Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu mặt hàng chè tại công ty mẹ tổng công ty chè việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.45 KB, 103 trang )

PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Hơn chục năm qua nước ta đã thực hiện chiến lược kinh tế chuyển từ
“đóng cửa” sang “mở cửa”, từ thay thế nhập khẩu hướng vào xuất khẩu. Nhà
nước thực hiện chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là tiền đề để
thực hiện Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là mũi nhọn có ý nghĩa
quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
Định hướng xuất khẩu đã được Đảng và nhà nước ta khẳng định rõ từ
đại hội lần thứ VIII của Đảng: “Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường sản xuất các
mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả… là một trong những nhiệm vụ
chiến lược quyết định sự thành công của sự nghiệp Công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước”. Nước ta vẫn là một nước nghèo, thiếu vốn một cách trầm
trọng. Trong khi đó, quá trình phát triển luôn đòi hỏi phải nhập khẩu một
lượng ngày càng nhiều máy móc, thiết bị nguyên vật liệu… chỉ có thực hiện
đẩy mạnh xuất khẩu thì mới có thể thu được nhiều ngoại tề, bổ sung nguồn
vốn cho xuất khẩu, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Ngày nay xuất khẩu không còn bó hẹp theo nghĩa rộng thông thường
của buôn bán trao đổi hàng hoá hữu hình vượt ra khỏi biên giới địa lý của một
quốc gia, mà phải kể đến các hoạt động dịch vụ mà doanh nghiệp trong nước
tiến hành ở nước ngoài hoặc ngay tại trong nước đối với các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân nước ngoài (xuất khẩu tại chỗ). Sự gia tăng cạnh tranh quốc tế
của các doanh nghiệp, kể cả trong nước và thị trường nội địa, thúc đẩy các
doanh nghiệp của nhiều nước tăng cường sử dụng các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt
động xuất khẩu. Chính các dịch vụ náy đã hợp thành các chuỗi mắt xích quan
trọng tạo khả năng nâng cao giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp. Các chuỗi
1


mắt xích này qua kinh nghiệm của các nước được hình thành các bộ phận dịch


vụ hỗ trợ xuất khẩu.
Xuất phát từ việc đó cùng với kiến thức đã được trang bị tại trường và
những thực tế trong đợt thực tập tốt nghiệp tại Tổng công ty Chè Việt Nam
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu mặt hàng chè tại Công ty mẹ - Tổng
công ty chè Việt Nam”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu mặt hàng Chè tại Công
ty mẹ - Tổng công ty chè Việt Nam (gọi tắt là Công ty mẹ)
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
− Tìm hiểu tình hình sử dụng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu ở Công
ty mẹ.
− Tìm hiểu thực trạng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu của Công ty mẹ.
− Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu
mặt hàng chè của Công ty mẹ trong thời gian tới
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
* Những hiểu biết khái quát về xuất khẩu, dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu
- Xuất khẩu và dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu là như thế nào?
- Tại sao phải nâng cao dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu?
- Vài trò của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như thế nào tới khả năng xuất
khẩu của Công ty?
- Những nhân tố nào ảnh hưởng tới dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu?
* Các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản và tình hình sử dụng các dịch
vụ của Công ty
- Dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu gồm những dịch vụ nào?
Tình hình sử dụng những dịch vụ này hiện nay của công ty ra sao?
2



- Mức độ sử dụng các dịch vụ này như thế nào?
- Ưu nhược điểm của việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ xúât khẩu
* Giải pháp đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu
- Tác động của dịch vụ hỗ trợ tới sản xuất kinh doanh
- Giải pháp đề xuất nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu
1.4 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính: Dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu:
+ Dịch vụ thông tin, nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại
+ Dịch vụ tài chính và bảo hiểm
+ Dịch vụ kiểm định và chứng nhận hàng hoá
+ Dịch vụ kho vận và giao nhận hàng hoá
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1 Về nội dung
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu
mặt hàng chè tại Công ty mẹ - Tổng công ty chè Việt Nam
1.4.2.2 Về không gian
Đề tài được thực hiện tại Công ty mẹ - Tổng công ty chè Việt Nam
1.4.2.3 Về thời gian
Các số liệu thông tin phục vụ cho đề tài được cung cấp từ giai đoạn từ
2007- 2009, có điều tra cụ thể năm 2009, các biện pháp đề xuất có thể áp
dụng trong năm 2010- 2015.

3


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1 Cơ sở lý luận

2.1.1 Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
2.1.1.1 Khái niệm của xuất khẩu
Xuất khẩu là một trong những định hướng phát triển kinh tế cơ bản của
nhà nước là hoạt động kinh doanh để để đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện
thúc đẩy phát triển kinh tế
Trong bất kỳ một quốc gia nào khi tham gia vào môt hoạt động thương
mại quốc tế đều phải tính hiệu quả thu được từ hoạt động xuất nhập khẩu điều
này xuất phát từ vai trò của xuất khẩu trong cơ chế thị trường
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và
lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích
liên kết sản xuất tiêu dùng của nước này với nước khác, hoạt động đó không
chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là sự tham gia của toàn bộ hệ thống
kinh tế với sự điều hành của nhà nước.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối
ngoại. Nó được ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và lợi thế so sánh
giữa các nước khác nhau xuất khẩu ngày càng trở nên cần thiết và không thể
thiếu đối với các quốc gia trên thế giới, chính vì vậy nó có vai trò to lớn đến
sự phát triển xã hội của mỗi quốc gia
2.1.1.2 Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển nền kinh tế ở Việt Nam
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hoá
của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa người sản
xuất nước này với người tiêu dùng nước khác. Nền kinh tế xã hội phát triển
như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này.
4


Thông qua hoạt động xuất khẩu sẽ giúp cho nền kinh tế của các quốc
gia có điều kiện xích lại gần nhau hơn góp phần vào xu thế khu vực hoá và
toàn cầu hoá nền kinh tế.
a) Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá

