Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chính Sách Tiền Tệ - Các Công Cụ Của Chính Sách Tiền Tệ. Thực Trạng Và Giải Pháp Áp Dụng Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.17 KB, 24 trang )

Lời nói đầu

Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách vĩ mô quan trọng nhất đối
với mỗi quốc gia bởi vì nó có tác động sâu đến mọi mặt kinh tế. ở Việt Nam diễn
biến giá cả thị trờng theo chiều hớng bất lợi cho nền kinh tế: Giảm phát kéo dài
trong suốt các năm 1999, 2000 và đầu năm 2001 đã buộc chúng ta phải đặt ra câu
hỏi: Mô hình chính sách tiền tệ với hệ thống các công cụ điều tiết mà chúng ta áp
dụng từ trớc tới nay thực sự có hiệu qủa hay cha? Nền kinh tế đã có rất nhiều sự
chuyển đổi, việc duy trì hệ thống các công cụ thiên về hớng điều tiết trực tiếp có còn
phù hợp hay không? Và nếu không phù hợp chúng ta nên thay đổi theo hớng nào?
Mục tiêu của đề án này chính là góp phần tìm ra hớng đi cho việc giải quyết những
vấn đề đó.
Về phơng diện lí luận đề án sẽ cố gắng đa ra những khái niệm chung nhất về
chính sách tiền tệ và hệ thống các công cụ của nó. Về mặt thực tiễn, đề án sẽ xem
xét các công cụ của chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ơng Việt Nam trong
những năm gần đây, từ đó đa ra những giải pháp cơ bản cho những vấn đề này.
Các phơng pháp đợc sử dụng là: Phơng pháp duy vật biện chứng, Phơng pháp
duy vật lịch sử, phơng pháp so sánh và một số phơng pháp phân tích của kinh tế học
hiện đại.
Với những ý tởng đó, kết cấu đề tài bao gồm:
Chơng I:

Lý luận chung về chính sách tiền tệ, các công cụ của chính
sách tiền tệ.

Chơng II:

Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
ở Việt Nam.

Chơng III:



Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công cụ chính
sách tiền tệ ở Việt Nam.

1


mục lục
Lời nói đầu. 1
Nội dung. 2
Chơng I. Lý luận chung về chính sách tiền tệ, các công cụ của chính sách
tiền tệ. 2
I.Chính sách tiền tệ. 2
1.Khái niệm chính sách tiền tệ. 2
2.Vai trò, mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3
II. Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ. 5
1.Chính sách chiết khấu ,tái chiết khấu. 5
2.Dự trữ bắt buộc. 6
3.Nghiệp vụ thị trờng mở. 8
4.Hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thơng mại. 8
5.Hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. 9
6.Quản lý lãi suất. 10
7.Can thiệp vào tỷ giá hối đoái. 10
Chơng II Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam. 12
I.Điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn từ 1996 đến nay. 12
II.Những mặt hạn chế và nguyên nhân. 15
Chơng III.Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các công cụ của chính
sách tiền tệ ở Việt Nam. 17
I.Những quan điểm, định hớng toàn diện. 17

II.Những giải pháp đối với các công cụ. 18
III.Một số kiến nghị. 20
Kết luận.23
Danh mục tài liệu tham khảo. 24

2


Nội dung
Chơng I
Lí luận chung về chính sách tiền tệ,
các công cụ của chính sách tiền tệ:
I.Chính sách tiền tệ:
1. Khái niệm chính sách tiền tệ:
Trong thời kì sơ khai của các nền kinh tế, khi các ngân hàng phát hành mới ra
đời, nhiệm vụ chủ yếu của chúng là phát hành ra tiền. Các khoản tiền phát hành ra
nhằm mục đích chủ yếu nhằm bù đắp cho những khoản chi tiêu vợt quá của chính
phủ. Kinh tế suy thoái, ngân sách lâm vào tình trạng bị thâm hụt lớn, ngân hàng
buộc phải phát hành ra những khoản tiền khổng lồ để bù đắp cho những khoản thâm
hụt này. Điều dó là nguyên nhân trực tiếp gây nên tình trạng lạm phát cao, do vậy
không thể duy trì mãi cơ chế này. Hơn nữa tài chính tiền tệ là lĩnh vực hết sức
quan trọng của nền kinh tế. Nhà nớc với vai trò chỉ đạo, quản lí vĩ mô nền kinh tế
không thể không xây dựng một chính sách vĩ mô cụ thể cho lĩnh vực này. Chính
sách tiền tệ đã ra đời nh vậy và cơ quan thực hiện nó chính là ngân hàng trung ơng.
Chính sách tiền tệ có thể đợc thể hiện theo nghĩa rộng và nghĩa thông thờng.
Theo nghĩa rộng chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lợng tiền
trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến các mục tiêu lớn của nền kinh tế vĩ
mô, trên cơ sở đó đạt đợc mục têu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của
đồng tiền. Theo nghĩa thông thờng là chính sách chỉ quan tâm đến khối lợng tiền
cung ứng tăng thêm trong thời kì tới (thờng là một năm) phù hợp với mức tăng trởng kinh tế và chỉ số lạm phát dự kiến nhằm ổn định giá cả và hàng hoá.

Các chức năng của tiền tệ trong nền kinh tế thị trờng hiện đại đã và đang phát
huy mạnh mẽ theo trào lu hiện đạI, thậm chí có những chức năng của tiền tệ đợc
thực hiện theo những phơng thức hoàn toàn khác so với trớc đây. Vì vậy so với chính
sách tiền tệ quốc gia hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp không chỉ có ý nghĩa về
mặt lí luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc điều hành chính sách cũng nh
thiết lập hệ hống chính sách công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ. Tuy nhiên
trong khuôn khổ đề án này, chính sách tiền tệ luôn đợc hiểu theo nghĩa hẹp, nó chỉ
bao hàm việc ngân hàng trung ơng thông qua các công cụ của mình thực hiên việc
kiểm soát và điều tiết lợng tiền cung ứng nhằm đạt đợc các mục tiêu kinh tế vĩ mô
nh đã nêu ở trên.
Chính sách tiền tệ trong một quãng thời gian nào đó của một quốc gia có thể đợc
xác định theo hai hớng: Mở rộng hay thắt chặt. Trong từng trờng hợp khi nền kinh tế
có dấu hiệu của sự suy thoái, ngân hàng trung ơng sẽ hoạch định chính sách tiền tệ
theo hớng mở rộng nhằm khuyến khích đầu t, mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn
việc làm cho ngời lao động. Chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ đợc áp dụng khi lạm phát
tăng cao, mục tiêu đợc hớng tới là hạn chế đầu t, kìm chế sự tăng trởng quá mức của
nền của nền kinh tế.
2. Vai trò, mục tiêu của chính sách tiền tệ:
a. Vai trò của của chính sách tiền tệ:
Cùng với chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại,
chính sách tiền tệ xuất hiện trong trơng trình hành động của chính phủ các quốc gia
nh một đòi hỏi tất yếu khách quan trớc những thăng trầm của nền kinh tế các nớc
trong những thập kỉ, thế kỉ vừa qua.

3


Trong suốt khoảng thời gian đầy rẫy những thăng trầm đó, nhân loại đã
chứng kiến đầy đủ những khuyết tật của thị trừơng, ví dụ nh: chạy theo lợi nhuận tối
đa đến lừa đảo, tội ác, vi phạm pháp luật; đồng tiền chi phối các quan hệ xã hội,

quan hệ chính trị; phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, bất công xã hội phát triển;
phá huỷ môi trờng sinh thái; cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên,Thế giới văn minh
ngày nay càng thấy rõ hơn bao giờ các khiếm khuyết đó, vì vậy Nhà nớc đã không
thể đứng ngoài cuộc, nó phải sử dụng bàn tay hữu hình, tức là hệ thống các chính
sách kinh tế của mình để tác động vào nền kinh tế và chính sách tiền quốc gia là
một trong những công cụ quản lý vĩ mô mang tính then chốt đối với mọi nhà nớc.
Nh vậy vai trò của chính sách tiền tệ là rất lớn, nh Samuelson đã nói Chính
phủ phải biết cách dùng chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế khác để ngăn
chặn bất cứ cuộc suy thoái nào nổ ra, không cho chúng phát triển lên thành những
cuộc khủng hoảng mang tính kéo dài Có thể nói sứ mệnh mà chính sách tiền tệ đợc
giao phó là hết sức cao cả, đó là đa nền kinh tế thị trờng phát triển không ngừng
phục vụ nhu cầu cuộc sống của con ngời.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Tuỳ theo cách phân chia cũng nh đặc điểm kinh tế từng thời kì của mỗi
quốc gia mà họ xác định cho mình mục tiêu của chính sách tiền tệ sao cho phù hợp,
Tuy nhiên mục tiêu chính sách tiền tệ hàu nh thống nhất ở các quốc gia, đó là kiểm
soát và đIều tiết lợng tiền cung ứng nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định giá trị của
đồng tiền, trên cơ sở đó tạo công ăn việc làm, thúc đẩy nền kinh tế.
b.1. ổn định giá trị đồng tiền:
Đây là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. ổn định giá trị trị tiền tệ
chính là việc ổn định sức mua của đồng tiền, nó bao gồm việc ổn định sức mua đối
nội và ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiền .
b.1.1. ổn định sức mua đối nội cuả đồng tiền.
Trong đIều kiện lu thông các dấu hiệu giá trị thì lạm phát luôn là khả năng
tiềm tàng,t hậm chí khó tránh khỏi .Vì vậy khi mà chế độ bản vị vàng cũng nh tiền
tín dụng chuyển đổi ra vàng không còn nữa thì ngân hàng trung ơng luôn coi việc
kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ là mục tiêu hàng đầu trong chính sách tiền tệ của
mình. Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hoá là tiền đề cho nền kinh tế
phát triển bình thờng, bảo đảm đời sống cho ngời dân. Giá trị đối nội của đồng tiền
là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ .Sức mua của đồng tiền biến đổi tỷ lệ

nghịch với giá cả của hàng hoá và dịch vụ. Sức mua của đồng tiền ổn định sẽ tạo nên
môi trờng đầu t ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu t - nền tảng của sự phát triển kinh tế
ổn định. Sức mua của đồng tiền là một đại lợng tơng đối, nó biến động xung quanh
một biên độ cho phép, thờng là dới 10%.
b.1.2.ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiền
Giá trị đối ngoại của đồng tiền đợc đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi .Tỷ giá hối
đoái là một đại lợng so sánh giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ , vì vậy tỷ giá hối đoái có
liên quan đến rất nhiều yếu tố : giá thành xuất nhập khẩu, lạm phát, cán cân thanh
toán, tâm lý ngời dân , chính sách sách can thiệp vào tỉ giá của nhà nớc,Tỷ giá hôí
đoái là một một tín hiệu hết sức nhạy cảm. Tỷ giá tăng nên hay hạ xuống quá sức
mua thực tế của đồng tiền trong nớc đều kéo theo những hệ quả tích cực hoặc tiêu
cực cho nền kinh tế. Do đó đờng nối kinh tế xuyên suốt trong đIều hành chính sách
tiền tệ là ổn định tỷ giá hối đoái.Nh vậy giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn ổn định giá cả trong nớc thì cũng phải ổn định
tỷ giá hối đoái.
b.2. Tăng trởng kinh tế:

