằng, sự đầu
tư của Nhà nước đối với khu vực KTTN là chưa thỏa đáng; cần tiếp tục tháo gỡ các
khó khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định chưa phù hợp với trình độ, quy mô kinh
doanh để KTTN có thể thụ hưởng những chính sách ưu đãi của nhà nước đối với tư
nhân ở nước ta hiện nay.
Tác giả Nguyễn Văn Trình trong bài “Sự tồn tại và phát triển tất yếu của
KTTN ở Việt Nam” (Tạp chí Phát triển kinh tế, 3/2003), phân tích những đóng góp
của KTTN vào GDP toàn quốc (giai đoạn 1996 - 2000) bên cạnh đó cũng nêu lên
những hạn chế, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát triển KTTN.
Công trình “Sở hữu lý luận và vận dụng ở Việt Nam” (của Nguyễn Văn
Thức, được công bố vào năm 2004). Đây là một trong những công trình nghiên cứu
sâu về sở hữu. Công trình này gồm có ba chương. Chương 1: Lý luận về sở hữu;
Chương 2: Các loại hình sở hữu và vai trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay; Chương 3: Vấn đề cải tạo và xây dựng các hình thức
sở hữu trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhìn
chung, công trình này đã trình bày một cách có hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa
Mác – Lê nin về sở hữu; tính tất yếu của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu. Tác giả
khẳng định Việt Nam cần phải đa dạng hóa hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ
khi nhấn mạnh vai trò của các loại hình sở hữu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, do giới hạn của mục đích nghiên cứu nên tác giả chưa bàn nhiều đến
một số vấn đề phức tạp liên quan đến sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, công
trình bảo vệ hơn 10 năm nên các số liệu nêu ra chủ yếu là kết quả của những năm
1996 – 1998 nên không tránh khỏi lạc hậu.
Cuốn sách “KTTN Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới, thực trạng và những
vấn đề” (TS. Đinh Thị Thơm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005) với
bài viết của tác giả Nguyễn Thanh Cừ, trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận

và thực tiễn phát triển, những hạn chế cũng như triển vọng phát triển của khu


9

vực KTTN, tác giả đã mạnh dạn kiến nghị những giải pháp nhằm thúc đẩy khu
vực KTTN phát triển trong những năm tiếp theo. Đặc biệt, tác giả đã rất sắc sảo
khia đưa ra nhận định cho rằng, khu vực KTTN ở nước ta là một dạng mở rộng
của loại hình CNTB nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế... Cần tích
cực phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác nhau,
để thu hút mọi nguồn vốn còn tiềm ẩn nhiều trong dân, để khai thác triệt để các
nguồn lực... trước hết cần khuyến khích các hoạt động đầu tư tư nhân vào các
lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Trong cuốn “Đổi mới và phát triển KTTN Việt Nam – thực trạng và giải
pháp” (của Lê Khắc Triết, Nxb Lao động, Hà Nội, 2005), tác giả phân tích thực
trạng của khu vực KTTN về đóng góp và hạn chế, từ đó đưa ra các giải pháp tạo
điều kiện cho khu vực KTTN ở nước ta phát triển.
Trong bài “Xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay”
(đăng trên tạp chí Triết học, số 3 (166), tháng 3 năm 2005), tác giả Lương Đình Hải
cho rằng: “Ở nước ta hiện nay, kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới hai dạng khác nhau.
Dạng thứ nhất là các doanh nghiệp tư bản tư nhân độc lập, chủ yếu là các doanh
nghiệp tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư vào nước ta. Dạng thứ hai là kinh tế tư bản
tư nhân chủ yếu cũng là của tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới hình thức
liên kết, liên doanh với kinh tế Nhà nước, tạo nên bộ phận cấu thành hữu cơ của
kinh tế tư bản Nhà nước” [83, tr.5]. Như vậy, dù không nói trực tiếp, nhưng qua
việc phân chia kinh tế tư bản tư nhân thành hai dạng như trên, tác giả Lương Đình
Hải đã ít nhiều khẳng định, kinh tế có vốn đầu tư của tư bản nước ngoài, cũng là
một bộ phận của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay.
Trong công trình “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển KTTN từ

năm 1986 đến năm 2005” (Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Lương Diệu, bảo vệ năm
2005). Dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả đã làm
rõ quá trình hình thành và phát triển tư duy của Đảng về vai trò, vị trí của KTTN, hệ
thống lại những chủ trương, đường lối và quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện việc