- hiện đại hóa đất nước
Hoạt đông xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho các quốc gia cùng nhau trao đổi
phương pháp quản lý, trao đổi các thành tựu khoa học tiên tiến … đây là yếu
tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
Công nghiệp hoá với bước đi phù hợp là con đường tất yếu để khắc
phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Nhưng sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải có bốn điều kiện:
nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật. Song không phải bất cứ quốc gia nào
cũng có đủ các điều kiện này. Thực tế cho thấy, hầu hết các quốc gia đang
phát triển đều thiếu vốn kỹ thuật và thừa lao động. Để khắc phục tình trạng
này họ buộc phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà trong nước chưa có khả
năng cung ứng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào có đủ ngoại tệ cần thiết cho việc
nhập khẩu này.
Ở các nước đang phát triển cũng như các nước kém phát triển, hoạt
động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ phát triển chưa mạnh. Do đó nguồn vốn
quan trọng nhất mà mỗi nước có thể huy động để nhập khẩu, công nghiệp hoá
– hiện đại hoá đất nước là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu quyết
định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu
b) Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển
Thông qua hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ
hội phát triển. Mà xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp
phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả
năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước
5


Xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn kỹ thuật công nghệ từ
thế giới bên ngoài vào Việt Nam tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm
cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua xuất khẩu hàng

hoá Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về
giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại
sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường, các
doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện tổ chức kinh doanh
Hoạt động xuất khẩu góp phần tạo nên sự liên kết giữa các nền kinh tế
của các quốc gia trên thế giới, thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động kinh tế
đối ngoại khác như: dịch vụ thương mại, bảo hiểm, thông tin liên lạc quốc tế
hay kinh doanh du lịch quốc tế
Xuất khẩu góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền
kinh tế đóng sang một nền kinh tế hướng ngoại
Bởi vì, xuất phát từ những nhu cầu của thi trường thế giới để sản xuất
và xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường cần việc đó có tác động tích cực,
từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước một cách hợp lý hơn, từ đó
góp phần nâng cao đời sống của nhân dân
c) Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết
sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có
thu nhập ổn định
Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của mỗi nước trên thị trường thế
giới và tăng cường kinh tế đối ngoại đồng thời hoạt động xuất khẩu đem lại
ngoại tệ góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán là một trong bốn chỉ tiêu
chính đánh giá nền kinh tế của một đất nước
Cùng với sự phát triển của hoạt động xuất khẩu, nền kinh tế nước ta sẽ
phát triển mạnh trong lĩnh vực sản xuất và chế biến hàng hoá xuất khẩu. Mặt
6


khác, do yêu cầu cao của hàng hoá xuất khẩu như về chất lượng, mẫu mã,
chủng loại … để đáp ứng được nhu cầu của thị trường quốc tế tay nghề của

người lao động không ngừng được nâng cao, tạo ra đội ngũ lao động lành
nghề cho đất nước trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
d) Xuất khẩu phát huy lợi thế so sánh của nước ta với các nước trên thế giới
Nhiều chuyên gia kinh tế trong nước và ngoài nước khi nói về tiềm
năng kinh tế của Việt Nam đã nhấn mạnh về nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, lực lượng lao động dồi dào, có trình độ đào tạo khá cao là một lợi
thế so sánh quan trọng. Hơn nữa, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của
Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, rất dễ thay đổi mô hình kinh doanh và
nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng quản lý cũng như nghiệp vụ
marketing của nước ngoài.
Ngoài những lợi thế trên, từ năm 1986 với chính sách đổi mới và mở
cửa nền kinh tế, chấp nhận quyền sở hữu tư nhân và đảm bảo các điều kiện
cần thiết để phát triển kinh doanh tư nhân, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể, tăng trưởng cao, lạm phát thấp, cán cân thanh toán
hợp lý.
Với gần 85,8 triệu dân, Việt Nam hiện là nước đông dân thứ 3 trong
khối ASIAN và thứ 13 trên thế giới. Việt Nam được coi là bạn hàng tiềm
năng không chỉ trong khối ASIAN mà còn đối với cả thế giới. Với những lợi
thế so sánh của mình Việt Nam còn có những điều kiện lựa chọn chiến lược
xuất khẩu và tiến tới sản xuất, xuất khẩu những sản phẩm công nghệ cao, cần
nhiều vốn
e) Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ
thuộc lẫn nhau và xuất khẩu chính là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể
hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và nó
7


tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển. Mặt khác

chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu
Thông qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bày bán trên
thị trường thế giới sẽ thu hút được sự chú ý của các đối tác nước ngoài. Các
doanh nghiệp nước ngoài sẽ tìm đến đầu tư, hợp tác, liên doanh để cùng tìm
kiếm lợi nhuận, từ đó quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được mở rộng
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế
giới, đồng thời gắn liền sản xuất trong nước với phân công lao động quốc tế.
Chính vì vậy hoạt động xuất khẩu là một trong nội dung chính của lĩnh vực
kinh tế đối ngoại của mỗi nước đối với phần còn lại của thế giới
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ sang nền
kinh tế hàng hoá, bước đầu đã thích nghi phần nào với điều kiện cạnh tranh của
thị trường song vấn đề đặt ra đối với chúng ta là phải tiếp tục xây dựng những
chính sách đòn bẩy, những giải pháp đồng bộ và nhất quán để đẩy mạnh nền
kinh tế đất nước phát triển đúng hướng đồng thời hoà nhập với xu thế chung của
thế giới nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam thì một trong những
dấu hiệu chuyển mình đó là phải đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu
không những có ý nghĩa to lớn đối với các doanh nghiệp nói riêng mà còn có
tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế của một quốc gia nói chung
Như vậy, có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo động lực cần thiết cho
việc giải quyết vấn đề thiết yếu của nền kinh tế mỗi quốc gia, thúc đẩy quá
trình chuyên môn hoá quốc tế. Điều này nói lên tính khách quan của việc tăng
cường xuất khẩu trong quá trình phát triển nền kinh tế của mỗi của nước
2.1.1.3 Vai trò xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Xuất khẩu hàng hóa có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các
mục tiêu và chiến lược mà doanh nghiệp đang theo đuổi, thúc đẩy hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp.
Qua hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham
gia vào cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng và mẫu mã
8



