Tải bản đầy đủ (.pptx) (28 trang)

Thuyết trình môn kinh doanh quốc tế kinh doanh quốc tế hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 28 trang )

Kinh doanh quốc tế hiện đại
Chương 7: Kinh tế chính trị của thương
mại quốc tế
GVHD: TS. VŨ TRỌNG PHONG
Nhóm 4: Nguyễn Thị Lan Anh
Trịnh Thu Linh
Đoàn Thu Thuỷ
Đặng Thuỳ Linh
Lớp:Thạc sỹ Quản trị kinh doanh đợt 2- 2014


Biện pháp thực thi chính sách thương mại
Chính sách thương mại sử dụng 7 công cụ chính: thuế, tài trợ,
hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, yêu cầu về
hàm lượng nội địa hóa, các biện pháp hành chính, và thuế chống
bán phá giá.

Thuế quan: Thuế là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu (hay xuất khẩu).
Thuế được chia làm 2 loại chính. Thuế tuyệt đối được áp dưới dạng 1 mức
phí cố định trên mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu. Thuế theo giá trị sẽ được
áp dưới dạng tỉ lệ phần trăm trên giá trị của hàng hóa nhập khẩu.


Chính phủ được hưởng lợi, vì thuế tăng nguồn thu chính phủ.
Các nhà sản xuất nội địa hưởng lợi, vì thuế tạo cho họ 1 sự bảo
hộ nhất định trước những đối thủ cạnh tranh nước ngoài thông
qua việc gia tăng chi phí của hàng ngoại nhập. Người tiêu dùng
chịu thiệt vì họ phải trả nhiều hơn cho 1 số mặt hàng nhập
khẩu.

Thuế xuất khẩu ít phổ biến hơn nhiều so với thuế nhập khẩu.


Thuế xuất khẩu có 2 mục tiêu: thứ nhất, tăng thu cho chính phủ,
và thứ hai, giảm xuất khẩu từ 1 khu vực, thường là do những
nguyên nhân chính trị.


Tài Trợ
 Tài trợ là một khoản chi của chính phủ dành cho nhà sản xuất nội địa.
Có nhiều dạng trợ cấp, bao gồm tài trợ bằng tiền mặt, các khoản vay
lãi suất thấp, ăn hạn về thuế, và việc góp vốn của chính phủ vào các
doanh nghiệp nội địa. Thông qua việc giảm chi phí sản xuất, trợ cấp
giúp các nhà sản xuất nội địa bằng 2 cách: (1) cạnh tranh với hàng
ngoại nhập và (2) giành lợi thế trên các thị trường xuất khẩu.
 Những lợi ích chính từ trợ cấp thường dành cho các nhà sản xuất nội
địa, từ đó làm tăng năng lực cạnh tranh quốc tế của họ
 Trên thực tế, nhiều khoản trợ cấp đã không thành công trong việc gia
tăng năng lực cạnh tranh quốc tế của các nhà sản xuất nội địa. Hơn
nữa, chúng có xu hướng bảo hộ cho hoạt động sản xuất kém hiệu quả
và thúc đẩy sản xuất thừa.


Biện pháp hàn ngạch
nhập khẩu và hạn chế
xuất khẩu tự nguyện

Hạn ngạch nhập khẩu là biện pháp hạn chế trực tiếp về số lượng 1 loại hàng hóa có thể nhập
khẩu vào 1 nước. Biện pháp hạn chế này thường được thực thi bằng cách cấp phép nhập khẩu
cho 1 nhóm các cá nhân hay doanh nghiệp.
Biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER) là hạn ngạch về thương mại được đặt ra bởi
nước xuất khẩu, thường là theo yêu cầu của chính phủ nước nhập khẩu.



YÊU CẦU VỀ HÀM LƯỢNG NỘI ĐỊA HÓA
Khái niệm: là yêu cầu về một tỷ lệ nhất định hàng hoá phải được sản xuất trong nước. Yêu cầu
này có thể được diễn đạt dưới dạng các điều kiện vật lý ( ví dụ, 75% các thành phần của sản phẩm
này phải được sản xuất trong nước) hoặc dưới dạng điều kiện về giá trị ( ví dụ, 75% giá trị sản
phẩm này phải được sản xuất trong nước).

