Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận những vấn đề cơ bản về tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.49 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI
KHOA:

BÀI TIỂU LUẬN
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ XUẤT
NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
LỚP:
NHÓM:
THÀNH VIÊN:

HẢI PHÒNG, NĂM 2015


$$
LỜI MỞ ĐẦU
Với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra hết sức nhanh chóng, nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước tiến lớn về tăng trưởng, hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra hết sức sôi
động. Bên cạnh những thuận lợi của toàn cầu hóa, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt
với môi trường kinh doanh hết sức khốc liệt, tính chất cạnh tranh ngày càng cao. Điều đó đòi
hỏi một mặt phải có nhiều chính sách tài trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động
xuất nhập khẩu để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài, mặt khác không
vi phạm các qui ước quốc tế khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO).
Một trong những hình thức tài trợ đó là tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cùng với các
dịch vụ ngân hàng quốc tế khác ra đời và phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của các
doanh nghiệp về phát triển kinh doanh, chống đỡ rủi ro, nâng cao hiệu quả và tăng cường khả
năng cạnh tranh trong hoạt động thương mại quốc tế. Trải qua nhiều năm đổi mới, dịch vụ tín
dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ cả về quy mô, cũng như chất lượng dịch vụ.
Để thu hút khách hàng mỗi ngân hàng bên cạnh việc thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình. Đối với hoạt động


tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực của mình cùng với mục tiêu thu
hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân tán rủi ro các ngân hàng cũng lựa chọn các hình
thức tín dụng khác nhau đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu tài chính. Ngoài ra, nhằm hỗ trợ cho
hoạt động thanh toán của ngân hàng cũng như hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, ngân hàng đã
thực hiện hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu đi kèm với hoạt động thanh toán xuất nhập
khẩu. Tuy có nhiều hình thức tài trợ nhưng tập trung chủ yếu ba mảng tài trợ phổ biến tại
ngân hàng đó là nghiệp vụ chiết khấu, ứng trước chứng từ hàng xuất, cho vay mở thư tín
dụng thanh toán hàng nhập và bảo lãnh thanh toán.

QKT55-ĐHB1

TRANG 2


$$

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Khái quát chung về tài trợ xuất nhập khẩu:
Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại là hình thức hỗ trợ vốn cho doanh
nghiệp xuất nhập khẩu. Kỳ hạn tài trợ gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ, đối
tượng tài trợ là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc ủy thác. Giá trị tài trợ
thường ở mức vừa và lớn. Tài trợ của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu là hình
thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời
gian thu hồi vốn nhanh.
II. Vai trò của tài trợ xuất nhập khẩu:
Tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng sối với sự tồn tại và phát triển của ngoại
thương như đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Vai trò đó được thể hiện qua các mặt
sau:
1. Đối với ngân hàng thương mại:


Tài trợ xuất nhập khẩu nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý
thu các nguồn thanh toán. Đối với người xuất khẩu, khi ngân hàng chuyển toàn bộ chứng
từ giao hàng để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài đẫ chỉ định việc thanh toán tiền hàng
phải thông qua tài khoản của người cuất khẩu mở tại ngân hàng. Đối với người nhập khẩu,
trong trường hợp có tài trợ, ngân hàng sẽ sẽ buộc người nhập khẩu tập trung tiền bán hàng
vào tài khoản, mở tại ngân hàng. Do vậy, nguồn thu để trả các khoản tài trợ được ngân
hàng quản lý hết sức chặt chẽ, tránh được tình trạng xoay vốn của DN trong thời gian vốn
tạm thời nhần rỗi, để xảy ra rủi ro.
Hiệu quả của ngân hàng trong tài trợ xuất nhập khẩu thể hiện thông qua lãi suất. Có
nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ: Lãi cho vay thanh toán, lãi chiết khấu chứng từ,
lãi vay bắt buộc (bằng mức lãi quá hạn). Tiền lãi thu cao vì thường giá trị tài trợ ở mức vừa
và lớn.
2. Đối với doanh nghiệp:
QKT55-ĐHB1