10

phát triển KTTN của Đảng trong 20 năm đổi mới. Tác giả đưa ra một số giải pháp
cần tiếp tục giải quyết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả phát triển KTTN. Tuy
nhiên, do đặc điểm và phạm vi của chuyên ngành nghiên cứu nên luận án không
trình bày một cách cụ thể về sự phát triển của KTTN trong từng loại hình kinh tế (cá
thể, tiểu chủ, và tư bản tư nhân...), đặc biệt không phân tích sâu những vấn đề về
quan hệ sản xuất, về sự phù hợp của quan hệ sản xuất trong khu vực KTTN đối với
trình độ của một bộ phân lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, công
trình của tác giả cũng đã gợi mở nhiều vấn đề cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu về
KTTN dưới góc độ triết học, cung cấp thêm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc
hoạch định chính sách của Đảng đối với khu vực KTTN.
Công trình “Sở hữu tư nhân và KTTN trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam” (do GS.TS.Nguyễn Thanh Tuyền chủ biên, xuất bản
năm 2006, là kết quả của công trình nghiên cứu đề tài khoa học cấp nhà nước
KX.01.04 thuộc chương trình KX.01) được viết trước Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng (8-2006). Các tác giả góp phần làm rõ những vấn đề của khu
vực KTTN trong CNXH, gợi ra những vấn đề để cùng suy nghĩ một cách nghiêm
túc theo hướng tích cực. Điều đặc biệt, các tác giả không chỉ đề cập đến bản
chất, vai trò và thực trạng phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta, mà còn nêu lên những nhận thức của mình về những
vấn đề “cần được làm rõ” như vấn đề bóc lột, vấn đề trả công cho lao động
sống, những lực lượng tạo ra giá trị mới bao gồm giá trị thặng dư và đảng viên
tham gia làm kinh tế tư bản tư nhân... Những kết quả nghiên cứu ở đây tuy chưa

được soi rọi bởi ánh sáng của các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(8-2006) song lại có giá trị lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Trong công trình “Phát triển các DNNVV trong lĩnh vực khoa học – công
nghệ kinh nghiệm Hungary và vận dụng vào Việt Nam” (của GS.TSKH Lê Du
Phong chủ biên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006), các tác giả đã lý giải kinh
nghiệm phát triển các DNNVV, các loại hình tổ chức hoạt động chuyển giao trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ ở Hungary, phân tích thực trạng phát triển các


11

DNNVV, các loại hình tổ chức hoạt động chuyển giao trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
của nó, trên cơ sở đó kiến nghị với Đảng và Chính phủ Việt Nam về các giải pháp
chủ yếu nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển các DNNVV, các hình thức
tổ chức hoạt động chuyển giao trong lĩnh vực khoa học công nghệ những năm tới.
Cũng bàn về vấn đề sở hữu, song bài viết “Đổi mới nhận thức về sở hữu và
đảng viên làm kinh tế tư nhân” của tác giả Phạm Văn Đức (đăng trên Tạp chí Cộng
sản, số 16 năm 2006) đã khẳng định, quá trình đổi mới có được những thành tựu
căn bản là do những đổi mới về kinh tế và yếu tố có ý nghĩa quyết định là đổi mới
nhận thức về sở hữu, trong đó, một trong những cơ sở để đổi mới quan niệm về sở
hữu là sự thay đổi quan niệm từ chỗ, coi sở hữu chủ yếu là mục đích sang quan
niệm coi sở hữu vừa là mục đích, vừa là phương tiện để đạt mục đích. Vấn đề sở
hữu tư nhân, tác giả nhấn mạnh; nếu như trước đây, các thành phần kinh tế chủ yếu
được xây dựng trên cơ sở sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thì hiện nay, nhiều
thành phần kinh tế được xây dựng và phát triển trên cơ sở sở hữu tư nhân hoặc sở
hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất. Còn khi bàn đến giải pháp đối với sở hữu tư nhân,
tác giả cho rằng: “Ở Việt Nam, khi nào sở hữu tư nhân bị xóa bỏ là một vấn đề rất
khó xác định về mặt thời gian. Nhưng về phương pháp luận, có thể khẳng định, chỉ
khi nào sở hữu tư nhân không còn là hình thức tất yếu của lực lượng sản xuất,