Ví dụ: một đạo luật ít được biết đến ở Mỹ, Đạo luật Mua hàng Mỹ ( Buy America act) quy
định rằng các cơ quan chính quyền phải ưu tiên cho các sản phẩm của Mỹ khi đưa các hợp
đồng thiết bị ra đấu giá, trừ khi sản phẩm ngoại có lợi thế đáng kể về giá. Đạo luật này quy
định hàng hoá là “của Mỹ” nếu 51% giá trị nguyên liệu được sản xuất ở Mỹ. Đó chính là
yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá.
Các quy định về hàm lượng nội địa hoá cung cấp sự bảo hộ cho nhà sản xuất linh kiện
trong nước theo cách thức tương tự như hạn ngạch nhập khẩu: thông qua việc giới hạn
cạnh tranh từ nước ngoài. Các tác động kinh tế tổng thể cũng tương tự; các nhà sản xuất
nội địa hưởng lợi, nhưng biện pháp hạn chế hàng nhập khẩu làm tăng giá các linh kiện
nhập khẩu. Tiếp đó, giá linh kiện nhập khẩu cao hơn lại được chuyển sang cho người
tiêu dùng sản phẩm cuối cùng dưới dạng giá cả thành phẩm cao hơn. Như vậy cũng như
mọi chính sách thương mại, các quy định hàm lượng nội địa hoá có xu hướng làm lợi
cho nhà sản xuất, chứ không phải người tiêu dùng.


• có thời điểm Hà Lan xuất khẩu hoa tuy líp
tới hầu hết các nước trừ Nhật Bản. Ở Nhật,
các thanh tra hải quan yêu cầu kiểm tra từng
củ tuy líp bằng cách cắt dọc chúng làm đôi ,
và gần như khéo léo tới đâu cũng không thể
gắn chúng được lại.

• là các quy định hành chính được dựng

lên nhằm gây khó khăn cho hoạt động
nhập khẩu vào một quốc gia.

Ví dụ

Khái
niệm

CÁC BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH


CHÍNH SÁCH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ


Khái niệm: trong bối cảnh thương mại quốc tế, bán phá giá được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau như là hoạt động bán hàng tại thị trường
nước ngoài ở mức giá thấp hơn chi phí sản xuất hay hoạt động bán hàng tại thì trường nước ngoài dưới mức giá thị trường “hợp lý”.



Các biện pháp chống bán phá giá được thiết kế để trừng phạt các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào việc bán phá giá. Mục tiêu cuối cùng
là để bảo vệ nhà sản xuất nội địa từ sự cạnh tranh thiếu công bằng của phía nước ngoài.


TÌNH HUỐNG VỀ SỰ CAN THIỆP CỦA
CHÍNH PHỦ
• Bảo vệ việc làm và các ngành công nghiệp: đây có lẽ là lý do phổ
biến nhất biện minh cho sự can thiệp của chính phủ là bảo vệ việc làm
và các ngành công nghiệp khỏi sự cạnh tranh không công bằng với
nước ngoài.
• Ví dụ: biện pháp thuế đánh vào thép nhập khẩu bởi tổng thống George

W.Bush năm 2002, được đưa ra nhằm thực hiện bảo vệ khỏi sự cạnh
tranh với nước ngoài. Tuy nhiên nó cũng khiến giá thép tăng cao với
các nhà tiêu thụ thép ở Mỹ, như các công ty Oto, khiến họ kém cạnh
tranh hơn trên thị trường toàn cầu.


TÌNH HUỐNG VỀ SỰ CAN THIỆP CỦA
CHÍNH PHỦ
An ninh quốc gia
các nước đôi khi cũng cần phải bảo
vệ ngành công nghiệp nhất định bởi
chúng có vai trò quan trọng đối với an
ninh quốc gia Đặc biệt như các ngành
công nghiệp lien quan đến quốc
phòng ( ví dụ, hàng không vũ trụ,
công nghệ điện tử tiên tiến, vật liệu
bán dẫn…). Mặc dù không còn phổ
biến như trước đây, xong lập luận này
vẫn còn được sử dụng.

Biện pháp trả đũa
Một số người lập luận rằng chính phủ
nên sử dụng biện pháp đe doạ can
thiệp trong chính sách thương mại
như một công cụ mặc cả nhằm giúp
mở cửa các thị trường nước ngoài và
buộc các đối tác thương mại phải
“tuân theo quy luật của trò chơi”.
Chính phủ Hoa Kỳ đã từng đe doạ
trừng phạt bằng cách cấm vận thương

mại trong nỗ lực nhằm buộc chính
phủ Trung Quốc thực thi nghiêm túc
các đạo luật về quyền sở hữu trí tuệ.


TÌNH HUỐNG VỀ SỰ CAN THIỆP CỦA
CHÍNH PHỦ
• Bảo vệ người tiêu dùng: nhiều chính phủ từ lâu đã có quy
định để bảo vệ người tiêu dùng khỏi những sản phẩm không
an toàn.
• Thúc đẩy các mục tiêu chính sách đối ngoại: các chính phủ
đôi khi sử dụng chính sách thương mại để hỗ trợ các mục tiêu
của chính sách đối ngoại của họ.
• Bảo vệ nhân quyền: Việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở
các quốc gia khác là một nhân tố quan trọng trong chính sách
đối ngoại của nhiều nền dân chủ.