của sản phẩm mình đưa vào thị trường thế giới. Chính yếu tố này buộc các
doanh nghiệp phải năng động sáng tạo để tìm ra cho mình một hướng đi đúng,
phù hợp để có cơ hội tồn tại trên thị trường quốc tế.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công
tác quản trị kinh doanh. Đồng thời tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp
để tái đầu tư quá trình sản xuất không những cả chiều rộng và chiều sâu.
Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp mở rộng tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường thế giới, tăng quy mô sản xuất kinh doanh tạo dựng vị thế và uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường. Xuất khẩu giúp doanh nghiệp có chỗ đứng
trên thị trường quốc tế, qua đó sẽ có nhiều đối tác làm ăn, mở rộng mối quan
hệ kinh doanh với các bạn hàng, đồng thời sẽ tiếp thu được những kinh
nghiệm kinh doanh, quản lý và điều hành doanh nghiệp từ các đối tác đó.
Xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp. Các sản phẩm của doanh nghiệp khi đem xuất khẩu đều là
những sản phẩm có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn nhất định, hình thức mẫu
mã đẹp. Thông thường, giá một mặt hàng xuất khẩu bao giờ cũng cao hơn giá
mặt hàng đó khi tiêu thụ trong nước. Mặt khác nhờ có hoạt động xuất khẩu
mà doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường tiêu thụ trên thế giới, số lượng
hàng bán ra nhiều hơn, ít bị rủi ro hơn là đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, do đó
lợi nhuận cũng tăng lên.
Khi doanh nghiệp xuất khẩu được nhiều hàng hoá thì nguồn ngoại tệ
thu về cho doanh nghiệp ngày càng cao, đáp ứng các nhu cầu về vốn của
doanh nghiệp như xuất khẩu hàng hoá, trả nợ, tổ chức nguồn hàng.
Xuất khẩu tạo điều kiện cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên chức
của doanh nghiệp. Xuất khẩu làm tăng lợi nhuận từ đó doanh nghiệp có điều
kiện để tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động đồng thời có nguồn
ngoại tệ để đầu tư máy móc, trang thiết bị, cải thiện điều kiện làm việc của họ.
Xuất khẩu đa dạng hoá kinh doanh, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro
trong kinh doanh.


9


2.1.1.4 Các hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là cả hệ thống các
quan hệ mua bán, đầu tư từ trong nước ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh
sản xuất hàng hoá, chuyển đổi kinh tế cho phù hợp và từng bước nâng cao đời
sống nhân dân. hiện nay trên thế giới, tuỳ điều kiện hoàn cảnh của mỗi quốc
gia cũng như từng chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế người ta lựa
chọn các phương thức giao dịch khác nhau để tiến hành một cách có hiệu quả
hoạt động này
Như vậy hoạt động xuất khẩu mang tính đa dạng về hình thức. Trong
quản lý căn cứ vào các hình thức phân loại khác nhau có thể phân loại hoạt
động xuất khẩu thành các hình thức sau:
a)

Xuất khẩu trực tiếp
Đây là hình thức mà nhà xuất khẩu gặp trực tiếp hoặc quan hệ trực tiếp

qua điện tín để thoả thuận về hàng hoá, giá cả cũng như các biện pháp giao
dịch với người nhập khẩu. Nội dung được thoả thuận một cách tự nguyện
không ràng buộc với lần giao dịch trước.
Các công ty kinh doanh thường sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp
khi mà khối lượng sản phẩm xuất khẩu đủ lớn và công ty mong muốn tập
trung nguồn lực của mình vào phát triển thị trường quốc tế.
Xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi chi phí cao và nguồn lực lớn để có thể phát
triển nguồn hàng, phát triển thị trường chỉ các đơn vị có đầy đủ điều kiện cần
thiết về nguồn hàng, khả năng tài chính, kinh nghiệm xuất khẩu mới tiến hành
xuất khẩu trực tiếp mang lại doanh thu, lợi nhuận cao hơn so với các hình

thức xuất khẩu khác đồng thời đơn vị có thể tiếp xúc trực tiếp với bạn hàng,
thị trường, nắm bắt được các xu hướng thay đổi của thị trường để có kế hoạch
điều chỉnh kịp thời, qua đó duy trì được thị trường truyền thống và mở ra các
thị trường mới.
10


Ưu điểm: Công ty có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nước
ngoài, từ đó có những hiểu biết cần thiết về khách hàng vào thị trường mình
đang tham gia, có thể thiết lập được mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng
quốc tế. Ưu điểm lớn nhất của hình thức này là doanh thu và lợi nhuận thu
được cao hơn nhiều so với hình thức xuất khẩu khác.
Nhược điểm: Hình thức này đòi hỏi vốn lớn, chi phí để tiếp cận và
nghiên cứu thị trường lớn. Bởi vì nhu cầu của người tiêu dùng luôn thay đổi,
đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều buộc công ty phải luôn theo sát thị trường,
nắm vững được xu hướng thay đổi của khách hàng, các xu hướng thay đổi về
giá cả để có kế hoạch điều chỉnh phù hợp. Việc thu mua hàng xuất khẩu bị
phụ thuộc vào các nguồn hàng, nguồn hàng nhiều khi không ổn định, công ty
có thể không huy động được hàng để giao đúng thời đIểm theo hợp đồng .
b) Xuất khẩu uỷ thác
Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có
hàng hoá muốn xuất khẩu, nhưng vì doanh nghiệp không được phép tham gia
trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu hoặc không có điều kiện tham gia. Khi đó
họ sẽ uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu làm dịch
vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Bên uỷ thác sẽ thu phí uỷ thác. Theo hình
thức này, quan hệ giữa người bán và người mua được thông qua người thứ ba
gọi là trung gian. Về bản chất pháp lý, bên nhận uỷ thác thực chất là một đại
lý hoa hồng của bên uỷ thác, đại lý này có trách nhiệm làm thủ tục hải quan,
tổ chức giao nhận hàng hoá, thanh toán…cho nên phí uỷ thác thực chất là tiền
hoa hồng trả cho đại lý .