TRANG 3


$$
Nhờ có sự tài trợ của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp có thể tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, mở rộng sản xuất kinh
doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp, đồng thời hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế. Tạo điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp phát triển sản xuất,
giúp doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn, có thể nâng cao được uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp họ thu mua hàng
đúng thời vụ, gia công chế biến hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, họ
mua được những lô hàng lớn, hạ giá.
3. Đối với nền kinh tế đất nước:


Tài trợ nhập khẩu góp phần phục vụ chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế của
đất nước, góp phần mở rộng mối quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới.
Tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông trôi chảy: thông qua tài trợ, hàng hóa xuất
nhập theo nhu cầu của thị trường được thực hiện thường xuyên, liên tục góp phần tang tính
năng động của nền kinh tế.
Thông qua tài trợ xuất nhập khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động
cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển: thông qua tài trợ xuất nhập khẩu, doanh nghiệp có điểu
kiện để thay đổi dây chuyền công nghệ máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động.
III. Các loại hình tài trợ xuất nhập khẩu:
Thông thường, nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hang thương mại gắn
liền với nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ này sẽ là tiền
đề, nền tảng hoặc bổ sung cho sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ kia. Mối quan hệ hữu
cơ không thể tách rời này có thể được dẫn giải như sau:
Với những hợp đồng ngoại thương giá trị vừa và lớn, vốn lưu động của khách hàng
thường không đủ để thực hiện hợp đồng. Khi đó, họ phải nhờ đến nguồn vốn của ngân
hàng thông qua các khoản tín dụng ngân hàng. Ngân hàng khi đó vừa là ngân hàng phục vụ
người xuất khẩu và người nhập khẩu, vừa là ngân hàng tài trợ cho thương vụ được thực
hiện.
QKT55-ĐHB1

TRANG 4


$$
Ngược lại, trong quá trình tài trợ, muốn đảm bảo đồng vốn tài trợ được sử dụng
đúng mục đích, quản lý được nguồn thu, ngân hàng sẽ tham gia thanh toán quốc tế với vai
trò là ngân hàng chiết khấu (Negotiating Bank), ngân hàng nhờ thu (Collection Bank) hay
ngân hàng phát hành (Issuing Bank).
Và như vậy, hoạt động mua bán quốc tế gắn liền với các thể thức thanh toán, tài trợ

xuất nhập khẩu. Hoạt động mua bán quốc tế càng được mở rộng thì các hình thức thanh
toán và tài trợ xuất nhập khẩu càng phải phát triển hoàn thiện và đa dạng. Căn cứ vào đối
tượng và mục đích cấp tín dụng, ta có thể chia tín dụng xuất nhập khẩu thành hai loại
chính: Tín dụng ngân hàng cấp cho người xuất khẩu và tín dụng ngân hàng cấp cho người
nhập khẩu. Trong mỗi loại đó, ta lại có thể chia tín dụng xuất nhập khẩu ra thành các hình
thức nhỏ hơn, cụ thể là:
1. Tài trợ xuất khẩu:
Hiện nay để tài trợ xuất khẩu các ngân hàng thương mại thường cho vay bằng đồng
Việt Nam hoặc ngoại tệ để thu mua hàng xuất khẩu. Tài trợ xuất khẩu hiện nay được áp
dụng cụ thể dưới các hình thức sau:
Tài trợ vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng
thư tín dụng (L/C) quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng.
Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng thông thường được áp dụng trong
trường hợp ngân hàng tài trợ vừa là ngân hàng thanh toán cho L/C xuất, nhà xuất khẩu xuất
trình bộ chứng từ và được thanh toán tại ngân hàng. Để giám sát và kiểm soát chặt chẽ tình
hình sử dụng vốn vay đúng mục đích, thông thường ngân hàng thực hiện tài trợ như sau:
Khi vay ngân hàng yêu cầu nhà nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất định cộng
thêm với số tiền vay ngân hàng để thu mua hàng hoá, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu.
Hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để tiếp tục vay và được nhập tại kho ngân hàng hoặc
nhập kho mà trước đó ngân hàng và nhà xuất khẩu thoả thuận và đồng ý, dưới sự giám sát
của ngân hàng; muốn xuất hàng ra khỏi kho phải có sự đồng ý của ngân hàng. Ngân hàng
tiếp tục cho vay, khách hàng sẽ dùng số tiền ngân hàng tài trợ để đi mua hàng, chế biến sản