4


Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế, đó là tỷ lệ tăng
trởng có đợc sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát cùng thời kì.Việc tăng giảm lợng tiền cung
ứng có ảnh hởng rất lớn đến thực trạng nền kinh tế. Khi lợng tiền cung ứng tăng
nên, lãi suất tín dụng thờng giảm xuống. Đồng tiền rẻ đi sẽ kích thích đầu t, tăng
tổng sản phẩm quốc nội. Mặt khác tăng khối lợng tiền tệ làm tăng mức cầu tức là
tăng tiêu dùng, khuyến khích sản xuất. Ngợc lại khi lợng tiền cung ứng giảm, lãi
suất sẽ tăng, làm giảm đầu t và do đó tổng sản phẩm quốc nội giảm. Trong giai đoạn
trớc đây khi các cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trờng cha nhạy cảm, ngời ta thờng sử dụng phơng pháp ấn định và điều chỉnh lợng tiền cung ứng trực tiếp, chủ yếu
bằng công cụ hạn mức tín dụng. Ngày nay trong nền kinh tế thị trờng ngân hàng
trung ơng các nớc có xu hớng chuyển sang sử dụng chủ yếu các công cụ gián tiếp vì

những u điểm của chúng.
b.3. Tạo công ăn việc làm:
Cùng với ổn định giá trị đồng tiền và tăng trởng kinh tế, chính sách tiền tệ
cũng hớng tới mục tiêu tạo công ăn việc làm cho ngời lao động, nhất là đổi với các
quốc gia đang phát triển, những nơi phải chịu sức ép lớn về dân số. Chính sách tiền
tệ tao ra công ăn việc làm thông qua các tác đông nhằm mở rộng đầu t, mở rộng
hoạt động kinh tế, chống suy thoái, duy trì mức tăng trởng ổn định.
Ngoài các mục tiêu nêu trên, tuỳ đặc đIểm kinh tế của mình mà các quốc gia
còn có thể tập trung vào các mục tiêu cụ thể khác, ví dụ: hệ thống dự trữ liên bang
Mỹ còn đặt ra các mục tiêu ổn định thị trờng tài chính, ổn định lãi suất, hạn chế
những thăng trầm, biến động của chu kì kinh tế.
Về ngắn hạn, các mục tiêu của chính sách tiền tệ có thể phù hợp nhng cũng
có thể không phù họp thậm chí đối nghịch nhau. Vấn đề đặt ra là Ngân hàng trung ơng phải tìm ra đợc các biện pháp dung hoà các mục tiêu để vừa kiềm chế đợc lạm
phát vừa tăng trởng kinh tế và đạt đợc mức nhân dụng cao.
I.
Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ
1. Chính sách chiết khấu, tái chiết khấu:
Đây là công cụ cổ điển, truyền thống trong hoạt động của Ngân hàng trung ơng.
Nó là việc Ngân hàng trung ơng cấp tín dụng cho các ngân hàng thơng mại bằng
cách chiết khấu, tái chiết khấu các thơng phiếu và các giấy tờ có giá trị ngắn hạn
khác.
Chính sách chiết khấu, tái chiết khấu bao gồm các quy định và các điều kiện cho
vay của Ngân hàng trung ơng đối với các ngân hàng thơng mại. Các ngân hàng thơng mại đi vay lại Ngân hàng trung ơng nhằm bù đắp hoặc để bổ sung nhu cầu vốn
khả dụng đáp ứng cho nền kinh tế, giúp cho hệ thống ngân hàng hoạt động một cách
bình thờng, ngăn chặn nguy cơ bị phá sản. Để vận hành công cụ này Ngân hàng
trung ơng sử dụng các quy định về lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, hạn mức chiết
khấu, tái chiết khấu, các điều kiện đợc chiết khấu, tái chiết khấu.
Sự thay đổi lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu trớc hết tác động vào lãi suất huy
động vốn và cho vay của các ngân hàng thơng mại, ảnh hởng đến nhu càu tín dụng
của nền kinh tế. Bên cạnh đó lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu thay đổi cũng tác

động đến khả năng đi vay của các ngân hàng thơng mại tại Ngân hàng trung ơng và
ảnh hởng đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thơng mại cho nền
kinh tế.Cả hai tác động đều có ảnh hởng đến việc tăng hay giảm lợng tiền cung ứng.
Cụ thể: khi Ngân hàng trung ơng tăng lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu sẽ có tác
động làm tăng lãi suất cho vay của ngân hàng thơng mại do đó làm giảm nhu cầu tín
dụng của nền kinh tế. Mặt khác khả năng đi vay của ngân hàng thơng mại tại Ngân
hàng trung ơng giảm xuống buộc các ngân hàng thơng mại phải giảm bớt lợng cho
vay của mình, hạn chế lợng tín dụng cung ứng cho nền kinh tế. Tác động kép trên có

5


ảnh hởng làm giảm khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thơng mại, từ đó làm
giảm lợng tiền cung ứng cho lu thông. Khi Ngân hàng trung ơng giảm lãi suấti cung
cấp vốn sẽ có tác động ngợc lại, làm tăng lợng tiền cung ứng.
Sự thay đổi hạn mức chiết khấu, tái chiết khấu sẽ tác động đến khả năng bổ
sung vốn khả dụng của ngân hàng thơng mại, ảnh hởng đến lợng vốn tín dụng mà
ngân hàng thơng mại có thể cung ứng cho nền kinh tế, từ đó ảnh hởng đến lợng tiền
cung ứng. Cụ thể khi ngân hàng thơng mại tăng hạn mức chiết khấu, tái chiết khấu
thì việc đi vay của ngân hàng thơng mạI tại Ngân hàng trung ơng trở nên dễ dàng
hơn với khối lợng nhiều hơn, làm tăng khả năng cung ứng vốn tín dụng của các ngân
hàng thơng mạI cho nền kinh tế, dẫn đến tăng khả năng tạo tiền qua hệ thống ngân
hàng và làm tăng lợng tiền cung ứng.
Đây là một công cụ có tính chất linh hoạt, tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân
hàng. Thông qua sự hoạt động của thị trờng liên ngân hàng, Ngân hàng trung ơng có
thể tác động và ảnh hởng một cách thờng xuyên mức lãi suất của thị trờng liên ngân
hàng theo ý muốn của mình. Tuy nhiên điều này chỉ có hiệu quả khi lãi suất chiết
khấu phù hợp với lãi suất thị trờng. Công cụ này còn giúp Ngân hàng trung ơng
trong việc thực hiện vai trò của ngời cho vay cuối cùng của mình. Thông qua việc
quy định các điều kiện đợc chiết khấu, tái chiết khấu giúp cho Ngân hàng trung ơng

kiểm soát đợc chất lợng tín dụng của các ngân hàng thơng mại và điều chỉnh cơ cấu
đầu t đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên mức độ phát huy hiệu quả của các công cụ này phụ thuộc vào quan hệ
vốn của Ngân hàng trung ơng với các ngân hàng thơng mại. Ngân hàng trung ơng có
thể tăng giảm lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, nhng việc có vay hay không là do
các ngân hàng thơng mại quyết định. Vì vậy đôi khi chính sách chiết khấu tỏ ra kém
chủ động. Tác động của nó không phải lúc nào cũng theo chiều hớng mà Ngân hàng
trung ơng mong muốn.
2. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng thơng mại phải gửi tại Ngân hàng
trung ơng, không đợc hởng lãi, không đợc phép sử dụng ( trừ những trờng hợp đặc
biệt, ví dụ các ngân hàng thơng mại đang đứng trớc khả năng phá sản). Dự trữ bắt
buộc thờng đợc tính bằng tỉ lệ phần trăm giữa số tiền dự trữ bắt buộc và tổng số tiền
gửi. Tỷ lệ này đợc gọi là tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đợc Ngân hàng trung ơng xác định cho từng loại tiền gửi,
tuỳ theo tính chất và thời hạn mà các ngân hàng thơng mại huy động đợc. Tiền gửi
tiết kiệm có tỉ lệ dự trữ bắt buộc thấp nhất, ssu đó là tiền gửi có kì hạn và cuối cùng
là tiền gửi không kì hạn.
Một khoản tiền đợc gửi vào hệ thống ngân hàng, sau khi đợc trích ra một khoản
nhất định dùng làm dự trữ bắt buộc, toàn bộ số tiền còn lạI sẽ đợc cho vay vào nền
kinh tế. Qua nhiều vóng quay số tiền đó sẽ quay trở lại hệ thống ngân hàng dới dạng
một khoản tiền gửi mới, ngân hàng lạI trích dự trữ bắt buộc và cho vay vào nền kinh
tế. Quá trình đó cứ tiếp diễn và cuối cùng, hệ thống ngân hàng tạo ra một khoản tiền
đúng bằng khoản tiền huy động ban đầu nhân vơí nghịch đảo của tỷ lệ dự trữ bắt
buộc (còn gọi là số nhân tiền tệ).
1
Khả năng mở rộng
=
Số tiền huy động x ----------------------- (*)
tối đa tiền gửi ngân hàng