Lý do để hình thức uỷ thác được sử dụng rộng rãi là ở nước ta có rất
nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các xí nghiệp sản xuất ra hàng xuất khấu
song lại không đủ nguồn lực và kinh nghiệm cần thiết để tiến hành xuất khẩu
trực tiếp do vậy phải xuất khẩu uỷ thác. Ngược lại, có những đơn vị ngoại
thương rất mạnh về nguồn lực, nhân lực và kinh nghiệm xuất khẩu song lại
11


không nắm được nguồn hàng do vậy phải nhận uỷ thác xuất khẩu. Hiện nay
khi chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá được trực tiếp
tổ chức xuất khẩu thì các doanh nghiệp uỷ thác có thể tự mình xuất khẩu được
nhưng hiệu quả kinh doanh sẽ không cao và có thể gặp rủi ro rất lớn nếu
không am hiểu thị trường, không thông thạo các nghiệp vụ xuất khẩu hoặc
không đủ các nguồn lực cần thiết để lập các kênh phân phối. Do vậy hình thức
xuất khẩu uỷ thác sẽ giúp cho họ ít bị ràng buộc về nguồn lực đồng thời rủi ro
thấp. Mặt khác, đối với đơn vị nhận uỷ thác, do họ không tự nhận uỷ thác để
đảm bảo các mục tiêu doanh thu, lợi nhuận đồng thời vẫn đảm bảo kiểm soát
được thị trường, liên hệ trực tiếp với thị trường và hạn chế cạnh tranh từ các
đơn vị uỷ thác.
Ưu điểm: Công ty nhận xuất khẩu uỷ thác không phải đầu tư nhiều
tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là
hoa hồng xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng xuất khẩu nên tất cả các chi
phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng và thực
hiện hợp đồng không phải chỉ dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh
doanh của công ty.
Với hình thức này, công ty có thể tiết kiệm được nhiều thời gian cho
việc tìm kiếm thu mua hàng xuất khẩu.
Nhược điểm: Công ty nhận xuất khẩu uỷ thác thường bị động, bị phụ
thuộc vào nguồn hàng uỷ thác, nếu có hàng uỷ thác thì xuất nếu không có thì
thôi, tỷ lệ hoa hồng thường thấp. Do vậy hiệu quả kinh doanh không cao

c) Gia công quốc tế
Đây là hình thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia
công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (gọi là bên
đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận
thù lao (gọi là phí gia công)

12


Hình thức này khá phổ biến, nó giúp cho bên nhận gia công giải quyết
công ăn việc làm cũng như tranh thủ thu hút công nghệ mới. Khác với bên
nhận gia công, bên đặt gia công thường là những nước phát triển, hình thức
xuất khẩu này giúp họ tận dụng được giá rẻ của nguyên vật liệu phụ cũng như
nhân công ở bên nhận gia công, từ đó có điều kiện để hạ giá thành sản phẩm.
Ưu điểm: Hiện tại Việt Nam là nước lạc hậu so với thế giới, đồng thời
lại có nguồn nhân công dồi dào, do đó hoạt động gia công xuất khẩu là cần
thiết để khai thác tiềm năng nhân lực để phát triển kinh tế. Mặt khác, hình
thức này giúp chúng ta tăng nguồn thu ngoại tệ, tranh thủ được công nghệ tiên
tiến của nước đặt gia công bởi vì trong hình thức này, khi bên nhận gia công
không đủ phương tiện sản xuất thì bên đặt gia công có thể cung cấp cả máy
móc thiết bị, trợ giúp đào tạo cho công nhân, cử các chuyên gia sang phụ
trách các vấn đề kỹ thuật, qua đó chất lượng của đội ngũ lao động được nâng
cao… Đó là điều kiện góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, tăng tích luỹ cho
nền kinh tế, kích thích các ngành hỗ trợ cùng phát triển.
Nhược điểm: Các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động
này thường bị động về vấn đề thị trường, không chủ động tìm kiếm thị
trường, không nắm bắt được sự biến động của thị trường, vì vậy lợi nhuận đạt
được từ hoạt động này thường thấp
d) Buôn bán đối lưu

Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, nhà xuất khẩu đồng thời là nhà nhập khẩu với mục đích để nhập khẩu
hàng cần thiết có giá trị tương đương với số lượng hàng xuất khẩu. Ở đây mục
đích của xuất khẩu không nhằm thu về một khoản ngoại tệ ma nhằm thu về
một lượng hàng hoá có giá trị bằng lô hàng xuất khẩu.
Các bên tham gia buôn bán đối lưu luôn luôn phải quan tâm tới sự cân
bằng trong trao đổi hàng hoá, bao gồm: cân bằng về mặt hàng, cân bằng về
13


mặt giá cả, cân bằng về tổng giá trị hàng hoá giao cho nhau và cân bằng về
điều kiện giao hàng
Ưu điểm: Doanh nghiệp áp dụng hình thức này tăng được tiêu thụ sản
phẩm về đối tường hàng mình có nhu cầu và mua được những mặt hàng trong
nước cần để hoàn thu lại lợi nhuận, đồng thời tạo sự tin tưởng và lệ thuộc vào
nhau hơn. Ngoài ra hình thức này còn khắc phục được tình trạng thiếu ngoại
tệ trong thanh toán tránh những biến động rủi ro về tỉ giá hối đoái trên thị
trường ngoại hối.
Nhược điểm: Hình thức này mất nhiều thời gian để tìm đối tác có mặt
hàng hợp với mặt hàng doanh nghiệp có nhu cầu đổi. Có các loại hình buôn
bán đối lưu như: nghiệp vụ hàng đổi hàng, nghiệp vụ bù trừ, trao đổi bồi
hoàn, nghiệp vụ mua đối lưu
e) Tạm nhập tái xuất
Đây là hình thức mà doanh nghiệp qua nghiên cứu thị trường thấy rằng
mua hàng của người quốc gia này để bán cho người quốc gia kia trên cơ sở
mua bán ngoại thương có làm thủ tục hải quan rồi xuất khẩu mà không qua
chế biến nhằm thu lợi chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Cơ sở pháp lý của hình thức tạm nhập tái xuất là hai hợp đồng riêng
biệt: Hợp đồng mua hàng do doanh nghiệp Việt Nam ký với doanh nghiệp
nước xuất khẩu và hợp đồng bán hàng do doanh nghiệp Việt Nam ký với

doanh nghiệp nước nhập khẩu. Hợp đồng mua hàng có thể ký trước hoặc sau
hợp đồng bán hàng tuỳ theo điều kiện cụ thể do doanh nghiệp tự quyết định.
Ưu điểm: Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà
có thể chuyển thẳng tới nước thứ ba nhưng tiền phải luôn do người tái xuất
thu từ người nhập khẩu trả cho người xuất khẩu.
Nhược điểm : Hình thức này có rủi ro cao vì phụ thuộc nhiều vào biến
động của giá cả của hàng hoá trên thị trường quốc tế