QKT55-ĐHB1

TRANG 5


$$
xuất hàng hoá tiếp tục cứ như vậy cho đến khi bằng 100% giá trị lô hàng xuất khẩu. Thông

thường ngân hàng chỉ tài trợ khoảng 70% giá trị lô hàng xuất khẩu.
Sau khi giao hàng xong, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ phù hợp với những điều
kiện quy định trong L/C nộp vào ngân hàng để xin thanh toán tiền. Trên hối phiếu đòi nợ
thì ngân hàng sẽ là người hưởng lợi trực tiếp trên hối phiếu. Ngân hàng kiểm tra bộ chứng
từ hợp lý chuyển ra nước ngoài đòi nợ ngân hàng mở L/C. Khi nhận được điện chuyển tiền
từ phía ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo L/C ghi Có trên tài khoản cho vay để thu
nợ. Trường hợp giữa ngân hàng mở và ngân hàng thông báo L/C là đại lý có mở tài khoản
tiền gửi cho nhau, việc thực hiện thanh toán bộ chứng từ để thu nợ được tiến hành nhanh
chóng, thuận tiện, dễ dàng nên ngân hàng có thể tài trợ mức lãi suất ưu đãi thấp hơn mức
lãi suất bình thường.
Khi ngân hàng tài trợ không phải là ngân hàng thông báo cũng không phải là ngân
hàng thanh toán, rủi ro có thể xảy ra nếu như sau khi được tài trợ doanh nghiệp không xuất
được hàng hoặc xuất được hàng nhưng lại gặp rủi ro trong giao nhận hay thanh toán, hoặc
khách hàng không dùng số tiền trên vào mục đích xuất hàng như đã cam kết vay với ngân
hàng.
Tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất khẩu.
Từ lúc giao hàng, nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C cho đến khi được
ghi Có trên tài khoản phải trải qua một khoảng thời gian nhất định để xử lý và luân chuyển
chứng từ. Nhà xuất khẩu cần tiền có thể thương lượng bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng
trước tiền tại ngân hàng đã được chỉ định rõ trong L/C hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào. Hình
thức tài trợ này được tiến hành sau khi giao hàng. Để đảm bảo cho khoản tín dụng thu hồi
nợ dễ dàng nhanh chóng, ngân hàng thương mại thường yêu cầu các L/C xuất của khách
hàng phải được thông báo qua ngân hàng, ngân hàng tài trợ vừa là ngân hàng thông báo
hoặc vừa là ngân hàng thanh toán L/C, được thể hiện qua các hình thức sau:
Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu
+ Khi chiết khấu bộ chứng từ phải hoàn hảo và xuất trình đúng thời gian quy
định. Ngân hàng mở L/C phải có uy tín trên thị trường quốc tế và có quan hệ giao dịch
QKT55-ĐHB1

TRANG 6



$$
thường xuyên với ngân hàng chiết khấu. Tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài
chính của doanh nghiệp ổn định và đảm bảo khả năng thanh toán, có uy tín với ngân hàng.
Số tiền chiết khấu phải nằm trong hạn mức tín dụng.
+ Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ phía khách hàng, ngân hàng thẩm định về mục
đích vay, tình hình tài chính, khả năng thanh toán… Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ một
cách cẩn thận và hợp lý bởi vì nếu bộ chứng từ không hợp lý có thể bị từ chối thanh toán,
ngân hàng khó thu hồi nợ. Ngân hàng kiểm tra sự phù hợp trên bề mặt chứng từ so với các
điều kiện, điều khoản đã ghi trong L/C. Ngân hàng xem xét quyết định tỷ lệ chiết khấu,
hiện nay vào khoảng 90% giá trị L/C xuất. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ từng ngân hàng, từng
trường hợp cụ thể sẽ quyết định một tỷ lệ chiết khấu. Có hai hình thức chiết khấu:
Chiết khấu truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi thanh toán tiền
cho nhà xuất khẩu có quyền đòi tiền nếu bộ chứng từ không được thanh toán.
Chiết khấu miễn truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi thanh toán
cho nhà xuất khẩu không có quyền truy đòi tiền nếu bộ chứng từ không được thanh toán.
Hiện nay đa số ngân hàng thực hiện chiết khấu truy đòi.
Ứng trước tiền thanh toán tiền hàng xuất khẩu.
Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ điều kiện chiết khấu, có những sai sót, ngân
hàng không đồng ý chiết khấu thì nhà xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước tiền
hàng. Thông thường tỷ lệ ứng trước khoảng 50 - 60% giá trị hàng xuất.
Ngân hàng thực hiện thu nợ bằng cách gửi bộ chứng từ ra nước ngoài để đòi nợ,
trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi chứng từ đòi tiền mà không nhận được báo Có của ngân
hàng nước ngoài, ngân hàng tự động ghi Nợ tài khoản tiền gửi của khách hàng. Nếu trên
tài khoản của khách hàng không đủ tiền trong vòng 7 ngày làm việc ngân hàng sẽ chuyển
số tiền chiết khấu hoặc ứng trước sang nợ quá hạn. Khi được thanh toán từ phía ngân hàng
nước ngoài sẽ thực hiện khấu trừ trực tiếp khoản tiền vay cùng các chi phí có liên quan.
2. Tài trợ nhập khẩu
Thông thường ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ để nhập nguyên vật liệu, vật tư,