ban đầu
tỷ lệ dự trữ bắt buộc

6


Ví dụ, Ngân hàng trung ơng quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên tổng
số tiền gửi, suy ra số nhân tiền tệ = 1/10% = 10 lần. Từ một khoản tiền ban đầu là
1.000.000đ hệ thống ngân hàng sẽ tạo ra một lợng tiền cung ứng gấp 10 lần tức là:
10 x 1.000.000đ=10.000.000đ.
Công thức (*) cho thấy: nếu Ngân hàng trung ơng nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng thơng mại sẽ bị thu
hẹp, khối lợng tín dụng( lợng tiền cung ứng ) trong nền kinh tế sẽ giảm. Ngợc lại
nếu Ngân hàng trung ơng hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tức tăng khả năng tạo tiền thì
khả năng cung tiền của các ngân hàng thơng mại cũng tăng lên , khối lợng tín dụng
và khối lợng thanh toán cũng có xu hớng tăng đồng thời làm tăng lợng cung tiền. Ví
dụ: khi Ngân hàng trung ơng quy định mức dự trữ bắt buộc là 5% hay 20% thì mức
cung tiền từ10.000.000đ sẽ thay đổi tong ứng là:
1.000.000 x 1/5% = 20.000.000đ
và: 1.000.000 x 1/20% = 5.000.000đ
Đây là công cụ có tác động mạnh mẽ đến lợng tiền cung ứng, giúp Ngân hàng
trung ơng thực hiện việc thắt chặt hay mở rộng tiền tệ một cách nhanh chóng. Chỉ
cần những thay đổi rất nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn đến những thay
đổi lớn trong lợng tiền cung ứng. Chính vì vậy mà công cụ dự trữ bắt buộc tỏ ra
kém linh hoạt, không thích hợp cho việc điều chỉnh một khối lọng tiền cung ứng
nhỏ. Mặt khác việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hởng ngay đến những vấn đề về
khả năng thanh khoản đối với những ngân hàng có tỉ lệ dự trữ vợt mức quá thấp; chi
phí thực hiện việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc lại rất tốn kém. Vì những nhợc
điểm đó mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc chỉ có thể coi là biện pháp để kiểm soát cung ứng
tiền tệ chứ không phải là phơng thức tốt để duy trì sự ổn định của tiền tệ.

3. Nghiệp vụ thị trờng mở:
Nghiệp vụ thị trờng mở là nghiệp vụ bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, do Ngân
hàng trung ơng thực hiện trên thị trờng tiền tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc
gia. Các giấy tờ có giá ngắn hạn đợc mua bán ở nghiệp vụ này chủ yếu là tín phiếu
kho bạc nhà nứoc vì chúng có quy mô lớn, rủi ro thấp, thời hạn ngắn và tính lỏng
cao.
Ngân hàng trung ơng trục tiếp đứng ra mua bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn
nhằm trớc hết tác động đến khối lợng tiền dự trữ trong khối dự trữ của các ngân
hàng thơng mại và các tổ chức tàI chính, đến lãi suất cho vay và huy động vốn của
chúng, làm hạn chế hay mở rộng tiềm năng tín dụng và thanh toán của các tổ chức
này, qua đó điều khiển lợng tiền cung ứng.
Thông thờng trong đIều kiện kinh tế thị trờng phát triển, nghiệp vụ thị trờng mở
đợc chỉ đạo sát sao từng giờ. Việc mua bán liên tục các loại trái phiếu sẽ ảnh hởng
thờng xuyên đến lợng dự trữ của các ngân hàng thơng mại và các tổ chức tài chính
khác, làm hình thành nên lãi suất vốn trong toàn quốc. Lãi suất vốn đó sẽ ảnh hởng
chỉ đạo, quy chiếu cho lãi suất tín dụng và tác động lên các lãi suất thị trờng vốn.
Môi trờng hoạt động tốt nhất cho nghiệp vụ thị trờng mở là thị trờng chứng
khoán. Tuy nhiên nếu cha có thị trờng chứng khoán thì Ngân hàng trung ơng cũng
có thể thực hiện đợc việc mua bán trên thị trờng vốn.
Với công cụ này Ngân hàng trung ơng có thể thực hiẹn việc đIều tiết ở bất kì
mức độ nào. Nghiệp vụ thị trờng mở cũng là công cụ có tính linh họat cao thể hiện ở
việc Ngân hàng trung ơng có thể dễ dàng thay đổi vị trí của mình trên thi trờng. Ví

7


dụ khi Ngân hàng trung ơng đang là ngời bán chứng khoán trên thị trờng nếu thấy
M1 bị sụt giảm quá nhiều, Ngân hàng trung ơng có thể từ việc bán lập tức chuyển
sang mua chứng khoán để bơm tiền vào nền kinh tế. Việc thực hiện nghiệp vụ thị trờng mở cũng khá đơn giản nhanh chóng, ít tốn kém về mặt chi phí. Tuy nhiên viêc
mua bán các chứng khoán còn phụ thuộc vào các ngân hàng và các tổ chức tàI chính

khác. Chính họ là ngời quyết định có mua, bán các chứng khoán không và mua bán
với khối lợng bao nhiêu, mức giá thế nào. Nghiệp vụ thị trờng mở chỉ đợc sử dụng
có hiệu quả khi thị trờng tiền tệ đã phát triển đến một mức độ nhất định và Ngân
hàng trung ơng dự đoán đợc chính xác sự biến động của lợng vốn khả dụng trong hệ
thống ngân hàng.
4. Hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thơng mại :
Hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thơng mại là khối lợng tín dụng tối đa
mà các Ngân hàng trung ơng có thể cung ứng cho hệ thống các ngân hàng thơng
mại trong một thời kì nhất định ( năm, quý ) phù hợp với mức tăng trởng kinh tế của
thời kì đó. Đây là một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến lợng tiền đợc cung ứng thêm
( hay giảm bớt ) đối với các ngân hàng thơng mại . Khi ấn định hạn mức tín dụng
cho các ngân hàng thơng mại mỗi thời kì, Ngân hàng trung ơng thờng căn cứ vào kế
hoạch tăng trởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời kì đó. Hạn
mức này không phảI là chỉ tiêu khống chế hạn mức tín dụng cho nền kinh tế mà các
ngân hàng thơng mại ấn định đối với các doanh nghiệp. Các ngân hàng thơng mại có
thể thực hiện mức tín dụng của mình lớn hơn hạn mức mà Ngân hàng trung ơng ấn
định cho ngân hàng mình, nếu nó có khả năng huy động đợc lợng vốn lớn hơn. Sở dĩ
nh vậy là vì vốn do các ngân hàng thơng mại huy động và cho vay cho dù lớn gấp
nhiều lần hạn mức tín dụng mà Ngân hàng trung ơng cung ứng cũng không ảnh hởng đến lợng tiền đa thêm hay rút khỏi lu thông.
Tuy nhiên việc đIều hành công cụ này chỉ có hiệu quả khi hệ thống ngân hàng
thơng mại quốc doanh có thể chiếm lĩnh phần lớn thị trờng tiền tệ, đồng thời có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ cùng các biện pháp hành chính khác. Khi các thị
trờng tiền tệ, vốn phát triển và khi hệ thống các ngân hàng thơng mại, các tổ chức tài
chính phát triển đa dạng, phong phú thì việc điều hành bằng công cụ này không còn
thích hợp.
5. Hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế:
Hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế đợc căn cứ vào các chỉ tiêu: tốc độ tăng trỏng nền kinh tế, biến động của chỉ số giá cả ( lạm phát ), biến động của tỷ giá, tỉ lệ
thất nghiệp và bội chi ngân sách. Ví dụ : lạm phát 10%, GDP dự tính tăng 10%, suy
ra M1 phảI tăng 20%, hạn mức cho vay có thể tăng 20%. Sau khi xác định hạn mức
chung, Ngân hàng trung ơng sẽ tiến hành phân bổ cho các ngân hàng thơng mại tuỳ

theo khả năng của từng ngân hàng.
Đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lợng tiền trong lu thông. Việc Ngân
hàng trung ơng quy định hạn mức tín dụng sẽ tác động đến việc cung ứng vốn tín
dụng của các ngân hàng thơng mại và từ đó ảnh hởng đến lợng tiền cung ứng. Cụ
thể: khi Ngân hàng trung ơng tăng hạn mức tín dụng sẽ dẫn đến khả năng tăng vốn
tín dụng của các ngân hàng thơng mại cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền, từ đó
làm tăng lợng tiền cung ứng. Ngợc lại khi Ngân hàng trung ơng giảm hạn mức tín
dụng sẽ khống chế khả năng cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng cho nền
kinh tế, giảm khả năng tạo tiền qua hệ thống này, do đó làm giảm lợng tiền cung
ứng.Công cụ này giúp cho Ngân hàng trung ơng quản lý đIều chỉnh đợc lợng tiền
cung ứng khi các công cụ khác tỏ ra kém hiệu quả, đặc biệt trong trờng hợp lạm
phát cao.