CÁC LẬP LUẬN KINH TẾ BIỆN HỘ CHO
SỰ CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ
• Lập luận về nền công nghiệp non trẻ: gần như là lập luận kinh tế
lâu đời nhất biện hộ cho sự can thiệp của chính phủ.Alexander
Hamilton đã đề xuất lập luận này vaoaf năm 1972. Theo như lập
luận này, nhiều nước đang phát triển có lợi thế so sánh tiềm tàng
trong sản xuất, nhưng lúc đầu các ngành công nghiệp sản xuất
không thể cạnh tranh được với các ngành công nghiệp đã ra đời lâu
ở các nước phát triển.


CÁC LẬP LUẬN KINH TẾ BIỆN HỘ

CHO SỰ CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ
• GATT đã thừa nhận lập luận các ngành công nghiệp non trẻ là một
lý do chính đáng cho chính sách bảo hộ mậu dịch. Tuy thế nhiều nhà
kinh tế vẫn giữ thái độ chỉ trích vấn đề này vì hai lý do chính:

o Thứ nhất, sự bảo hộ sản xuất khỏi cạnh tranh với nước
ngoài không có lợi, trừ sự bảo hộ đó giúp ngành công
nghiệp hoạt động hiệu quả.
o Thứ hai, lập luận ngành công nghiệp non trẻ dựa trên
các giả thuyết là các doanh nghiệp không thể đầu tư dài
hạn hiệu quả bằng cách vay tiền từ các thị trường vốn
trong nước hay quốc tế.


Chính sách thương mại chiến lược
 Thứ nhất, người ta lý luận rằng với các hành động thích hợp,
một chính phủ có thể giúp nâng cao thu nhập quốc gia, nếu họ
có thể, bằng cách nào đó, đảm bảo rằng doanh nghiệp hay các
doanh nghiệp nội địa, chứ không phải doanh nghiệp nước
ngoài, giành được lợi thế dẫn đầu trong một ngành công
nghiệp.
• Thứ hai, chính phủ có thể thu lợi từ việc can thiệp vào một ngành
công nghiệp khi giúp các doanh nghiệp nội địa vượt qua các hàng
rào, được tạo ra bởi các doanh nghiệp nước ngoài đã giành được lợi
thế người dẫn đầu nhằm cản trở các doanh nghiệp mới gia nhập
ngành.


QUAN ĐIỂM XÉT LẠI VỀ THƯƠNG MẠI TỰ
DO



BIỆN PHÁP TRẢ ĐŨA VÀ CHIẾN TRANH
THƯƠNG MẠI
o Krugman lập luận rằng một chính sách thương mại chiến lược
hướng tới việc thành lập các doanh nghiệp nội địa có vị thế
thống trị trong một ngành công nghiệp toàn cầu đã nâng cao thu
nhập quốc gia bằng chi phí của các nước khác.
o Một nước nếu nỗ lực sử dụng các chính sách như trên, thì nhiều
khả năng sẽ vấp phải biện pháp trả đũa.
o Trong nhiều trường hợp, kết quả là chiến tranh thương mại giữa
hai hay nhiều chính phủ có chính sách can thiệp sẽ đẩy tất cả các
nước liên qua vào tình trạng tồi tệ hơn và không áp dụng các
chính sách can thiệp ngay từ đầu.


CÁC CHÍNH SÁCH NỘI ĐỊA
• Các chính phủ không phải lúc nào cũng hành động dựa trên lợi
ích quốc gia, khi họ can thiệp vào nền kinh tế.
• Ví dụ, Chính sách nông nghiệp chung đã đem lại lợi ích cho
những nhà nông sản xuất không hiệu quả và các chính khách
dựa vào những lá phiếu của họ, nhưng không mang lại gì cho
người tiêu dùng ở EU, những người cuối cùng phải chi trả
nhiều hơn cho hàng hóa thực phẩm của mình.
• Như vậy, lý do sâu xa hơn cho việc không áp dụng chính sách
thương mại chiến lược, theo Krugman, là chính sách này gần
như chắc chắn sẽ khống chế bởi các nhóm lợi ích đặc biệt
trong nền kinh tế, những người sẽ bóp méo chính sách đó phục
vụ lợi ích của họ.



SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Những lý luận kinh tế vững chắc đang hỗ trợ cho thương
mại tự do không giới hạn. Trong khi nhiều chính phủ đã
nhận ra giá trị của những lý luận này, họ vẫn không sẵn
long đơn phương hạ thấp rào cản thương mại do lo ngại các
quốc gia khác có thể sẽ không thực hiện tương tự.
Tình trạng bế tắc như vậy có thể được giải quyết nếu cả hai quốc
gia đàm phán một bộ các quy tắc chi phối thương mại qua biên
giới và hạ thấp rào cản thương mại. Vậy ai là người giám sát các
chính phủ để chắc chắn rằng họ chơi đúng luật chơi thương mại?
Ai sẽ là người thực thi các biện pháp trừng phạt đối với một
chính phủ gian lận? Cả hai chính phủ đều có thể thiết lập một cơ
quan độc lập để hành động như một trọng tài kinh tế.