hàng hoá máy móc thiết bị, công nghệ… Hoặc cho vay bằng VND, trường hợp này rất
QKT55-ĐHB1

TRANG 7


$$
hiếm vì khi vay VND đổi sang ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu, khách hàng phải
mất một khoản tiền do chênh lệch tỷ giá mua, bán của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện với
những hình thức sau:
Hình thức mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
Đây là hình thức thể hiện sự tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu.
Điều kiện để mở L/C tại các ngân hàng thương mại:
+ Phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đối với các đơn vị nhập uỷ thác
phải có hợp đồng uỷ thác nhập khẩu.
+ Đối với những mặt hàng nằm trong danh mục quản lý hàng nhập của Nhà nước,
đơn vị phải xuất trình giấy phép nhập khẩu do Bộ thương mại cấp.
+ Đơn vị phải có tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính ổn định và có tín
nhiệm trong quan hệ tín dụng.
+ L/C hàng nhập phải có giá hợp lý, đồng thời chứng minh việc nhập lô hàng trên là
hợp lý, phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán lô hàng.
+ Đơn vị phải có tài sản thế chấp đảm bảo cho giá trị của L/C hoặc được bảo lãnh
thanh toán bởi một tổ chức đáng tin cậy.
+ Đối với L/C trả chậm, dư nợ bảo lãnh phải nằm trong hạn mức vay vốn nước
ngoài được ngân hàng nhà nước duyệt.
Thẩm định hồ sơ mở L/C:
Trên cơ sở thẩm định, ngân hàng quyết định mức ký quỹ L/C. Ký quỹ L/C được coi
là một hình thức bắt buộc tại ngân hàng thương mại. Ký quỹ nhằm bảo đảm khách hàng
nhận hàng và thanh toán L/C. Thông thường mức ký quỹ cao hay thấp phụ thuộc vào các
yếu tố sau:

+ Khả năng thanh toán của khách hàng: Khả năng thanh toán của khách hàng càng
cao mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
+ Đối tượng khách hàng: Khách hàng có uy tín đối với ngân hàng thì mức ký quỹ
thấp và ngược lại.