8


Tuy nhiên công cụ này có rất nhiều nhợc điểm nên trong thực tế ít đợc sử dụng.
Bởi vì nó triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các ngân hàng thơng mại, đánh đồng
các ngân hàng hoạt động hiệu quả và không hiệu quả. Khi hạn mức quá thấp mà nhu
cầu vốn quá cao sẽ dẫn tới lãi suất tăng, ảnh hởng tới đầu t, việc làm, đồng thời làm
phát sinh các hình thức tín dụng nằm ngoài khả năng kiểm soát của Ngân hàng
trung ơng nh: hụi, hội, vay nóng,Nếu hạn mức quá cao thì sẽ có ngân hàng không
thể sử dụng hạn mức của mình, đặc biệt trong trờng hợp hệ thống liên ngân hàng
hoạt động cha hiệu quả, từ đó dẫn đến làm giảm hoặc vô hiệu hoá vai trò quản lí
của Ngân hàng trung ơng. Hạn mức tín dụng cũng có thể làm sai cơ cấu đầu t, bởi vì
với hạn mức đã đợc xác định, các ngân hàng thơng mại bao giờ cũng tìm đến những
dự án đầu t lớn, lĩnh vực đầu t dễ sinh lời, bỏ mặc các lĩnh vực khác, gây khó khăn
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
6.Quản lý lãi suất:
Khi đã sử dụng mọi công cụ mà không thể điều khiển và chi phối lãi suất tín

dụng trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ơng sẽ sử dụng công cụ quản lí lãI suất. ở
công cụ này, Ngân hàng trung ơng trực tiếp qui định mức lãi suất của các ngân hàng
thơng mại, có thể cả đầu vào lẫn đầu ra.
Thứ nhất, Ngân hàng trung ơng có thể đa ra khung lãi suất và các ngân hàng thơng mại chỉ đợc phép điều chỉnh lãi suất của mình trong khuôn khổ đó. Tuỳ theo
mục đích mà các khung lãi suất của các Ngân hàng trung ơng có thể là lãi suất tiền
gửi tối đa - lãi suất cho vay tối thiểu ( bảo đảm lợi ích của các ngân hàng ) hoặc lãi
suất tiền gửi tối thiểu - lãi suất cho vay tối đa ( bảo đảm lợi ích cho khách hàng của
ngân hàng ).
Thứ hai, Ngân hàng trung ơng có thể đa ra trần lãI suất hoặc sàn lãi suất, tức là
mức lãi suất tối đa, hoặc tối thiểu mà các Ngân hàng trung ơng đợc phép cho vay
hoặc huy động vốn.
Công cụ này chỉ thực sự có hiệu quả nếu nó đợc kết hợp chặt chẽ với công cụ tỷ
giá. Việc lạm dụng quản lý lãi suất cũng sẽ làm triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa
các ngân hàng trong việc hạ lãi suất thu hút khách hàng và các ngân hàng thơng mại
cũng sẽ rất bị động trong việc huy động vốn và cho vay.
7.Can thiệp vào tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai đồng tiền hay giá cả một đơn vị tiền
nớc này bằng bao nhiêu đơn vị tiền nớc khác. Theo Luật Ngân hàng nhà nớc Việt
Nam thì tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giũa giá trị đồng tiền Việt Nam so với giá trị đồng
tiền của nớc ngoài.
Giả Sử:

Giá tính theo Việt Nam đồng là P1.
Giá tính theo Đô la Mỹ là P2.

Nếu một mặt hàng có giá trị là P2 = 100USD, tỷ giá e = 14000 thì quy ra VND
mặt hàng đó có giá P1 = 14600 x 100 = 1.460.000VND.
Tỷ giá thay đổi ảnh hởng đến giá trị đồng tiền. Khi tỷ giá tăng đồng tiền nội tệ
mất giá, khi tỉ giá giảm đồng tiền nội tệ tăng giá.Về mặt dài hạn tỷ giá do thực trạng
nền kinh tế mỗi nớc quyết định. Về mặt ngắn hạn tỷ giá chịu sự ảnh hởng bởi lợng

tiền cung ứng của Ngân hàng trung ơng.
Quan hệ cung cầu hàng hoá xuất nhập khẩu cân bằng góp phần làm cân bằng
cung cầu ngoại tệ và có liên quan đến lợng tiền cung ứng trong nớc, đến tăng trởng
kinh tế.Việc Ngân hàng trung ơng mua ngoại tệ trên thị trờng ngoại hối làm tăng lợng tiền cung ứng và dẫn đến tỷ giá tăng. Ngợc lại khi Ngân hàng trung ơng bán

9


ngoại tệ trên thị trờng ngoại hối, thu nội tệ về thì trên thị trờng, lợng tiền cung ứng
sẽ giảm xuống làm cho tỷ giá giảm.
Tỷ giá là một công cụ rất quan trọng, nó góp phần phát triển sản xuất hàng hoá
nhập khẩu, mở rộng thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Bằng việc tác động vào tỷ giá,
Ngân hàng trung ơng thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu
tuỳ theo mục tiêu từng thời kì. Tuy nhiên việc sử dụng công cụ này đòi hỏi Ngân
hàng trung ơng phải cân nhắc một cách kĩ lỡng vì nó ảnh hởng đến quan hệ kinh tế
quốc tế, đến hệ thống kinh doanh ngoại hối của hệ thống ngân hàng thơng mại.
Muốn chính sách can thiệp tỷ giá thực sự trở thành công cụ trung gian, hỗ trợ đắc
lực cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ơng phải có những
đIều kiện nhất định. đó là khối lợng dự trữ quốc gia và ngoại tệ dành cho quĩ bình
ổn phải đủ lớn, các biện pháp hành chính và hệ thống pháp luật phải thật đồng bộ và
phải thực sự có hiệu lực. Mặt khác bản thân đồng tiền phải tơng đối ổn định, không
còn lạm phát ở mức độ cao.

10


Chơng II
Thực trạng việc sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Nh đã trình bày ở trên, chính sách tiền tệ có thể đợc đIều hành thông qua một

hệ thống khá phong phú các công cụ. Các công cụ này có phơng thức đối tợng, quy
mô, tác động khác nhau.Tuỳ theo đặc điểm kinh tế từng quốc gia ở từng thời kì mà
Ngân hàng trung ơng các nớc có thể quyết định sử dụng công cụ nào, điều đó cũng
có nghĩa là có những quốc gia thiên hẳn về phía chỉ sử dụng một số công cụ nào đó.
Ví dụ ở Nhật Bản, Ngân hàng trung ơng không hề quy định dự trữ bắt buộc mà để
cho các ngân hàng thơng mại tự quyết định lấy mức dự trữ của mình, trái lại nghiệp
vụ thị trờng mở lại đợc sử dụng khá thờng xuyên. ở những nớc phát triển, nơi mà thị
trờng tiền tệ đã phát triển đến trình độ cao, các quan hệ trên thị trờng tiền tệ đã đủ
khả năng định hớng cho hoạt động ủa các tổ chức tín dụng đi vào hiệu qủa, thì nhà
nớc có xu hớng giảm bớt sự điều tiết của mình và mở rộng quyền tự do kinh doanh
cho các tổ chức tín dụng. Khi đó Ngân hàng trung ơng sẽ chuyển sang sử dụng các
công cụ diều tiết gián tiếp, bao gồm: nghiệp vụ thị trờng mở, chính sách chiết khấu
và dự trữ bắt buộc. Còn ở những nớc kém phát triển nh nớc ta, nơi mà hoạt động liên
ngân hàng còn cha hiệu quả, Ngân hàng trung ơng bắt buộc phải sử dụng các công
cụ điều tiết trực tiếp, bao gồm hạn mức tín dụng và khung lãi suất. Tuy nhiên theo
xu hớng của thời đại, ngân hàng Nhầ Nớc Việt Nam đang cố gắng hạn chế việc sử
dụng các công cụ đIềutiết trực tiếp và chuyển sang cơ chế điều tiết gián tiếp.
I.Điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn từ 1996 đến nay.
Nét nổi bật trong thời kì này là nớc ta đã dành đợc những thắng lợi hết sức to
lớn trên mặt trận kinh tế, kết thúc quá trình tạo tiền đề vật chất cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, bớc sang giai đoạn mới: giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, tiếp tục đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ nớc ta
giai đoạn này là: ổn định sức mua trong nớc của đồng bản tệ, duy trì giá trị hợp lí
đối với ngoại tệ trong các giao dịch đối ngoại, tạo môi trờng thuận lợi cho các hoạt
động tài chính trong nền kinh tế, kiềm chế lạm phát ở mức hợp lí, góp phần tạo ra
mức tăng trởng cao và vững chắc.Các công cụ chính sách tiền tệ trong thời kì này đợc diều hành cụ thể nh sau:
Hạn mức tín dụng: Công cụ này đợc Ngân hàng nhà nớc áp dung điều hành
chính sách tiền từ năm 1994, đã có tác động hiệu quả đến việc hạn chế tốc độ tăng
tổng phơng tiện thanh toán trong những năm 1995-1997 và qua đó kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên từ cuối năm 1997 và đầu năm 1998 công cụ hạn mức tín dụng đã

dần mất vai trò của nó trong việc hạn chế việc gia tăng của tổng phơng tiện thanh
toán. Hơn nữa việc mở rộng phơng tiện thanh toán trong giai doạn này là cần thiết
để thúc đẩy tăng trởngkinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo ra khó
khăn cho các ngân hàng thơng mại trong việc mở rộng tín dụng. Do vậy từ quý II
năm 1998, Ngân hàng nhà nớc đã không áp dụng công cụ hạn mức tín dụng nh là
một công cụ thờng xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ . Mặc dù vậy mức tăng
trởng tín dụng vẫn đợc tiếp tục theo dõi để có những giải pháp kịp thời nhằm hạn
chế sự gia tăng khi nó có xu hớng tăng cao.
Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc đợc thực hiện theo qui chế dự trữ bắt buộc đợc
ban hành theo quyết định số 396/1997/QĐ-NHNN ngày 1/12/1997 của thống đốc