14


f) Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là trả nợ) được ký kết và
thoả thuận theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức
này tránh được rủi ro cao vì chính phủ đứng ra bảo lãnh và thường ưu đãi ở
một số khâu nhất định, doanh nghiệp chủ động thực hiện theo kế hoạch của
mình trên cơ sở thoả thuận.
2.1.2 Dịch vụ và dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu
2.1.2.1 Khái niệm dịch vụ và dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu
a) Dịch vụ
Nền kinh tế thế giới ngày nay không chỉ đơn thuần là các sản phẩm vật
chất cụ thể, mà bên cạnh đó còn có các sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ đã được
coi là ngành công nghiệp không khói, có đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập
quốc dân đặc biệt ở các nước phát triển, tỉ trọng đóng góp là rất cao.
Có rất nhiều cách định nghĩa về dịch vụ:
Dịch vụ là một ngành kinh tế thứ ba nằm ngoài hai ngành công nghiệp
và nông nghiệp
Dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của
chúng không tồn tại dưới dạng hình thái vật thể. Hoạt động dịch vụ bao
trùm lên tất cả các lĩnh vực với trình độ cao, chi phối rất lớn đến quá trình

phát triển kinh tế xã hội, môi trường từng quốc gia, từng khu vực nói
riêng và thế giới nói chung
Định nghĩa khác: Dịch vụ là hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để
trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu.
Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền sản phẩm vật chất.
Vậy định nghĩa chung nhất: Dịch vụ là những hoạt động lao động mang
tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể,
không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thoả mãn kịp thời các nhu cầu
sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người
15


Việc có nhiều loại định nghĩa khác nhau về dịch vụ một mặt phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử cụ
thể, mặt khác tuỳ thuộc vào phương pháp luận kinh tế của từng quốc gia.
Những quan điểm khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau tới chất lượng dịch vụ,
ảnh hưởng tới quy mô cũng như tốc độ phát triển của dịch vụ.
b) Dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu
Chúng ta đã biết xuất khẩu là góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ một nền kinh tế đóng sang nền kinh tế hướng ngoại. Xuất khẩu tạo
khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất,
khai thác tối đa sản xuất trong nước và tạo ra điều kiện kinh tế kỹ thuật nhằm
đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước.
Do vậy mà hàng hoá xuất khẩu phải được coi là hàng hoá có chất lượng
cao đồng thời cũng phải có chất lượng dịch vụ tốt để cạnh tranh với các hàng
hoá cùng loại trên thị trường thế giới. Nên dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu sẽ luôn
được quan tâm để xúc tiến tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu được tốt hơn. Dịch vụ
hỗ trợ xuất khẩu là phần mềm của sản phẩm, hỗ trợ cho khách hàng trước
trong và sau khi bán.
2.1.2.2 Đặc điểm của dịch vụ và dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu

a) Tính không hiện hữu
Dịch vụ là sản phẩm vô hình tức là không thể quan sát, cầm nắm, sờ
mó, ngửi thử được có nghĩa là không thể dùng năm giác quan để thử được.
Nên dịch vụ là rất trìu tượng, nó chính là sản phẩm “phi vật thể”. Vì vấn đề
“vô hình” này mà nó gây khó khăn cho cả khách hàng lẫn người cung cấp
dịch vụ.
Đối với khách hàng vì không thấy được sản phẩm dịch vụ nên họ hơi
có hồ nghi về sản phẩm trước khi sử dụng, nên về phía người cung cấp cần
phải tạo dựng một uy tín để đánh vào tâm lý của khách hàng kéo họ sử dụng
dịch vụ của mình. Đó cũng là những điểm rất khác biệt với sản phẩm hàng
hoá bình thường. Nếu như sản phẩm hàng hoá vật chất cụ thể khách hàng có
16


thể nhìn thấy, cầm nắm được thì họ sẽ tự đánh giá về chất lượng hàng hoá đó
nhưng với dịch vụ họ chỉ có thể nghe qua tin đồn và chỉ khi sử dụng sản phẩm
dịch vụ thì thường xác định bằng định tính . Mặc dù bên cạnh những mặt định
tính của dịch vụ cũng vẫn có những mặt định lượng giúp cho khách hàng
đánh giá đúng hơn về sản phẩm dịch vụ.
Vậy để giảm bớt sự đánh giá của khách hàng về dịch vụ thì những dấu
hiệu chứng tỏ chất lượng dịch vụ được cung ứng như: thương hiệu, điểm bán,
người cung ứng, trang thiết bị… Để củng cố niềm tin cho khách hàng người
cung ứng dịch vụ tìm mọi biện pháp như tăng tính hữu hình cho dịch vụ
không chỉ mô tả dịch vụ mà còn làm cho khách hàng chú ý đến lợi ích có liên
quan đến dịch vụ
b) Tính không tách rời
Quá trình sản xuất, lưu thông và quá trình tiêu dùng các dịch vụ diễn ra
đồng thời cả về không gian và thời gian. Có nghĩa là dịch vụ không thể tách
rời với nguồn gốc của nó trong khi hàng hoá vật chất tồn tại không phụ thuộc
vào sự có mặt hay vắng mặt nguồn gốc của nó.