QKT55-ĐHB1

TRANG 8


$$
+ Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thường thấp hơn L/C trả ngay, vì mục
đích L/C trả chậm là để vay vốn nước ngoài, thời gian khá dài, mức ký quỹ cao sẽ làm ứ
đọng vốn của khách hàng.
+ Loại hàng hoá nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động giá cả hàng
hoá trên thị trường. Những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trường ổn định, giá cả ít biến động thì
mức ký quỹ có thể thấp.
Trên cơ sở kết hợp các yếu tố trên, các định mức ký quỹ L/C ngân hàng sẽ quyết
định mức ký quỹ cụ thể. Ký quỹ được thực hiện bằng cách trích tài khoản ngoại tệ của
khách hàng để chuyển vào tài khoản thanh toán L/C, theo quy định hiện nay thì số tiền ký
quỹ được hưởng lãi bằng với lãi tiền gửi thanh toán. Nếu không đủ số dư trên tài khoản
ngoại tệ hoặc đối với các đơn vị nhập uỷ thác có thể kèm đơn xin mua ngoại tệ để ký quỹ
hoặc có thể làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ L/C, hiện nay ở nước ta cho vay ký quỹ L/C
rất hạn chế.
Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập.
Ngân hàng mở L/C tiếp nhận bộ chứng từ từ ngân hàng thông báo L/C, có thời gian
là 7 ngày để kiểm tra xử lý chứng từ đưa ra ý kiến thanh toán hoặc từ chối thanh toán.
Trong nghiệp vụ này ngân hàng thanh toán dựa vào chứng từ chứ không dựa vào hàng hoá,
nên ngân hàng mở L/C phải kiểm tra chứng từ cẩn thận, chứng từ phù hợp ngân hàng sẽ
thanh toán tiền (L/C trả ngay hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu - L/C trả chậm).

Đối với nhà nhập khẩu, hàng vừa cập bến phải nộp tiền cho ngân hàng để thanh
toán cho nhà xuất khẩu thì mới nhận được chứng từ để nhận hàng, bán hàng và thu hồi
vốn. Đó là khoảng thời gian khá dài, do đó nhà nhập khẩu cần có khoản tài trợ từ ngân
hàng, vay ngân hàng để thanh toán hàng nhập khẩu. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định tính
hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng tài chính, khả năng trả nợ, thế chấp tài sản để quyết
định. Tuy nhiên trên thực tế đối với những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ổn
định, có uy tín với ngân hàng thì không ký quỹ mở L/C, không cần tài sản thế chấp vẫn
được vay vốn ngân hàng, hàng hoá nhận về đem thẳng đến kho của doanh nghiệp nhằm
đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
QKT55-ĐHB1

TRANG 9


$$
Nghiệp vụ bảo lãnh, tái bảo lãnh.
Cơ sở pháp lý của nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh được thực hiện trên tinh thần
Nghị định 58/CP ngày 30/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế vay và trả nợ
nước ngoài; Quyết định 23/QĐ-NH14 ngày 21/02/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh.
Hiện nay các ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp, thực hiện tái bảo
lãnh cho các ngân hàng khác. Các doanh nghiệp muốn vay vốn nước ngoài phải lập kế
hoạch vay vốn nước ngoài đã có sự đồng ý của cơ quan chủ quản và nằm trong hạn mức
vay vốn nước ngoài được cơ quan nhà nước duyệt.
Hiện nay có nhiều hình thức bảo lãnh: Bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh tham gia đấu
thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đặt cọc… Nhưng thực tế bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, đấu thầu rất ít sử dụng. Bảo lãnh vay vốn là hình thức chủ yếu tại các ngân
hàng, tái bảo lãnh ít được thực hiện. Bảo lãnh ở nước ta chủ yếu để tài trợ cho các doanh
nghiệp nhập khẩu vay vốn, được thực hiện dưới các hình thức sau:
+ Phát hành thư bảo lãnh.

+ Mở L/C trả chậm.
+ Ký bảo lãnh trên hối phiếu (Bill of exchange) nhận nợ nước ngoài.
+ Ký bảo lãnh lệnh phiếu (Promissory Note) nhận nợ nước ngoài.
+ Ký xác nhận bảo lãnh ngay trên giấy nhận nợ do khách hàng (vay nợ) lập nhận nợ
nước ngoài.
Sau đây xin giới thiệu hai hình thức bảo lãnh được áp dụng phổ biến ở nước ta hiện nay:
+ Bảo lãnh vay vốn bằng cách phát hành thư bảo lãnh.
Hiện nay đa số các ngân hàng nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài cho các
doanh nghiệp Việt Nam vay để nhập hàng hoá, máy móc thiết bị do nước đó sản xuất. Nhà
xuất khẩu trước khi giao hàng thường yêu cầu phía các doanh nghiệp Việt Nam phải có
ngân hàng đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng bảo lãnh sẽ phát hành thư bảo lãnh cam kết thanh
toán cho nước ngoài nếu doanh nghiệp Việt Nam không thanh toán tiền khi đến hạn. Trên
cơ sở bảo lãnh của ngân hàng Việt Nam, nhà xuất khẩu nước ngoài có thể giao dịch với
QKT55-ĐHB1