11


Ngân hàng nhà nớc và có hiệu lực kể từ tháng 1.1998 dến nay. Qui chế dự trữ bắt buộc
lần này đợc qui định cụ thể hơn thể hiện ở việc quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc tai
Ngân hàng nhà nớc đợc tính bình quân trong cả kì duy trì. Năm 1998 tỉ lệ dự trữ bắt
buộc đợc áp dụng cho các tổ chức tín dụng và các loạI tiền gửi huy động có kì hạn dới
12 tháng là 10%, từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1999 tỷ lệ này là 7% và từ tháng 6 năm
1999 là 6%. Ngân hàng nhà nớc không trả lãI suất cho tiền gửi dự trữ bắt buộc. Đối với
tiền gửi dự trữ vợt quá Ngân hàng nhà nớc áp dụng lãi suẩt 0,2%/ tháng ( bằng VND )
và 4,86%/năm ( bằng ngoạI tệ ). Đồng thời những tổ chức thiếu tiền gửi dự trữ bắt
buộc trong kì duy trì bị phạt mức 200% lãi suất cho vay tái cấp vốn của Ngân hàng nhà
nớc ( đối với dự trữ bắt buộc bằng VND ) và 200% lần lãi suất cho vay bằng đô la do
thống đốc Ngân hàng nhà nớc quy định trong cùng thời kì (đ ối với dự trữ bắt buộc
bằng USD ). Trong năm 2000 tỷ lệ dự trữ bắt buộc đợc quy dịnh là 5% trên tổng số d
tiền gửi dới 12 tháng đối với các tổ chức tín dụng ở đô thị và 1% đối với các tổ chức tín
dụng ở nômhg thôn. Từ tháng 10 năm 2000 riêng tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại
tệ đợc nâng từ mức 5% nên 8% và từ ngày 1.12.2000 đợc đIều chỉnh lên tới 12% trên
tổng số d tiền gửi bằng ngoạI tệ dới 12 tháng áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức

tín dụng.
Tái cấp vốn: Ngân hàng nhà nớc thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp
khó khăn tạm thời về thanh toán cho các ngân hàng thơng mại theo hình thức cho vay
thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các ngân hàng thơng mại taị Ngân hàng trung ơng .
Năm 1998 lãi suất tái cấp vốn đợc đIều chỉnh từ 1%/tháng lên 1,1%/tháng. Năm 1999
cùng với việc giảm trần lãi suất cho vay, lãi suất tái cấp vốn cũng đợc giảm xuống mức
0,85%/tháng. Hiện nay lãi suất cho vay tái cấp vốn của Ngân hàng nhà nớc là
0,5%/tháng và lãi suất tái chiết khấu là 0,45%/tháng.
Lãi suất : Thời kì này đánh dấu hai sự thay đổi căn bản về đIêu hành lãi suất,
thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế của Việt Nam, đó là đIều hành chính sách lãi
suất thông qua mức lãi suất trần, và sau đó là lãi suất cơ bản tiến tới tự do hoá lãi
suất.
Đối với lãi suất trần, Ngân hàng nhà nớc khống chế tỉ lệ chênh lệch giữa cho
vay và lãi suất huy động ở mức 0,35%/tháng. Trần lãi suất trong năm 1999 đợc
Ngân hàng nhà nớc điều chỉnh liên tục phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung
cầu vốn tín dụng tạI từng thời điểm. Tháng 5 năm 1999 trần lãi suất cho vay bằng
VND đợc đIều chỉnh giảm từ 1,2%/tháng xuống mức 1,15%/tháng. Từ tháng 6 năm
1999 từ chỗ nhiều trần lãi suất (ngắn, trung và dàI hạn), đã thống nhất một trần áp
dụng chung cho các tổ chức tín dụng, không phân biệt quốc doanh hay cổ phần.
Tháng 8 năm 1999 Ngân hàng nhà nớc tiếp tục đIều chỉnh giảm lãi suất cho vay
bằng VND từ 1,15%/tháng xuống 1,05%/tháng. Đến tháng 10 năm 1999 trớc tình
hình thiểu phát của đầu năm 1999 Ngân hàng nhà nớc lạI một lần nữa điều chỉnh
giảm trần lãi suất xuống còn 0,85% đối với khu vực thành thị.
Việc giảm liên tiếp trần lãi suất cho vay là một biện pháp của Ngân hàng nhà nớc để đối phó với tình trạng thiểu phát và góp phần thực hiện giảI pháp kích cầu về
đầu t của chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng. Tuy nhiên biện pháp
hành chính này đã gây ra khó khăn rất lớn cho các ngân hàng thơng mại trong việc
duy trì lợi nhuận, thậm chí còn đe doạ đến khả năng đảm bảo an toàn thanh toán. Vì
vậy sau một thời gian chuẩn bị xây dựng đề án với nhiều ý kiến, quan đIểm khác
nhau đến ngày 5.8.2000 Ngân hàng nhà nớc đã chính thức chuyển sang cơ chế đIều


12


hành theo lãi suất cơ bản. Các ngân hàng thơng mại đợc chủ động quy định mức lãI
suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh lãi suất cơ bản. Từ tháng 8
đến tháng 12 ăm 2000 lãi suất cơ bản đối với VND vẫn liên tục đợc giữ nguyên ở
mức 0,75%/tháng. Các ngân hàng thơng mại đợc qui định mức lãI suất cho vay cụ
thể xoay quanh biên độ 0,3%/ tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với
cho vay trung và dài hạn. Đầu tháng 3.2001 do sự sụt giảm đồng loạt của mức lãi
suất trên thị trờng tiền tệ của nhiều quốc gia trên thế giới, Ngân hàng nhà nớc Việt
Nam dã quyết định giảm mức lãi suất cơ bản xuống 0,025%/tháng, tức là ở mức
0,725%.
Nghiệp vụ thị trờng mở: Đầu tháng 7 năm 2000, lần đầu tiên Ngân hàng nhà
nớc đã chính thức đa nghiệp vụ thị trờng mở vào hoạt động, đIều nàu hoàn toàn phù
hợp với thông lệ quốc tế. Tổng số đã có 14 ngân hàng thơng mại đăng kí và đợc
chấp nhận là thành viên của thị trờng. Bình quân 10 ngày tổ chức một phiên giao
dịch. Đến đầu tháng 12 năm 2000 ngân hàng thơng mại đã tổ chức đợc 13 phiên
giao dịch với tổng khối lợng tín phiếu mua bán là 1428 tỷ đồng ( mua vào 878 tỷ
đồng, bán ra 550 tỷ đồng ).Lãi suất giao dịch từ 4,95% đến 5,58%.
Trong năm 2000 Ngân hàng nhà nớc cũng đã tổ chức đợc 43 phiên đấu thầu trái
phiếu kho bạc, bình quân mỗi tuần một phiên. Tổng kế hoạch đa ra đấu thầu là 6500
tỷ đồng trong khi tổng số vốn đăng kí dự thầu là 12.000 tỷ đồng, tổng khối lợng
trúng thầu là 4800 tỷ đồng. lãi suất trúng thầu đầu năm là 6%/năm đến giữa năm
giảm xuống còn 4,9%/năm và cuối năm tăng lên là 5,3%-5,35%/năm.
Tỷ giá hối đoái và quản lí ngoại hối: Thông qua việc can thiệp và công bố tỷ giá
giao dịch bình quân trên thị trờng giao dịch liên ngân hàng, Ngân hàng nhà nớc đã
đIều chỉnh tăng tỷ giá giữa VND và USD đần dần, đều dặn qua các phiên giao dịch,
tránh tạo nên các cú sốc tăng đột giá, gây bất lợi cho các doanh nghiệp và thị trờng.
Trong ca s tháng cuối năm , bình quânmỗi phiên giao dịch tỷ giá tăng từ 5 dồng đến
7 đồng/USD. Từ đó làm cơ sở cho các ngân hàng thơng mại đIều chỉnh tỷ giá mua

bán của mình đối với khách hàng, tác động đến tỉ giá trên thị tr ờng tự do. Đến cuối
năm 2000 tỷ giá trên cả ba thị trờng đã tăng so với đầu năm nh sau :
- Thị trờng ngoạI tệ liên ngân hàng tăng 3,1% (14.450/14.016 đồng)
- Thị trờng mua bán của các ngân hàng thơng mại tăng 2,9%
(12.460/14042 đồng).
- Thị trờng tự do tăng 3,96% (14.700/14139 đồng).
Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, Ngân hàng nhà nớc quy định lại nguyên tắc giao
dịch tỷ giá, sắp xếp lại các bàn thu đổi ngoạI tệ, mở rộng thêm đối tợng vay, bán ngoại
tệ cho các nhà đầu t nớc ngoài.
II. Những mặt hạn chế và nguyên nhân.
Một điều không thể phủ nhận là bớc sang thời kì đổi mới, chính sách tiền tệ đã
chứng tỏ vai trò hết sức quan trọng trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô của quốc
gia, có tác động đến toàn bộ hoạt động nền kinh tế. Nó đã duy trì sự ổn định của hệ
thống tiền tệ, giữ vững giá trị của đồng bản tệ, tạo lòng tin trong nớc và nứơc ngoài thúc
đẩy đầu t, góp phần thúc đẩy sự tăng trởng liên tục và vững chắc của nền kinh tế, kìm
giữ lạm phát. Trong thực tế cơ chế diều chỉnh cũ đã đem lại sự thành công đáng kể cho
chính sách tiền tệ trong thập kỉ 90 khi nhìn vào các chỉ số vĩ mô, lạm phát, sản lợng,