Khi cả ba quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng diễn ra đồng thời tức
là khách hàng chỉ cảm nhận hay phát hiện khiếm khuyết của dịch vụ khi đã sử
dụng dịch vụ. Và sau khi sử dụng xong sẽ phản ánh lại những ý kiến của mình
về chất lượng dịch vụ đó. Còn đối với hàng hoá vật chất cụ thể trước khi sử
dụng ta có thể kiểm nghiệm trước để xem chất lượng nếu ưng thì mới sử
dụng, nếu không ưng thì thôi không mua nữa. Do vậy là sản phẩm dịch vụ là
khó đánh giá đúng chính xác đúng chất lượng.
Mà quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời nên khách hàng sẽ
phải đến nơi sản xuất để tiêu thụ chứ không như hàng hoá khác có thể mang
đi đến nơi khác để tiêu dùng. Nhưng thông thường các quá trình này diễn ra
đan xen nhau không có ranh giới rõ ràng giữa các quá trình. Và người cung
cấp dịch vụ và khách hàng sẽ cùng tham gia vào dịch vụ trong cả quá trình
cung cấp cho đến khi khách hàng ra khỏi dịch vụ.
17


c) Tính không tồn kho
Đặc điểm này nảy sinh do tính không hiện hữu của dịch vụ mà thành.
Khi là vô hình thì sản phẩm dịch vụ không thể vận chuyển bằng các phương
tiện vận tải không thể dự trữ hay bảo quản trong kho được. Đây chính là vấn
đề gây nhiều khó khăn cho việc kinh doanh sản phẩm dịch vụ. Điều đó liên
quan đến tính thời vụ của dịch vụ. Do không thể lưu kho nên đến mùa vụ thì
công suất cung cấp dịch vụ là cao nhất còn khi hết mùa thì công suất có thể
nói là rất thấp thậm chí còn lỗ. Do vậy mà đòi hỏi các nhà kinh doanh dịch vụ
phải biết tính toán sao cho hợp lý giữa các thời điểm để luôn duy trì được sản
phẩm dịch vụ của mình.
d) Tính không xác định
Dịch vụ có tính không ổn định, dịch vụ phi tiêu chuẩn hoá, không
xác định được chất lượng dịch vụ vì tuỳ thuộc vào cả người cung ứng lẫn
khách hàng.

Một mặt chất lượng của dịch vụ cung ứng phụ thuộc rất lớn vào bản
thân nhà cung cấp như: trình độ, kỹ năng, nghệ thuật của người cung cấp, yếu
tố thời gian, địa điểm, môi trường diễn ra sự trao đổi dịch vụ cũng như nhiều
yếu tố khác…
Mặt khác: chất lượng sản phẩm dịch vụ, lợi ích mà nó đem lại cho
người tiêu dùng tuỳ thuộc vào sự cảm nhận của khách hàng. Nhiều sự cảm
nhận về lợi ích hay chất lượng này rất khác nhau tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu
tố thuộc về khách hàng như: nguồn gốc xã hội, trình độ văn hoá, hiểu biết, sở
thích, kinh nghiệm sống… cùng được cung cấp một dịch vụ như nhau nhưng
khách hàng đánh giá chúng lại rất khác nhau. Nên người cung cấp dịch vụ
phải luôn tìm hiểu thu thập những ý kiến phản hồi từ khách hàng để ngày
càng hoàn thiện hơn sản phẩm dịch vụ của mình.

18


2.1.1.3 Vai trò của dịch vụ
Dịch vụ là một phần của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế quốc
dân là một khối thống nhất với hai bộ phận hợp nhất chủ yếu là các ngành
sản xuất vật chất và các ngành dịch vụ. Với một tỷ trọng ngày càng lớn
trong nền kinh tế quốc dân dịch vụ đã đang và ngày càng chiếm vị trí
quan trọng ở cả hai chỉ tiêu chung của kinh tế là số lượng lao động và tỷ
trọng trong tổng thu nhập quốc dân.
a) Vai trò của dịch vụ với vấn đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp
vào thu nhập quốc dân
Đối với nền kinh tế quốc dân nó có vai trò quan trọng vì là một bộ phận
cấu thành của nền kinh tế
Sự phát triển của dịch vụ là tiền đề quan trọng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế. Ngược lại sự phát triển kinh tế, sự năng động chính sách kinh tế ngày
càng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn các dịch vụ.

Dịch vụ là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá
trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, thúc đẩy nền kinh tế phát triển
năng động, hiệu quả, đảm bảo sự thuận tiện, phong phú, văn minh cho các
lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Hiện nay ngành dịch vụ đã trở thành yếu tố cấu thành của hệ thống hạ
tầng quan trọng của nền kinh tế và đang đóng góp rất lớn vào việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và gia tăng GDP của các quốc gia.
b) Vai trò của dịch vụ với việc thúc đẩy phân công lao động xã hội chuyển
dịch cơ cấu kinh tế
Dịch vụ phát triển thúc đẩy phân công lao động xã hội thúc đẩy chuyên
môn hoá, tạo điều kiện cho lĩnh vực sản xuất, tăng năng suất lao động đồng
thời đáp ứng được những nhu cầu ngày càng đa dạng của đời sống xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng.
19


Dịch vụ làm biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu, đảm bảo sự tăng
trưởng của tổng sản phẩm trong nước GDP và GNP. Góp phần làm cho nền
kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững.
c) Dịch vụ với vấn đề tạo công ăn việc làm
Các ngành dịch vụ với đặc trưng là sử dụng rất nhiều lao động sống. Sự
phát triển mạnh mẽ của các ngành dịch vụ tạo ra nhiều cơ hội việc làm và chỗ
làm việc cho nền kinh tế.
Ngành dịch vụ sử dụng nhiều lao động đặc biệt là các lao động sống.
Khi cần đến kỹ năng, trình độ của con người thì là cần đến dịch vụ. Nên có
nhiều ngành dịch vụ thì giúp tạo nhiều công ăn việc làm cho mọi người hơn,
giảm được tỷ lệ thất nghiệp. Dịch vụ là lĩnh vực vô hình thu hút nhân lực,
ngành dịch vụ cần nhiều lao động trực tiếp. Đặc biệt đối với những ngành
dịch vụ mang tính chuyên nghiệp cao.
d) Dịch vụ với vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế bền vững

Dịch vụ được coi là ngành “công nghiệp không khói” bởi tính hiệu quả
của một ngành công nghiệp và tính chất không tạo ra các vấn đề về môi
trường, chúng là những ngành công nghiệp sạch. Các ngành dịch vụ và sự
phát triển thương mại dịch vụ cho phép phát huy tối đa các công nghệ hiện
đại ngày nay như viễn thông, tin học và hơn hết là khai thác tối đa các tiềm
năng tri thức con người. Khai thác và bảo vệ có hiệu quả các nguồn lực xã hội
vì vậy đóng góp to lớn vào việc phát triển kinh tế bền vững.
e) Dịch vụ với vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư
Dịch vụ thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao dân trí chăm
sóc sức khoẻ cộng đồng, thúc đẩy hội nhập quốc tế vì dịch vụ là cầu nối giữa
các vùng trong một quốc gia, giữa các quốc gia. Tạo điều kiện để hợp tác hội