không còn đóng vai trò thúc đẩy lực lượng sản xuất và trở thành “xiềng xích” mâu
thuẫn gay gắt với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì khi đó, sở hữu tư nhân sẽ
không còn tồn tại” [79, tr.36]. Đây là nhận định khoa học, vừa có cơ sở lý luận, vừa
có cơ sở thực tiễn. Công trình là nguồn tài liệu tham khảo quý giá đối với chúng tôi
trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
Trong công trình "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về động lực phát triển
đất nước đến năm 2020" (đề tài nghiên cứu cấp bộ do PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà
làm chủ nhiệm năm 2007), các tác giả đã góp phần làm rõ hơn khái niệm động lực
phát triển xã hội và một số động lực cơ bản của sự phát triển đất nước ta trong giai
đoạn từ nay đến năm 2020. Các tác giả khẳng định phát triển KTTN là động lực


12

thúc đẩy phát triển kinh tế, không chỉ thể hiện ở tỷ lệ đóng góp của nó cho GDP của
đất nước mà còn thể hiện ở tính hiệu quả của nó. Nhưng trên thực tế vai trò động
lực của nó vẫn chưa được phát huy ở mức cao nhất và trong nhận thức của nhiều
người vai trò đó cũng chưa được thừa nhận một cách đúng mức. KTTN chưa được
tạo đủ điều kiện thuận lợi để phát triển, quy mô còn nhỏ, sức cạnh tranh còn yếu và
chưa được quản lý tốt. Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần có nhiều ưu đãi trong cơ chế
chính sách để phát huy tiềm năng khu vực kinh tế này.
Công trình Doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và liên kết trong hội nhập (của
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh và TS.Nguyễn Minh Phong đồng chủ biên, Nxb Tài
chính, Hà Nội, 2007) hệ thống hóa những nội dung, hình thức hợp tác giữa các
doanh nghiệp, thành phần kinh tế trong thời kì đổi mới, từ đó đề xuất phương hướng
và những biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự hợp tác liên kết kinh tế giữa các
doanh nghiệp, thành phần kinh tế phù hợp với xu hướng đẩy mạnh đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế, trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên của WTO. Đồng
thời các tác giả đánh giá và đưa ra một số kinh nghiệm trong quá trình hợp tác, liên
kết kinh tế giữa các DN Nhật Bản, Trung Quốc và một số quốc gia trong khu vực.

Bên cạnh đó, tập thể tác giả đánh giá thực trạng phát triển hợp tác, liên kết kinh tế giữa
các DN và thành phần kinh tế trong các khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế thị trường,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và KTTN trên địa bàn Thủ đô Hà Nội cũng như sự
hợp tác, liên kết kinh tế giữa Hà Nội với các địa phương khác trong cả nước như một ví
dụ điển hình trong quá trình hợp tác, liên kết kinh tế giữa các DN, các thành phần kinh
tế, các địa phương Việt Nam trong thời gian đổi mới vừa qua. Công trình là một tài liệu
hữu ích với các cơ quan hoạch định chính sách thúc đẩy và thực hiện hợp tác, liên kết
kinh tế vì sự phát triển giữa các DN, các thành phần kinh tế và giữa các địa phương
trong cả nước.
Luận án “Phát triển DNTN ở Trung Quốc và một số gợi ý đối với Việt Nam”
của tiến sĩ kinh tế Đinh Đào Ánh Thủy (hoàn thành 2007). Tác giả đã hệ thống hóa
những lý luận chính làm cơ sở cho việc phát triển DNTN ở Trung Quốc, đặc biệt
trong số đó có những lý luận mới và mang màu sắc riêng của Trung Quốc. Luận án