TRANG 10


$$
ngân hàng phục vụ của họ để vay vốn thay cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu chấp
nhận những điều kiện vay vốn của ngân hàng nước ngoài, doanh nghiệp phải trả nợ trực
tiếp cho ngân hàng nước ngoài.
+ Bảo lãnh bằng phát hành L/C trả chậm:
Đây là hình thức được áp dụng phổ biến nhất ở nước ta trong thời gian vừa qua,
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dư nợ bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại. Đối với các
doanh nghiệp Việt Nam đây là hình thức vay vốn, tranh thủ vốn nước ngoài đơn giản và đễ
được chấp thuận bằng cách mua chịu hàng hoá, phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay doanh
nghiệp đang thiếu vốn.
Theo quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành kèm theo Quyết định
số 207/1997/QĐ-NH7 ngày 01/07/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định:

+ Việc mở L/C trả chậm nhập khẩu, hàng hoá phải phù hợp với chính sách xuất
nhập khẩu hàng năm của Nhà nước, các quy định hiện hành của Nhà nước liên quan đến
việc vay, trả nợ nước ngoài.
+ Số dư L/C trả chậm ngắn hạn (1 năm trở xuống) phải nằm trong hạn mức vay
ngắn hạn theo quy định của Công văn 515/CV-NH7 về hạn mức vay ngắn hạn của ngân
hàng và mức ký quỹ tối thiểu mở L/C trả chậm. Ngân hàng phải duy trì tỷ lệ tối đa là 3 lần
giữa số dư vay và bảo lãnh vay ngắn hạn nước ngoài (gồm số dư L/C trả chậm ngắn hạn,
số tiền đang bảo lãnh vay ngắn hạn nước ngoài và số dư vay ngắn hạn nước ngoài) trên
vốn tự có của ngân hàng. Ngân hàng không có nợ quá hạn phát sinh từ nghiệp vụ mở L/C
trả chậm.
+ Trích lập quỹ bảo lãnh theo quy định hiện hành về bảo lãnh và tái bảo lãnh theo
quy định:
Quỹ bảo lãnh = 5% Giá trị thực tế bảo lãnh.
Giá trị thực tế bảo lãnh = Giá trị ngân hàng bảo lãnh – Giá trị mà bên xin bảo lãnh
ký quỹ tại ngân hàng.
Như vậy tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu xuất hiện như là một yêu cầu khách quan
đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình với hoạt động xuất khập khẩu cũng như đối
QKT55-ĐHB1

TRANG 11


$$
với nền kinh tế. Với sự phát triển ngày càng đa dạng và phong phú của các hình thức tài trợ
xuất nhập khẩu mà ngân hàng thương mại Việt Nam đã cung cấp, các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình, giảm bớt rủi
ro trong giao dịch ngoại thương.
IV. Các yếu tố ảnh hưởng đến tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu:
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách hàng mà nó phục
vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách cẩn thận sau khi đã xem xét nhiều

yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tín dụng tài trợ xuất nhập
khẩu của ngân hàng thương mại.
1. Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước:
Các hoạt động kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng chịu tác động rất lớn
bởi chính sách chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
- Về mặt tích cực: Chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều kiện cho vay xuất
nhập khẩu của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà nước dùng chính sách tiền
tệ mở rộng thì ngân hang thương mại được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của
ngân hàng sẽ gia tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách cho vay tự do hơn. Chính sách
lãi suất linh hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu chủ yếu diễn ra theo hình thức cho vay
bằng ngoại tệ. Vì vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ vào ngân hàng, quản lý
ngoại tệ một cách chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập
máy móc, thiết bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu.
- Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây ra nhiều rủi ro
cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng. Nếu Nhà nước không có chiến lược
hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất hạn
chế, từ đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ ít đi và lợi nhuận của ngân hàng sẽ
giảm xuống. Khi Nhà nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi thuế quan thì nó sẽ dẫn đến
tăng giá của một số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng nhập khẩu giảm dẫn đến nhu cầu vay
vốn giảm.
QKT55-ĐHB1