20


nhập trong phát triển kinh tế giữa các quốc gia dân tộc. Dịch vụ là một bộ
phận quan trọng của kinh tế đối ngoại.
Dịch vụ phát triển góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, kể cả đời sống
vật chất tinh thần, giải quyết bình đẳng giới. Dịch vụ đóng vai trò to lớn giải
phóng phụ nữ, một lực lượng quan trọng khai thác tiềm năng và sử dụng có
hiệu quả lao động nữ cả ở lĩnh vực lao động trí óc lẫn chân tay
Tóm lại sự phát triển của ngành dịch vụ là luôn nhằm vào việc thoả
mãn tối đa nhu cầu của con người và vì con người, vì sự tốt đẹp của xã hội. Vì
vậy chúng có vai trò tao lớn trong việc nâng cao mức sống và chất lượng cuộc
sống của dân cư và xã hội
2.1.2.4 Các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản
Ngày nay nền kinh tế phát triển bằng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại
con người đã sản xuất ra khối lượng hàng hoá khổng lồ. Vì vậy để quá trình
sản xuất diễn ra phải tiêu thụ được. Có như vậy thì mới thu hồi được vốn để
quay vòng cho sản xuất. Dịch vụ hỗ trợ bán ra đời giúp cho việc tiêu thụ sản

phẩm được dễ dàng hơn.
Bán hàng hoá phải được xã hội chấp nhận, bằng việc số lượng hàng
bán sẽ càng ngày càng được tiêu thụ. Điều đó sẽ phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố khác nhau và một trong các yếu tố đó là các dịch vụ đi kèm theo.
Để giúp cho khách hàng có thể nắm bắt được về sản phẩm thì doanh
nghiệp cần phải có chiến lược quảng bá sản phẩm sao cho gây ấn tượng
tốt cho khách hàng, tạo niềm tin cho khách hàng cũng như uy tín của sản
phẩm của mình. Vì hiện nay có rất nhiều các sản phẩm cùng loại đang
cạnh tranh trên thị trường nên việc đầu tư cho dịch vụ là khá quan trọng.
Thông tin tung ra thị trường cũng phải đáng tin cậy với mọi người để họ
có thể so sánh với các sản phẩm cùng loại khác. Như về số lượng, chất
lượng, kiểu dáng, nhãn hiệu, bao bì, độ an toàn, vệ sinh…Và đặt ở mức
21


giá phù hợp để họ lựa chọn. Khách hàng ngày nay họ luôn muốn làm sao
mà có thể được thoả mãn tốt nhất thuận tiện nhất đối với họ.
Dịch vụ hỗ trợ bán là hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy quá trình bán sản
phẩm trên thị trường. Đây là hoạt động kinh tế nhằm cung cấp hoặc bán dịch
vụ của các chủ thể khác nhau trên thị trường nhưng gắn liền với một hoạt
động thương mại khác. Các dịch vụ này hỗ trợ thúc đẩy khâu bán, hoặc hoạt
động xuất khẩu hàng hoá tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Dịch vụ này là dịch vụ mang động cơ kinh doanh vì lợi nhuận do doanh
nghiệp thực hiện . Doanh nghiệp công ích các tổ chức phi chính phủ thực hiện
dịch vụ hỗ trợ tiêu thụ. Chính phủ thông qua các cơ quan chuyên ngành như
thương vụ hay tham tán thương mại của đại sứ quán ở nước ngoài, cục xúc
tiến thương mại của bộ thương mại… Các tổ chức phi chính phủ như phòng
thương mại và công nghiệp, các hiệp hội ngành hàng…cũng thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ cho việc tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu của doanh nghiệp nhưng
không vì mục đích lợi nhuận.

Ngoài dịch vụ hỗ trợ bán thì cũng cần phải quan tâm cả dịch vụ thu
mua đầu vào. Điều đó gắn với thông tin của các nhà cung cấp phải làm
sao để có thể thuyết phục được doanh nghiệp mua hàng. Nó có liên quan
đến quy mô, chủng loại hàng hoá, tính ổn định của hoạt động cung ứng,
rủi ro cung ứng…
Các dịch vụ giúp cho doanh nghiệp có thể tìm kiếm được nguồn hàng
cung ứng sao cho phù hợp với tiềm năng. Nên thông tin đưa đến phải chính
xác đáng tin cậy. Để có thể tiến hành ký kết hợp đồng thu mua được suôn sẻ
thì các dịch vụ môi giới, đàm phán mua hàng, tư vấn đàm phán kinh doanh
cũng phải được đẩy mạnh. Việc cung ứng phải thuận tiện có lợi thế cho doanh
nghiệp đảm bảo an toàn, điều đó cần đến dịch vụ vận tải giao nhận, bảo hiểm.
Dịch vụ hỗ trợ không phải chỉ cần thiết để khắc phục những yếu kém,
hạn chế trong trao đổi buôn bán như tìm cách tiêu thụ nhanh những hàng hoá
22


lưu chuyển chậm, mà các dịch vụ này mang tính chủ động, tích cực trong trao
đổi mua bán nội địa cũng như mậu dịch quốc tế
Hàng nông sản lại là một loại hàng khá nhạy cảm, đặc biệt trong khâu
bảo quản lưu kho. Cho nên vấn đề là phải làm sao để tăng mạnh công tác bảo
quản. Dịch vụ bao bì là rất quan trọng. Với thời gian sử dụng ngắn nên trong
quá trình vận chuyển cần có các dịch vụ để đảm bảo an toàn cho sản phẩm.
Việc lựa chọn bao bì làm sao cho phù hợp với loại hàng nông sản để luôn giữ
được lâu trong kho cũng như khi đã đến tay người tiêu dùng.
2.1.2.4.1 Dịch vụ thông tin, nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại
Là dịch vụ giữ vị trí tiền đề cho các hoạt động thương mại của mỗi
quốc gia. Không có thông tin, không có thị trường và khách hàng thì không có
hoạt động trao đổi buôn bán. Nếu thiếu dịch vụ xúc tiến thương mại cũng
không thể đẩy mạnh hoạt động bán hàng và xuất khẩu. Ngày nay, loại dịch vụ
này là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia và các doanh nghiệp, không