13

phân tích con đường hình thành và phát triển của DNTN ở Trung Quốc là: thành lập
mới và từ cải cách doanh nghiệp nhà nước. Đây là sự phát triển từng bước nhằm
đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị và xã hội. Đặc biệt, luận án chú trọng đến sự phát
triển các DNTN hình thành mới – một trong những yếu tố rất quan trọng làm cho
nền kinh tế của Trung Quốc trở nên lớn mạnh như ngày nay. Các DNTN hoạt động
theo cơ chế thị trường song vẫn đảm bảo được mục tiêu và định hướng phát triển
kinh tế mà Đảng cộng sản Trung Quốc đã vạch ra. Luận án đã đúc rút được những
bài học kinh nghiệm thành công cũng như chưa thực sự thành công về phát triển
DNTN của Trung Quốc và gợi mở một số kiến nghị trong hoạch định chính sách
đối với DNTN ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.
Tác giả Bùi Thanh trong công trình “KTTN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam” (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4/2008) lý giải sự tồn tại, phát triển của
KTTN ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan, hợp

quy luật.
Công trình “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung
Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI” (PGS.TSKH. Lương Việt Hải chủ biên,
2008) là tập hợp các bài viết của hai cuộc hội thảo giữa Viện Triết học thuộc Viện
Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Triết Khoa học xã hội Trung Quốc; đó là cuộc
hội thảo lần thứ 4 (với chủ đề Vấn đề sở hữu: Kinh nghiệm Việt Nam và Trung
Quốc trong quá trình đổi mới, cải cách và mở cửa, diễn ra tại thành phố Hồ Chí
Minh tháng 10 – 2004) và cuộc hội thảo lần thứ 5 (với chủ đề Quan điểm phát triển
khoa học và xã hội hài hòa được tổ chức tại thành phố Hạ Môn và Vũ Di Sơn, Trung
Quốc vào tháng 9/ 2006). Trong công trình này có các bài viết của các tác giả như:
Nguyễn Trọng Chuẩn với “Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến
lược của nó đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay”; Phạm Văn Đức với “Đổi
mới về sở hữu ở Việt Nam; một số cơ sở lý luận”; Lương Việt Hải với “Xu hướng
phát triển với KTTN ở nước ta hiện nay”; Cát Lương Chí với “Khích lệ, cổ vũ và dẫn
đường cho sự phát triển các thành phần kinh tế phi công hữu – chính sách kiên định,
không đổi của Trung Quốc”... Nhìn chung các bài viết đều tập trung vào việc khái


14

quát những quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản
Trung Quốc về vấn đề sở hữu, chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tạo điều
kiện thuận lợi cho sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp phát triển. Các tác giả cũng đưa ra
những cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định tính đúng đắn của những chủ trương
đó. Đây là những bài viết, là các tham luận trong các cuộc hội thảo khoa học, do vậy
các tác giả chưa phân tích sâu, cụ thể về sở hữu ở Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.
Trong công trình “Đảng viên làm KTTN, thực trạng và giải pháp”
(PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010), các tác giả phân tích cơ sở khoa học của vấn đề Đảng viên làm KTTN, chỉ
rõ quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lênin về sở hữu tư nhân, KTTN và

vai trò của đảng viên cộng sản trong phát triển kinh tế, nêu lên nhận thức của
Đảng ta về KTTN và về vấn đề đảng viên làm KTTN; phân tích thực trạng Đảng
viên làm KTTN ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề đặt ra từ thực tiễn đảng viên
làm KTTN; trên cơ sở đó đề xuất định hướng và những giải pháp nhằm thúc đẩy
đảng viên làm KTTN ở Việt Nam trong thời gian tới.
Công trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam” (Nguyễn Kế Tuấn chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010) là
công trình nghiên cứu công phu, có ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Tác
giả cùng với cộng sự đã khái quát hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin và
quan điểm của nhiều nhà khoa học về sở hữu, trên cơ sở đó làm sáng tỏ nhiều vấn
đề lý luận về sở hữu, về mối quan hệ sở hữu với các tổ chức, hình thức kinh tế trong
nền kinh tế thị trường. Tập thể tác giả trình bày các quan điểm, chủ trương về sở
hữu và các thành phần kinh tế qua các kỳ Đại hội của Đảng, đánh giá sâu sắc thực
trạng của các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế và các loại hình DN trong đổi
mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay; đưa ra quan điểm, xu hướng, giải pháp đối với
hình thức sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước, sở hữu tư nhân, KTTN (nhấn mạnh
cần tạo điều kiện về mọi mặt cho KTTN có cơ hội khẳng định và phát triển).
Trong công trình “Phát triển đội ngũ DN Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020”
(PGS.TS. Hoàng Văn Hoa chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010), các tác