VÒNG ĐÀM PHÁN URUGUAY VÀ
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Vòng đàm phán Uruguay bao gồm những điều khoản sau:
•Thuế đối với hàng hóa sẽ được cắt giảm hơn một phần ba, và thuế sẽ được dỡ bỏ trên hơn
40% các hàng hóa chế tạo và hàng hóa thông thường khác.
•Mức thuế trung bình được áp bởi các quốc gia phát triển trên hàng hóa chế tạo sẽ được giảm
xuống còn nhỏ hơn 4% giá trị, mức thấp nhất trong lịch sử hiện đại.
•Các khoản trợ cấp nông nghiệp sẽ được cắt giảm mạnh.
•Các quy tắc về thâm nhập thị trường và thương mại bình đẳng của GATT sẽ được mở rộng
sang cả những lĩnh vực dịch vụ.
•Các quy tắc của GATT cũng sẽ được mở rộng để cung cấp sự bảo hộ đối với bằng sáng chế,
bản quyền, và thương hiệu (sở hữu trí tuệ).
•Các rào cản thương mại trong dệt may sẽ được gỡ bỏ đáng kể trong vòng 10 năm.

•Tổ chức thương mại thế giới sẽ được thành lập để thực thi thỏa thuận của GATT


WTO: TRẢI NGHIỆM CHO
ĐẾN NGÀY NAY


WTO trong vai trò cảnh sát toàn cầu
• Trong 15 năm đầu hoạt động, WTO đã cho thấy cơ chế
giám sát và thực thi của mình đang thu được kết quả tích
cực. Trong giai đoạn từ 1995 đến đầu 2010, hơn 400 vụ
tranh chấp thương mại giữa các quốc gia đã được đưa ra
WTO. Đây là một kỷ lục so với tổng số 196 trường hợp
đã được thụ lý bởi GATT trong gần nửa thế kỷ.


Mở rộng các thỏa thuận thương mại
• WTO được trao vai trò làm trung gian thúc đẩy các thỏa
thuận tương lai nhằm mở của cho thương mại toàn cầu về
dịch vụ.
• WTO cũng được khuyến khích quan tâm đến các quy định
chi phối đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, điều mà GATT chưa
từng thực hiện. Hai ngành đầu tiên được lấy làm mục tiêu
để tái cấu trúc là viễn thông toàn cầu và dịch vụ tài chính.


TƯƠNG LAI CỦA WTO: CÁC
VẤN ĐỀ CHƯA ĐƯỢC GIẢI
QUYẾT VÀ VÒNG ĐÀM PHÁN
DOHA



Thâm nhật thị trường đối với hàng hóa và
dịch vụ phi nông nghiệp
• WTO và GATT đã tạo ra những bước tiến dài trong
việc giảm thuế trên các sản phẩm phi nông nghiệp, tuy
nhiên vẫn còn nhiều việc phải làm. Mặc dù hầu hết
các quốc gia phát triển đã đưa mức thuế của họ trên
các sản phẩm công nghiệp xuống mức trung bình
3,8% giá trị hàng hóa, vẫn còn những ngoại lệ. Cụ thể,
trong khi thuế trung bình thấp, suất thuế cao vẫn tồn
tại đối với những mặt hàng nhập khẩu nhất định vào
các quốc gia phát triển, điều này làm hạn chế khả
năng tiếp cận thị trường và tăng trưởng kinh tế.


• WTO còn muốn giảm thuế hơn nưã và giảm phạm vi áp dụng của các suất
thuế cao. Mục tiêu cuối cùng là giảm thuế xuống mức 0. Mặc dù điều này
nghe có vẻ đầy tham vọng, nhưng thực tế 40 quốc gia đã đưa thuế về mức 0
đối với các hàng hóa công nghệ thông tin rồi, vậy là đã có tiền lệ.
• Nhìn xa hơn, WTO cũng muốn giảm thuế trên các hàng nhập khẩu phi nông
nghiệp vào các quốc gia đang phát triển. Nhiều nước trong số này sử dụng lập
luận ngành công nghiệp non trẻ để biện hộ cho việc áp đặt các mức thuế cao
lâu dài, tuy nhiên, các mức thuế đó cuối cùng cần phải giảm để các quốc gia
này có thể gặt hái được những lợi ích đầy đủ cuả thương mại quốc tế.


×