TRANG 12


$$
Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái cũng tác động
không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng. Môi trường pháp lý
không ổn định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh

của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Đây chính là
nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các ngân hang thương mại.
2. Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước:
Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc luôn luôn bị chao
đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt động tín dụng của ngân hàng bị
thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ dẫn đến chính sách cho vay tự do hơn. Thực tiễn
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Đông Nam Á đã chứng minh điều
đó. Tất cả hoạt động của các ngành các lĩnh vực của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt
hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng sâu sắc. Hàng loạt ngân hàng của Hàn
Quốc, Nhật Bản, Malaysia bị tàn phá do không thu lại được các khoản nợ, không cho vay
được để bù đắp chi phí khi nhu cầu tín dụng của khu vực giảm.
Tình hình chính trị xã hội, chiến tranh cũng như thiên tai, địch hoạ cũng là một
trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với các khoản cho vay của ngân
hàng.
3. Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động tín dụng ngân
hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay vốn để nhập máy móc thiết bị từ
nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng khả năng hoàn trả của doanh nghiệp không
cao thì ngân hàng cũng sẽ không cho vay. Mặt khác, khi ngân hàng cấp vốn cho vay các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhưng vì một nguyên nhân nào đó các ngân hàng này gặp
rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị huỷ bỏ hợp đồng, hàng bị mất cắp hay giảm
giá trị...) làm cho họ không thu hồi đủ vốn để trả lại các khoản vay cho ngân hàng. Đối với
ngân hàng khi mà có quá nhiều khách hàng đến hạn trả mà không có khả năng thanh toán
hoặc cố ý chây ỳ thiếu ý thức tôn trọng các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng tín dụng

QKT55-ĐHB1

TRANG 13



$$
thì ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán của mình thậm chí ngân hàng còn rơi vào tình
trạng phá sản.
Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh nghiệp hoạt
động xuất nhập khẩu nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy
hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng.
4. Năng lực cho vay của ngân hang:
Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự có của ngân
hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có nhu cầu vốn lớn, trong khi
nguồn vốn của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu cầu của doanh nghiệp. Tín dụng
xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại gắn liền với nguồn vốn ngoại tệ. Do đó làm thế
nào để huy động đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp nhập khẩu đang là vấn
đề lớn đối với nhiều ngân hang thương mại.
5. Các nhân tố khác:
Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên môn của đội
ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với hoạt động cho vay xuất
nhập khẩu của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ trong
thẩm định dự án, xem xét đơn vay vốn của khách hàng thì chất lượng tín dụng sẽ cao và
ngược lại.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hang thương mại
cũng luôn phải đối mặt với rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn
biến động, sự biến động này có thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ khuyến
khích cả nhập khẩu và xuất khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và hoạt động
kinh doanh của ngân hàng nói riêng sẽ phát triển.
Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Có
nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động cho vay. Song cũng có không ít
những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho hoạt động này của ngân hàng. Các ngân hàng khi
cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra

QKT55-ĐHB1


TRANG 14


$$
trong hoạt động ngoại thương để từ đó có những quyết định đúng đắn, kịp thời, đạt hiệu
quả kinh tế cao nhất.

KẾT LUẬN
Thực tế cho thấy rằng, một quốc gia muốn phát triển kinh tế, thì ngoài việc dựa vào
nền sản xuất trong nước, quốc gia đó còn phải thực hiện giao dịch, quan hệ với các nước
khác. Sở dĩ như vậy là do sự khan hiếm và sự phân bố không đồng đều của các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Một quốc gia nếu chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước thì sẽ không thể
cung cấp đủ hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nền kinh tế quốc
dân. Do đó việc nhập khẩu các mặt hàng cần thiết mà trong nước không sản xuất được
hoặc sản xuất không có hiệu quả là rất cần thiết.
Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi thế kinh tế vốn có của mình,
một quốc gia ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước, còn có thể tạo nên những thặng dư để
QKT55-ĐHB1

TRANG 15


$$
xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, trả
nợ, đầu tư và phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu là một tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế của một đất nước. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của
đất nước.


QKT55-ĐHB1

TRANG 16



×