phân biệt trình độ phát triển.
a) Dịch vụ thông tin thương mại
Là dịch vụ cung cấp các thông tin tài tiệu cần thiết về thị trường đầu
vào - đầu ra cho các doanh nghiệp, thông tin về hệ thống luật pháp, thông lệ
và tập quán thương mại quốc gia và quốc tế.
Dịch vụ này là điểm khởi đầu, là tiền đề cho hoạt động xuất khẩu. Nó
cung cấp cho doanh nghiệp các thông tin tư vấn về thị trường, xác định chiến
lược thị trường, tìm kiếm các thị trường mới, nghiên cứu và phân tích về thị
trường với các yếu tố liên quan đến cơ cấu và hướng phát triển của thị trường,
về các doanh nghiệp nước ngoài.
Dịch vụ thông tin về thị trường còn bao gồm các hoạt động quảng cáo
về chính doanh nghiệp và hàng hoá xuất khẩu của doanh nghiệp, như quảng
cáo và thông bố các thông tin cần thiết tại các cuộc hội trợ, triển lãm, hội
23


nghị, hội thảo trong và ngoài nước trên các phương tiện thông tin đại chúng,
các tạp chí kinh tế, nghiên cứu thị trường.
Nội dung bao gồm :
Cung cấp thông tin tài liệu có liên quan về doanh nghiệp cùng sản
phẩm của họ như số lượng, chất lượng, giá cả, kiểu dáng sản phẩm, nhãn
hiệu, bao bì, các thông số kỹ thuật, độ an toàn vệ sinh, phương thức bán hàng,
giao nhận, thanh toán… Các thông tin về nhà sản xuất, thương gia như năng
lực kinh doanh và quản lý, điều hành, tiềm lực tài chính, công nghệ… và uy
tín danh tiếng của họ.
Cung cấp thông tin về thị trường đầu vào - đầu ra, các thông tin về đối
thủ cạnh tranh và xu hướng cạnh tranh thị trường cho doanh nghiệp biết, cũng
như công bố các tài liệu, thông tin cần thiết trong các cuộc hội nghị, hội thảo,
hội trợ, triển lãm thương mại.
Ngoài ra, loại dịch vụ này còn cung cấp thông tin về các tác nhân thị

trường có liên quan chặt chẽ và ảnh hưởng rõ rệt tới hoạt động trao đổi của
các chủ thể kinh doanh như chính phủ, các tổ chức tài chính, ngân hàng, các
hiệp hội nghề nghiệp, hội bảo vệ lợi ích người tiêu dùng…
Các trung tâm thông tin chuyên ngành thương mại cũng như các trung
tâm thông tin khác liên quan tới thương mại có vai trò quan trọng trong việc
cung cấp dịch vụ cho các nhà kinh doanh, các nhà sản xuất, cũng như khách
hàng và người tiêu dùng, là cầu nối giữa các doanh nghiệp, giữa sản xuất và
tiêu dùng, giữa thị trường trong nước và ngoài nước. Dịch vụ thông tin góp
phần quan trọngvới công tác tiếp thị và xúc tiến thương mại.
b) Dịch vụ nghiên cứu thị trường
Dịch vụ tiếp thị nói chung và marketing sản phẩm có ý nghĩa rất quan
trọng đối với các doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh. Nó cung cấp các tư
vấn, nghiên cứu các yếu tố liên quan tới cơ cấu và hướng phát triển thị
trường, chiến lược thị trường và hội nhập. Từ đó giúp doanh nghiệp có thể
hình thành các phương án chiến lược kinh doanh đúng đắn và hiệu quả, nâng
24


cao năng lực hoạt động và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập thương
mại, gia nhập thị trường mới.
Nội dung chủ yếu của dịch vụ này là tổ chức các đoàn (doanh nhân) đi
tham quan, khảo sát, nghiên cứu thăm dò thị trường ở trong và ngoài nước,
tiếp xúc với các doanh nghiệp bạn để tìm kiếm cơ hội xúc tiến đầu tư, liên
doanh liên kết, chuyển giao công nghệ và tiến hành các hoạt động trao đổi
hàng hoá, dịch vụ. Dịch vụ này thường có quan hệ chặt chẽ với hoạt động đầu
tư nước ngoài.
c) Dịch vụ xúc tiến thương mại
Giúp doanh nghịêp tìm kiếm các cơ hội bán hàng, xuất khẩu nhằm thúc
đẩy nhanh quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nâng cao hiệu quả tiêu thụ.
Loại dịch vụ này được thực hiện trên các cấp độ khác nhau bởi các chủ thể

như nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các
doanh nghiệp và hiệp hội, cơ quan nhà nước trung ương và địa phương…Nó
đặc biệt quan trọng đối với các chủ thể kinh doanh mới gia nhập thị trường
hoặc thâm nhập thị trường mới và đối mặt với các đối thủ cạnh tranh.
Nội dung chủ yếu bao gồm cung cấp các thông tin về thị trường, các tư
vấn về thương mại, dịch vụ chào hàng, quảng cáo giới thiệu sản phẩm, tổ
chức các hội trợ thương mại trong và ngoài nước, có thể kết hợp với các hoạt
động văn hoá trong thương mại và tiêu dùng, các dịch vụ về hội nghị, hội thảo
(có thể kết hợp bán hàng). Các phương tiện quảng cáo rất đa dạng, phong phú
như: Báo chí, tranh ảnh, các ấn phẩm, đài, vô tuyến, áp phích, internet… Hình
thức thể hiện quảng cáo có thể bằng lời nói, chữ viết, âm thanh, ánh sáng,
hình ảnh, màu sắc…và sự kết hợp của chúng.
2.1.2.4.2 Dịch vụ tài chính và bảo hiểm
Là loại dịch vụ giúp cho việc thực hiện các giao dịch tài chính, tài trợ
vốn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên và đầu tư, thanh toán trong nước
và quốc tế, cũng như tài trợ rủi ro cho hoạt động thương mại của các doanh
25


×