15

giả nêu lên một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển đội ngũ doanh nhân trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, kinh nghiệm xây dựng và phát triển doanh nhân ở một số
nước và vùng lãnh thổ; trình bày về thực trạng phát triển của đội ngũ doanh nhân
Việt Nam, các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển, đặc điểm, đóng góp
của doanh nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đưa ra giải pháp
phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 để góp phần xây
dựng nước ta nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp.

Trong cuốn “Nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh và bền vững nền
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020” (của Ngô Doãn Vĩnh chủ biên, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011), tác giả đã đề cập đến những vấn đề lý
luận như; nguồn lực và động lực của sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế
Việt Nam trong điều kiện mới; quan niệm, phương cách và biện pháp huy động và
sử dụng nguồn lực, tạo lập, duy trì và phát huy động lực đối với phát triển nhanh và
bền vững; kinh nghiệm một số nước về huy động, sử dụng nguồn lực và tạo động
lực cho phát triển kinh tế; thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực, tạo lập, duy
trì và phát huy động lực cho phát triển kinh tế Việt Nam trong 25 năm đổi mới; định
hướng huy động và sử dụng nguồn lực, hình thành và phát huy động lực cho phát
triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020; những nhân tố mới tác động
đến nguồn lực và động lực phát triển kinh tế nhanh và bền vững; những điều kiện
cơ bản bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và động lực trong bối cảnh mới
của quá trình toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế; dự
báo yêu cầu của việc huy động, sử dụng nguồn lực và tạo lập động lực cho phát
triển kinh tế nhanh và bền vững của Việt Nam; các giải pháp để huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực, duy trì liên tục phát huy tốt nhất các động lực để
phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020. Trong
công trình nghiên cứu này tác giả đề cập nhiều đến vai trò của kinh tế thị trường đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội; thực trạng đội ngũ DN của Việt Nam hiện nay;
những cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển KTTN.
Công trình “KTTN và vai trò động lực tăng trưởng” (của Vũ Hùng Cường chủ


16

biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011) là kết quả nghiên cứu của đề tài: “Một số
vấn đề cơ bản về phát triển khu vực KTTN, với tư cách là động lực cơ bản của mô
hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 – 2020” thuộc chương trình nghiên cứu
khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam

giai đoạn 2011 – 2020” do Viện Kinh tế Việt Nam chủ trì thực hiện giai đoạn 2009 –
2010). Trong công trình nghiên cứu này các tác giả đã rà soát lại các quan điểm và
chính sách liên quan đến phát triển khu vực KTTN, đánh giá thực trạng phát triển của
khu vực KTTN và đóng góp của khu vực này đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020. Để những minh chứng có sức thuyết phục việc
phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của khu vực KTTN đối với tăng trưởng và phát
triển ở Việt Nam, các tác giả đã tiến hành so sánh giữa ba khu vực kinh tế (kinh tế
nhà nước, KTTN trong nước, FDI) theo các tiêu chí đóng góp trong GDP và tăng
trưởng kinh tế, đóng góp vào xuất khẩu, đóng góp vào ngân sách, đóng góp vốn, lao
động, hiệu quả đầu tư, quy mô vốn, nhân lực cạnh tranh, sự tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu, khả năng dẫn dắt, thúc đẩy và tạo nền móng cho nền kinh tế phát triển, khả
năng nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế. Tuy nhiên, các tác
giả chưa làm rõ vai trò động lực của khu vực KTTN đối với nền kinh tế, chưa lý giải
được những yêu cầu của thực tiễn đối với KTTN.
Các tác giả Lương Minh Cừ và Vũ Văn Thư đã nghiên cứu đề tài “Sở hữu tư
nhân và KTTN ở Việt Nam hiện nay – một số nhận thức về lý luận và thực tiễn”
(được công bố vào năm 2011). Trong cuốn sách này, các tác giả đã góp phần làm rõ
thêm nhận thức lý luận chung về sở hữu và sở hữu tư nhân; bản chất, vai trò, vị trí
của vấn đề sở hữu tư nhân, KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực cho sự nghiệp đổi mới
hiện nay, làm rõ hơn quy luật vận động, xu thế phát triển của sở hữu tư nhân, KTTN
trong giai đoạn hiện nay và tương lai. Tuy nhiên, sở hữu tư nhân, KTTN là vấn đề
rất phức tạp, một số quan điểm riêng của tác giả đặt ra trong cuốn sách về “khu vực
kinh tế”, “thành phần kinh tế”, về “vị trí” và “vai trò” động lực của KTTN... cần
tiếp tục được phân tích thấu đáo hơn trên cơ sở phù hợp với yêu cầu của các quy