13


việc làm. Chính sách tiền tệ đã đạt đợc hiệu quả tối đa của nó: tỷ lệ lạm phát đã đợc duy
trì ở mức một con số cùng tốc độ tăng trởng bình quân đạt 8,6%/năm trong gần 10 năm.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nớc đã
bắt đầu tỏ ra lúng túng và thiếu chủ động trong việc đIều tiết lợng tiền cung ứng, đảm
bảo với nhu cầu phù hợp tiền tệ của nền kinh tế. Lí do chính dẫn đến tình trạng này là
hạn chế vốn có của sơ chế đIều hành cũ, mà cụ thể là những công cụ đIều tiết mà Ngân
hàng nhà nớc Việt Nam đã sử dụng từ trớc đến nay.
Thứ nhất các công cụ này không cho phép Ngân hàng nhà nớc có thể điều chỉnh
linh họat lợng vốn khả dụng trong điều kiên ứ thừa. Tình trạng dự trữ không mong muốn

của các ngân hàng thơng mại bắt đầu từ 1994 và kéo dài cho đến nay. Lý do ban đầu có
lẽ bởi sự duy trì lãi suất tiền gửi cao cùng với việc khống chế trần tín dụng trong những
năm 1994-1996. Dự trữ ngoạI tệ tăng lên rất mạnh trong thời gian này và tỷ lệ tiền mặt
trên tiền gửi có xu hớng giảm xuống ( năm 1995 tỷ lệ này là 1,3; năm 1996 là 0,8; 1997
là 0,5 ).Tuy nhiên lí do chính của tình trạng này từ năm 1997 đến nay lạI nằm ở sự giảm
sút tổng cầu của nền kinth tế, phản ánh sự giảm sút nhu cầu tiền tệ, đặc biệt nhu cầu
giao dịch. Thực tế này làm cho các ngân hàng thơng mại phảI chị áp lực rất mạnh về chi
phí vốn đồng thời làm giảm thiểu tính hiệu quả của chính sách tiền tệ . NgoàI dự trữ bắt
buộc ( thay đổi rất chậm chạp ), Ngân hàng nhà nớc không có các côg cụ để hấp thụ lợng vốn khả dụng thừa một cách chủ động.
Hai là các công cụ này ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lợng
tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ. Điều này thể hiện rõ
nét trong các năm 1998, 1999, 2000, khi trần lãi suất và lãi suất cơ bản giảm liên tục nhng giá cả không những không tăng mà tiếp tục giảm. Đơng nhiên sự giảm sút này xuất
phát chủ yếu từ các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn từ yếu tố tiền tệ
danh nghĩa. nhng chính sách tiền tệ đã không chủ động khi đối mặt với tình trạng này và
do đó làm cho sự tác động của nó trở nên kém hiệu quả. Về mặt lí thuyết hiệu quả ngắn
hạn của chính sách tiền tệ có đợc khi nó tạo đợc các cú sốc tiền tệ ( theo Milton
Friedmen ) hoặc nó xuát phát từ sự dự tính không hoàn hảo của công chúng đối với sự
biến động của giá cả theo quan điểm của Luca. Tuy nhiên trên thực tế các quyết định
điều chỉnh của trần lãi suất cho vay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thờng đuổi theo sự giảm giá và
đi sau sự đIều chỉnh tự phát của thị trờng hoặc nó phải căn cứ vào dấu hiệu của thị trờng
( lãi suất, tỷ giá, giá cả ) thay cho việc tạo nên những dấu hiệu đó. Các đợt điều chỉn trần
lãi suất có tác dụng khẳng định hơn là hớng dẫn diễn biến thực tế và dự đoán của công
chúng. Điều này rõ ràng đã triệt tiêu ảnh hởng tích cực của chính sách tiền tệ .
Ba là, hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạnh chế vì không lợi dụng đợc
các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị trờng tài chính
với những ảnh hởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và ngoại tệ. Việc sử dụng các công cụ
trực tiếp và các chính sách điều chỉnh nh hiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác
động đến các mục tiêu vĩ mô thông qua kênh dẫn truyền trực tiếp và chủ yếu thông qua
tác động về mặt khối lợng. Kênh dẫn truyền gián tiếp chủ yếu lợi dụng cơ chế tác động
cuả thị trờng tàI chính thông qua sự thay đổi giá tài sản và sự cơ cấu lại danh mục đầu t.

Với các công cụ đầu t gián tiếp, đặc biệt là nghiệp vụ thị trờng mở, Ngân hàng trung ơng
có thể đa phơng truyền tác động của nó đến các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền
tệ, bao gồm các kênh dẫn truyền trực tiếp và gián tiếp.

14


Việc phân tích những hạn chế của công cụ trực tiếp cũng nh chỉ ra những lợi thế
của công cụ gián tiếp trong đIều hành chính sách tiền tệ không có nghĩa là phủ nhận
hoàn tác động tích cực của chúng trong đIều tiết lợng tiền cung ứng trong thời gian qua.
Trong thực tế khi các điều kiện sử dụng gián tiếp cha chín muồi bao gồm: (1)Hệ thống
ngân hàng lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh; (2).Thị trờng tiền tệ thứ cấp hoạt động
tích cực và đợc điều tiết hiệu quả; (3).Các công cụ ảnh hởng có hiệu quả đến lãi suất của
các kênh truyền dẫn đợc hoàn thiện, thì việc sử dụng các công cụ trực tiếp đảm bảo đợc
tính hiệu quả nhất định của nó. Tuy nhiên đã đến lúc cơ chế diều chỉnh chính sách tiền
tệ cần đợc thay đổi, nền kinh tế đang đứng trớc thách thức của nhu cầu mở cửa và hội
nhập toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không đảm bảo
cho nó tránh đợc những ảnh hởng mạnh mẽ từ thị trờng bên ngoài. Hơn nữa sau 10 năm
đổi mới và với những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực ngân hàng, những diều kiện cho
phép sử dụng cơ chế đIều chỉnh gián tiếp đang dần hình thành, hứa hẹn một khả năng
chắc chắn cho sự chuyển đổi cơ chế đIều tiết lợng tiền cung ứng.

15


Chơng III
Các giảI pháp nhằm nâng cao hiệu quả
các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam:
I.Những quan điểm, định hớng hoàn thiện:
Mục tiêu trực tiếp của chính sách tiền tệ ở Việt Nam là thúc dẩy tăng trởng kinh tế

và kiểm soát lạm phát. Do đó các chỉ tiêu chính đề ra cho năm 2001: khối lợng tiền cung
ứng, mức tăng tổng phơng tiện thanh toán, tốc độ tăng của nguồn vốn huy động và tố độ
tăng của d nợ cho vay nền kinh tế sẽ tơng ứng với các chỉ tiêu đạt đợc năm 2000, và hớng tới đạt đợc chỉ tiêu tăng trởng GDP và mức độ lạm phát theo nghị quyết của Quốc
Hội đã đề ra. Trong đó dự toán tổng phơng tiện thanh toán tăng 20-22%, tổng khối lợng
tiền cung ứng tăng 24-26%, huy động vốn tăng 25-27%, d nợ cho vay nền kinh tế tăng
20-22%.
Chính sách tiền tệ cũng cần đợc cụ thể hoá theo hớng tích cực với nguyên tắc
nới lỏng, linh hoạt, đồng bộ và hiệu lực. Những cơ chế, qui chế, thể lệ hợp thức hơn,
mang đầy đủ hiệu lực pháp lí hơn đợc áp dụng. Từng bớc chuyển nhanh, chuyển mạnh
đIều hành chính sách tiền tệ bằng những biện pháp mệnh lệnh hành chính còn khá phổ
biến sang sử dụng có hiệu quả những biện pháp kinh tế, những công cụ, chính sách thị
trờng là chủ yếu. Đề cao hiệu quả kinh tế , an toàn và chủ động phòng ngừa rủi ro. Phát
triển mạnh mẽ thị trờng tiền tệ và tăng cờng "độ sâu tài chính " của hệ thống tiền tệ
quốc gia. Đi đôi với đó là mở rộng phân công, phân cấp, phân quyền các tổ chức thanh
tra, giám sát tài chính, chú trọng kiểm soát tài chính-ngân hàng, đảm bảo sự minh bạch
trong chế độ thông tin, báo cáo tài chính, kế toán,
TạI hội nghị TW6 lần thứ nhất ( ĐạI Hội VIII), Ban Chấp Hành Trung Ương
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có sự điều chỉnh nhất quán về sách l ợc, biện pháp chỉ đạo
nền kinh tế với nhiệm vụ xuyên suốt là phát triển nông nghiệp nông thôn, coi đây là "bệ
phóng" để đẩy tới một bớc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế ở thập niên 20002010 với tầm nhìn 2020. Theo đó sẽ có sự chuyển dịch căn bản về c cấu kinh tế, trớc hết
là sự chuyển dịch cơ cấu đầu t, dựa vào cơ cấu lại từ nguồn vốn cho đến sử dụng vốn,
dành vốn u tiên đầu t nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế.
Do vậy, nội dung hoàn thiện chính sách tiền tệ không nằm ngoài những định hớng đã
nêu trên.
II.Những giải pháp đối với các công cụ:
Dự trữ bắt buộc:
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức và mọi tài
sản nợ. Cần cho phép tính toán và áp dụng dự trữ bắt buộc bình quân theo kì, thờng tính
theo tuần để các ngân hàng có sự linh hoạt trong quản lí vốn khả dụng của mình và do
đó thúc đẩy sự phát triển của thị trờng tiền tệ. Việc không tuân thủ cần bị xử phạt

nghiêm khắc thể hiện bằng lãi suất phạt áp dụng trên số thiếu hụt bình quân cả ki và lãi
suất phạt này phải cao nhất so với các mức lãi suất khác. Ngân hàng nhà n ớc phải có
quyền qui định cách thức tính toán, loại hình tài sản nợ cũng nh loại hình tổ chức áp
dụng dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc không đợc hởng lãi có tác dụng làm tăng chi phí huy động vốn, mức
chênh lệch lãi suất và do đó tác động tới lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay cuối cùng.
Nếu tỉ lệ dự trữ bắt buộc không đợc hởng lãi đợc qui định ở mức rất cao thì sẽ gây ra
những ảnh hơng không nh mong muốn giống nh các công cụ trực tiếp, đặc biệt khi
không áp dụng đòng đều với tất cả các tổ chức. Do đó cần giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc và