17

luật kinh tế khách quan và với tiến trình hội nhập quốc tế. Các tác giả nhận định: Sở

hữu tư nhân, KTTN không chỉ tồn tại và phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
mà nó sẽ còn tồn tại trong thời kỳ chúng ta xây dựng CNXH. Có người lo sợ rằng
sở hữu tư nhân đang trên đà phát triển mạnh mẽ hiện nay là phát triển TBCN. Các
tác giả khẳng định rằng phát triển KTTN sẽ thúc đẩy được lực lượng sản xuất phát
triển; tăng cường nội lực của nền kinh tế XHCN; góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Đó chính là tiêu chí để đánh giá thành phần kinh tế
này có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do vậy, không
nên lấy sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân làm tiêu chí duy nhất để phân biệt
CNXH với CNTB.
Cuốn “Động lực thúc đẩy cải cách kinh tế tại các tỉnh ở Việt Nam, Một số bài
học từ cải cách kinh tế” (của nhóm tác giả Hubert Schmitz, Đậu Anh Tuấn, Phạm Thị
Thu Hằng, Neil McCulloch, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2012) là kết
quả của dự án hợp tác giữa Viện nghiên cứu phát triển (IDS) của Đại học Sussex,
Vương quốc Anh và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Các tác
giả khẳng định khu vực KTTN đang đóng vai trò quan trọng tại các tỉnh, khu vực
KTTN đã không đi ngược lại mà đồng hành cùng chính quyền; chính quyền nhìn thấy
vai trò của khu vực tư nhân, khu vực tư nhân luôn tìm kiếm sự hợp tác hỗ trợ hiệu
quả từ chính quyền; KTTN đã mang lại những lợi ích chung thiết thực.
Công trình “Tư duy kinh tế Việt Nam 1975 – 1989” (GS. Đặng Phong, Nxb Tri
thức, Hà Nội, 2009) và cuốn “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” (Đặng
Phong, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012) là hai công trình nói về con đường phát triển
KTTN từ đêm trước đổi mới cho đến nay. Tác giả đã khai thác triệt để qua những
nhân chứng lịch sử, từ các cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước cho đến các sự kiện
trong mỗi chặng đường phát triển; qua đó góp phần dựng lại một bức tranh sôi động,
phong phú về những tìm tòi, tháo gỡ thời kỳ “phá rào”, tức là vượt qua những hàng
rào về quy chế đã lỗi thời, để chủ động tháo gỡ nhiều ách tắc trong cuộc sống, dẹp bỏ
hàng loạt rào cản cũ kĩ, mở đường cho công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam.


18


1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực của khu
vực KTTN ở Nghệ An
Trong số các các công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực của

khu vực KTTN ở Nghệ An có các công trình tiểu biểu sau.
Công trình “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 3 (1975 – 2005)” (của Ban chấp
hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam, tỉnh Nghệ An, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2008) là công trình mang tính chất tổng thể, khái quát về đặc điểm tự nhiên, dân
cư. Các tác giả làm rõ quá trình tỉnh Nghệ An lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện công cuộc đổi mới, rút ra một số kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ tỉnh Nghệ An, trong đó có khu vực KTTN.
Trong công trình “Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu sản phẩm chiến
lược ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020)” (Đậu Quang Vinh chủ
biên, Nxb Nghệ An, 2011) đã phân tích tiềm năng, lợi thế, cơ cấu sản phẩm chiến
lược của Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng; đưa ra dự báo góp phần để
Nghệ An phát triển đúng hướng trong xu thế hội nhập quốc tế; đề xuất định hướng
phát triển một số ngành và sản phẩm mũi nhọn, có khả năng tạo đột phá mạnh và
lan tỏa phát triển nhanh. Công trình giúp cho DN thuộc khu vực KTTN ở Nghệ An
có phương hướng để điều chỉnh đầu tư ngành, nghề hợp lý và hiệu quả.
Tác giả Hoàng Nam Hưng trong công trình “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo
phát triển KTTN từ năm 2000 đến năm 2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm
2012) phân tích quá trình lãnh đạo phát triển KTTN của Đảng bộ Nghệ An từ năm
2000 đến năm 2005; hệ thống hóa những chủ trương của Đảng bộ về phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, về vị trí, vai trò của KTTN trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, về công tác lãnh đạo phát triển KTTN ở Nghệ An trước từ năm 2000 đến
năm 2005; phân tích những bước phát triển mới trong công tác lãnh đạo phát triển
KTTN của Đảng bộ tỉnh Nghệ An từ năm 2006 – 2010; đưa ra một số nhận xét về
kinh nghiệm chủ yếu trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển KTTN ở Nghệ An từ
năm 2000 đến năm 2010.



19

Đặng Thành Cương trong công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm
2012) tác giả đã phân tích hoạt động thu hút vốn FDI vào địa phương, thực trạng
vốn FDI tại tỉnh Nghệ An, hiệu quả sử dụng vốn FDI tại tỉnh Nghệ An. Đặc biệt để
đảm bảo tính chính xác của thông tin, tác giả sử dụng phần mềm Eview 4 để tiến
hành hồi quy mô đánh giá hiệu quả vốn FDI thực hiện tại tỉnh Nghệ An. Luận án
cũng khẳng định hiệu quả sử dụng vốn FDI còn thấp so với kỳ vọng được chứng
minh qua tác động của vốn FDI đến đóng góp vào kinh tế, tạo việc làm, cải thiện
môi trường. Đồng thời cũng chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong
đó nhấn mạnh đến cơ sở hạ tầng kỹ thuật, quản lý Nhà nước, hoạt động xúc tiến và
chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Chúng tôi cũng rất tâm đắc với tác giả: Việc
tăng cường thu hút FDI tại Nghệ An cần gắn quy mô với chất lượng và hiệu quả sử
dụng, chứ không thu hút bằng mọi giá.
Công trình “Phát triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong gia đoạn hiện nay”
(Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ của trường Đại học Vinh, do Th.s. Nguyễn
Thị Diệp chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010 - 27- 90) phân tích những
vấn đề lý luận về KTTN; đánh giá vai trò KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta nói chung và miền Tây Nghệ An nói riêng; phân tích thực trạng phát
triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong thời kỳ đổi mới được thể hiện; sự phát triển
nhanh về số lượng và đa dạng của KTTN trong các ngành nghề sản xuất kinh
doanh; thu hút lao động tạo việc làm của KTTN, đã huy động được khối lượng lớn
vốn trong dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của
KTTN ở miền Tây ngày càng cao; khu vực KTTN góp phần xây dựng quan hệ sản
xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Luận văn cao học của Nguyễn Thị Trang, chuyên ngành kinh tế phát triển, với
đề tài "Phát triển KTTN ở tỉnh Nghệ An" bảo vệ năm 2014. Trong công trình tác giả

đã hệ thống hóa về mặt lý luận liên quan đến phát triển KTTN. Thực trạng và những
đóng góp của khu vực KTTN ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn 2009 – 2013, biểu hiện;
số lượng các doanh nghiệp tăng nhanh, chuyển dịch cơ cấu ngành hợp lý, quy mô các


×