16


giữ ở mức thấp khi các công cụ khác đã hoạt động có hiệu quả. Cũng cần xem xét việc
trả lãi một phần hay toàn phần phần dự trữ bắt buộc vợt quá một mức nhất định.
Dự trữ bắt buộc luôn đợc hạ thấp một cách dễ dàng nhng không dễ tăng dự trữ bắt
buộc vì nó đòi hỏi từng ngân hàng phải có sự điều chỉnh lớn trong danh mục đầu t và do
đó dự trữ bắt buộc không phải là một công cụ linh hoạt. Tuy nhiên dự trữ bắt buộc trong
một vài trờng hợp tỏ ra rất hữu hiệu và nên là một trong những công cụ của bất kì ngân
hàng nào.
Tái chiết khấu :
Các Ngân hàng trung ơng thờng bắt đầu quá trình cải cách với nhiều thể thức tái
cấp vốn, kể các thể thức dài hạn dành cho các dự án đặc biệt và các tiểu ngành. Lãi suất
tái cấp vốn áp dụng đối với từng thể thức cũng khác nhau và đôi khi hiếm khi gắn với lãi
suất thị trờng và thờng là bao cấp. Các thể thức tái cấp vốn này thờng đợc dùng chủ yếu
nh là các công cụ tín dụng có lựa chọn hơn là các công cụ tiền tệ mặc dù chúng có tác
động tổng thể trực tiếp về mặt tiền tệ. Các thể thức này buộc Ngân hàng trung ơng phải
than gia vào việc đa ra các quyêt định vi mô và có thể không áp dụng đồng đều với mọi
ngân hàng. Đây là công cụ tiền tệ không linh hoạt và hầu nh hoàn toàn thuộc quyền chủ
động của các ngân hàng thơng mại.

Cần hợp nhất các thể thức tái cấp vốn thành một thể thức với một lãi suất cho
vay tái cấp vốn duy nhất. Thơng cần phải có một thể thức tái chiết khấu chung để cung
cấp vốn khả dụng cho thị trờng và ngăn chặn việc biến động quá mức của lãi suất nhắn
hạn, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng. Thể thức này cần áp dụng thống nhất với mọi
ngân hàng và cho phép đợc vay tự động với các qui tắc và hạn mức qui định trớc. Hạn
mức vay cần phải gắn với vốn của ngân hàng hay tài sản thế chấp.
Cần qui định thời hạn vay vốn tối đa càng ngắn càng tốt để cho phép Ngân hàng
trung ơng chủ động thay đổi điều kiện vay khi cần thiết. Một số Ngân hàng trung ơng
qui định thời hạn vay tối đa không quá vài ngày. Điều nầy có nghĩa là các ngân hàng thơng mại muốn sử dụng vốn lâu hơn thời hạn tối đa phải gia hạn tín dụng ngắn hạn với
điều kiện đã thay đổi.
Đối với thể thức tái chiết khấu, biến số chính sách chủ chốt là lãi suất chiết khấu.
Nếu không có một thị trờng tiền tệ phát triển thì có thể phải qui định lãi suất này theo
phơng pháp hành chính. Một số Ngân hàng trung ơng tổ chức đấu giá tín dụng của Ngân
hàng trung ơng để xác định lãi suất chiết khấu. Qui tắc căn bản là phải giữ lãi suất chiết
khấu cao hơn lãi suất tiền gửi để buộc các ngân hàng phải huy động tiền gửi trớc khi vay
vốn của Ngân hàng trung ơng. Ngay khi có thể, cần đạt lãi suất cao hơn lãi suất tham
chiếu chuẩn của thị trờng tiền tệ. Ngoài thể thức cung cấp vốn khả dụng, hầu hết các
Ngân hàng trung ơng còn đóng vai trò là ngời cho vay cuối cùng thông qua thể thức cho
vay khẩn cấp.
Nghiệp vụ thị trờng mở:
Trong thời gian tới, để có thể hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trờng mở, chúng
ta cần giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, điều kiện cần để nghiệp vụ thị trờng mở có thể vận hành là các công
cụ của thị trờng mở phải hiện hữu. Tại các nớc, công cụ phổ biên trên thị trờng mở là
tín phiếu kho bạc, ở đó nghiệp vụ đợc Ngân hàng trung ơng sử dụng là đấu thầu tín
phiếu kho bạc. Tại Việt Nam, trong thời gian tới, để tạo điều kiện cho Ngân hàng nhà nớc sử dụng nghiệp vụ thị trờng mở cần tập trung phát hành tín phiếu kho bạc thông qua
đấu thầu. Hoạt động nay sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng nhà nớc sử dụng thị trờng đấu
thầu nh một công cụ đắc lực để thực hiện chính sách tiền tệ trong cùng thời kì, tác động
gián tiếp tới khối lợng tiền cung ứng. Ngân hàng nhà nớc có thể kiểm soát chặt hơn khối
lợng tiền trong lu thông đồng thời khai thác tối đa các nguồn tiền trong xã hội, đáp ứng


17


nhu cầu vốn đầu t cho nền kinh tế. Ngoài việc giải quyết vấn đề phát huy nghiệp vụ thị
trờng mở thì việc tập trung đấu thầu tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng nhà nớc còn tạo
điều kiện giảm lãi suất phát hành tín phiếu kho bạc so với việc chính kho bạc nhà nớc
phát hành. Mặt khác, để tạo điều kiện cho vấn đề chuyển nhợng, mua bán các chứng từ
có giá hình thành các giao dịch hợp pháp trên thị trờng mở, nhà nớc cần sớm ban hành
khung luật pháp về việc phát hành và lu thông các chứng từ có giá.
Thứ hai, hạn chế việc cung ứng tín dụng của Ngân hàng nhà nớc cho các ngân
hàng thơng mại thông qua cửa sổ chiết khấu. Nếu không có những hạn chế này, thì
nghiệp vụ thị trờng mở không thể sử dụng nh một công cụ tiền tệ chủ yếu. Để hạn chế
cung ứng tín dụng, Ngân hàng trung ơng các nớc thờng thực hiện tăng lãi suất cấp vốn
hoặc đặt ra những qui định hạn chế khi ngân hàng thơng mại muốn vay tiền tại cửa sổ
chiết khấu. Điều này sẽ làm giảm tính hấp dẫn nguồn tín dụng qua Ngân hàng trung ơng, từ đó khuyến khích các ngân hàng thơng mại phải tìm nguồn bổ sung từ thị trờng
mở.
Thứ ba, xây dựng một thị trờng tiền tệ năng động, đặc biệt là thị trờng tiền tệ
liên ngân hàng. Bởi vì môi trờng để Ngân hàng trung ơng phát huy nghiệp vụ thị trờng
mở chính là thị trờng tiền tệ. Thị trờng này phải thông suốt và năng động, nghĩa là các
giao dịch phải liên tục,nguồn thông tin từ thị trờng phải cập nhật và chính xác. Để đạt đợc điều này, trớc hết thị trờng liên ngân hàng, hạt nhân trung tâm của thị trờng tiền tệ
phải đợc xác lập và phát triển. Trong đó các chủ thể đại diện cho nguồn cung - cầu, vốn
là các ngân hàng thơng mại phải thật sự năng động.
Điều hành tỉ giá:
Đối với công cụ này, xin phép đợc kiến nghị một số giải pháp:
Thứ nhất, Ngân hàng trung ơng phải có ngoại tệ đủ mạnh. Khi cung cầu ngoại
tệ trên thị trờng thay đổi thì tỉ giá trên thị trờng sẽ thay đổi, nếu Ngân hàng nhà nớc
muốn giữ tỉ giá ổn định thì buộc phải can thiệp. Nếu cung lớn hơn cầu, Ngân hàng nhà
nớc chỉ việc tung VND ra mua ngoại tệ, làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ của mình. Nhng
ngợc lại, nếu cầu ngoại tệ cao hơn cung ngoại tệ( khả năng dễ xảy ra hơn), thì không

còn cách nào khác, để giữ tỉ giá, Ngân hàng nhà nớc buộc phải tung ngoại tệ ra bán.
Song không chỉ nh vậy, dự trữ ngoại tệ còn cần phải đủ mạnh để sẵn sàng đối phó với
những âm mu kích động yếu đầu cơ trên thị trờng.
Thứ hai, xử lí tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỉ giá. Giữa hai yếu tố này có mối
quan hệ ràng buộc khá chặt chẽ, nên tỉ giá có xu hớng giảm thì ngời ta bắt đầu quan tâm
đến lãi suất, nếu lãi suất có xu hớng giảm thì ngợc lại, ngời ta lại quan tâm đến tỉ giá.
Các hành vi bán - mua - gửi - rút ngoại tệ luôn quan hệ xoắn xuýt với nhau và chúng sẽ
tạo ra dòng luân chuyển giữa VND và ngoại tệ. Vì vậy, quan tâm đến tỉ giá thì không thể
không quan tâm đến lãi suất và ngợc lại.
Về quản lí ngoại hối, các giải pháp cần thiết là: nên quan tâm hơn đến nguồn
ngoại tệ đang đợc dùng để buôn bán bât hợp pháp, ngăn chặn hiện tợng chảy máu ngoại
tệ, có biện pháp xử lí thích đáng những trờng hợp vi phạm chế độ quản lí ngoại hối, bên
cạnh đó đáp ứng đầy đủ nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp, tạo sự tiện ích để khơi tăng
nguồn thu từ kiều hối.
III. Một số kiến nghị:
Vai trò của chính phủ đối với chính sách tiền tệ là rất qua trọng, bởi vì bất cứ một
chính sách tiền tệ quốc gia nào cũng tồn tại nh là một thành phần trong chỉnh thể, là hệ
thống chính sách vĩ mô của nhà nớc, do đó hiệu quả của chính sách tiền tệ phụ thuộc rất
nhiều vào chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ. Tuy nhiên trong điều kiện nớc ta
hiện nay cần có một cơ chế độc lập giữa chính phủ và Ngân hàng nhà nớc . Để phát huy
hiệu quả của chính sách tiền tệ, chính phủ không nên là chủ thể điều tiết chính sách tiền

18


tệ mà nên dần chuyển giao vai trò này cho Ngân hàng nhà nớc, và tự mình đứng về phía
là khách thể thậm chí một đối tác của chính sách tiền tệ Quốc gia.
Để làm đợc điều này xin phép đợc đa ra một số kiến nghị nh sau:
Chính phủ cần tạo điều kiện cho Ngân hàng nhà nớc Việt Nam độc lập hơn nữa
trong việc hạch định và tổ chức chính sách tiền tệ Quốc gia. thứ nhất sự độc lập ấy

không cần nh ở Mỹ, Đức, Thuỵ Sĩ nhng chỉ cần trong việc hoạch định và thực thi chính
sách tiền tệ. Chính phủ chỉ nên đa ra những giải pháp chính chứ không nên can thiệp
vào quá trình điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nớc . Thứ hai cần xoá bỏ ơ
chế định mức phát hành tiền của chính phủ nh hiện nay. Bởi vì cơ chế phát hành tiền cần
phải đợc thực hiện dựa trên chỉ tiêu của chính phủ đề ra. Muốn vậy cần phải để cho
Ngân hàng nhà nớc hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn thời điểm, phơng pháp, khối
lựơng tiền bơm vào hoặc rút ra khỏi lu thông.
Để chính sách tiền tệ quốc gia lệch có thể đợc thực hiện một cách thông suốt cần
phải thiết lập các ngân hàng khu vực và xoá bỏ các chi nhánh Ngân hàng nhà nớc tại các
tỉnh, thành phố nh hiện nay. Bởi vì các chi nhánh Ngân hàng nhà nớc thờng phải chịu áp
lực rất lớn từ các chủ trơng, chính sách của địa phơng. Điều đó một phần nào đã vô hiệu
hoá hoặc làm sai lệch các chủ trơng của chính sách tiền tệ. Khi các ngân hàng khu vực
đợc thiết lập, mối quan hệ các bộ phận của Ngân hàng nhà nớc theo cả chiều dọc lẫn
chiều ngang sẽ đợc củng cố, chính sách tiền tệ quốc gia sẽ đợc thực hiện thống nhất từ
trên xuống dới.
Nhà nớc cần sớm ban hành các luật, văn bản dới luật nhằm tạo ra một môi trờng
pháp lí thuận lợi thúc đẩy hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng nói chung phát triển và
hoạt động của Ngân hàng nhà nớc nói riêng đợc độc lập và có hiệu quả hơn.
Về
phía Ngân hàng nhà nớc Việt Nam, chủ thể thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, cũng
xin phép đợc đa ra một số kiến nghị:
Với việc sử dụng các công cụ của cơ chế thị trờng để can thiệp, Ngân hàng nhà nớc cần phải có đợc thông tin cập nhật và tiếp xúc thờng xuyên với thị trờng. Điều này
đòi hỏi phải có sự thay phải có sự thay đổi trong phơng thức hoạt động của Ngân hàng
nhà nớc, chuyển từ theo dõi thụ động và định kì việc tuân thủ các quy định bắt buộc
sang tham gia một cách tích cực và thờng xuyên. Việc theo dõi hàng ngày các diễn biến
về tỷ giá, lãi suất và vốn khả dụng trên thị trờng tiền tệ sẽ cho biết thời điểm có sự căng
thẳng trên thị trờng và mức độ can thiệp.
Sự cấp thiết bphải có mặt và can thiệp thờng xuyên trên thị trờng đòi hỏi phải có sự
có sự thay đổi trong quy trình ra quyết định, tổ chức, hệ thống thông tin và bố trí nhân
lực.Các công cụ bắt buộc có thể đợc quản lý với cơ chế ra quyết định tập trung ở cấp cao

nhất, thờng là thống đốc hoặc hội đồng quản trị của Ngân hàng trung ơng, thậm chí phải
có ý kiến của chính phủ. tuy nhiên việc sử dụng các công cụ của cơ chế thị trờng đòi hỏi
phải có quy trình ra quyết định phi tập trung và trên cơ sở uỷ quyền. Các cơ quan ra
quyết định cấp cao sẽ đề ra mục tiêu và khung can thiệp mang tính chính sách, sau dó
trong khung hớng dẫn này một nhóm cán bộ điều hành dới sự chỉ đạo của một cơ quan
cấp cao, có thể là phó thống đốc sẽ đa ra quyết định điều hành. Thẩm quyền đợc tiếp tục
phân xuống cho những ngời giao dịch tại phòng giao dịch của Ngân hàng nhà nớc . Đây
là những tiếp xúc trực tiếp với thị trờng và thực hiện các giao dịch.
Về mặt tổ chức, Ngân hàng nhà nớc đợc chia thành các vụ riêng rẽ nh quản lý các
hoạt động về ngoại tệ, tái cấp vốn, theo dõi việc chấp hành dự trữ bắt buộc, nghiên cứu
và lập chơng trình tiền tệ Các vụ này thờng có ít sự tơng tác. Với sự thay đổi điều
hành chính sách, cần phải tập trung việc quản lý các công cụ kiểm soát tiền tệ vào một
vụ. nhiều Ngân hàng trung ơng còn đi xa hơn với việc sáp nhập các vụ nghiệp vụ trong
nớc và ngoại tệ để đảm bảo sự phối hợp tốt hơn. Hệ thống kế toán cũng đợc hợp lý hoá

19


và hiện đại hoá để cung cấp các thông tin công cập nhật cần thiết để quản lý ngắn hạn
các hạng mục hủ yếu trên bảng cân đối ủa Ngân hàng nhà nớc .
Cần quan tâm đúng mức tới vấn đề cán bộ. Việc thay đổi công cụ công cụ và cơ chế
vận hành chính sách đòi hỏi phải có sự đào tạo cán bộ trên qui mô lớn do các kĩ năng
thực hiện việc kiểm soát trực tiếp có thể khác hẳn với các kĩ năng cần có để giao dịch
trên thị trờng. Việc thiếu cán bộ Ngân hàng nhà nớc có đủ năng lực có thể trở thành trở
ngại lớn cho việc cải cách quản lý tiền tệ và quản lý thị trờng tài chính nói chung. Ngân
hàng nhà nớc cũng phải chú trọng đào tạo cán bộ chuyên môn và các hình thức khuyến
khích thích hợp để giữ đợc đội ngũ cán bộ có huyên môn cao.Đồng thời Ngân hàng nhà
nớc phải đầu t cho công nghệ hiện đại nh máy tính và các phơng tiện viễn thông để hoõ
trợ cho các nghiệp vụ mới.
Ngoài ra, Ngân hàng nhà nớc cũng cần phải có những thay đổi trong hệ thống ngân

hàng nói chung, cần phát triển một môi trờng cạnh tranh hiệu quả trên cơ sở tiêu chí về
khả năng sinh lời. Các ngân hàng có thể phải đợc sắp xếp lại và đợc cấp thêm vốn để
hoạt động có lãi trong môi trờng cạnh tranh khốc liệt. Việc kiểm soát phòng ngừa cần đợc tăng cờng để tạo ra các điều kiện thị trờng có trật tự trong khuôn khổ có quy tắc và
quy chế thích hợp.

20


Kết luận

Chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ là một đề tài không còn
mới. Nhng thực tiễn cho chúng ta thấy đây vẫn, đã đang và sẽ tiếp tục là vấn đề làm đau
đầu các nhà nghiên cứu kinh tế cũng nh các nhà quản lý. Các nớc trên thế giới với hàng
trăm năm phát triển kinh tế thị trờng là một kho tàng kinh nghiệm vô cùng quý giá để
chúng ta chắt lọc và vận dụng. Tuy nhiên Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của xây
dựng kinh tế thị trờng, thêm nữa nền kinh tế Việt Nam có những đặc trng hoàn toàn
riêng, vì vậy không phải bất kì một mô hình chính sách tiền tệ nào đợc áp dụng trên thế
giới cũng có thể vận dụng vào Việt Nam. ở đây muốn nhấn mạnh rằng, một chính sách
tiền tệ quốc gia phù hợp với Việt Nam phải là một chính sách tiền tệ dần đợc hoàn thiện.
Cuối cùng, do đề án này đợc viết trong thời gian ngắn và khả năng của ngời viết có
hạn nên mặc dù đã cố gắng cập nhật những thông tin mới nhất về tình hình Việt Nam,
trên cơ sở đó bằng những hiểu biết của bản thân đa ra những phân tích, đánh giá và giải
pháp hoàn thiện, song đề án này chắc hẳn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất
mong nhận đợc sự đóng, phê bình thẳng thắn từ thầy cô giáo và những ngời đọc để trong
tơng lai, đề tài này có thể đơc nâng lên thành một luận văn tốt nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!

21



Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Tập bài giảng môn học: "Lý thuyết tiền tệ ngân hàng" - Học viện ngân hàng

2.

Giáo trình "Nhiệp Vụ Ngân Hàng Trung Ương" - Học viện ngân hàng

3. Trần Xuân Lâm " Hệ Thống Công Cụ Chính Sách Tiền Tệ Quốc Gia Trong Nền
Kinh Tế Thị Trờng" -Nhà xuất bản Thống Kê -1998.
4.
Nguyễn Văn T " Tiền tệ, Tín Dụng, Ngân Hàng" -Nhà xuất bản Thống Kê
-1999.
5.

Craig Stinson "Tiền tệ: Chính Sách Và Tổ Chức " -Nhà xuất bản - 2000.

6.
Dơng Thu Hơng "Đổi Mới Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam" -Nhà xuất bản
Thống Kê -1997.
7.
Tạp chí " Thị Trờng Tài Chính - Tiền Tệ" các số 4, 7, 12/1998; 9,12/1999;
1,2/2000.
8.

"Tạp Chí Ngân Hàng " các số 9/1999, 12/1999, 1/2000, 2/2000.

22



1


2



×