Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân Tích Bản Chất Của Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền. Trình Bày Những Nguyên Nhân Dẫn Đến Điều Chỉnh Và Các Biểu Hiện Mới Của Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.75 KB, 17 trang )

Phần I: Mở đầu
Trong quá trình ra đời và phát triển, chủ nghĩa t bản đã thực hiện đợc sự phát
triển về phân công, hiệp tác lao động, tập trung hoá và liên hiệp hoá sản xuất.
Kết quả là đã biến nhiều quá trình kinh tế riêng lẻ thành quá trình kinh tế thống
nhất hữu cơ với nhau.
Cùng với đà phát triển của lực lợng sản xuất, quá trình xã hội hoá sản xuất
cũng đạt đợc những bớc tiến lớn, với trình độ cao. Xã hội hoá diễn ra ở trình độ
cao hơn khi chủ nghĩa t bản chuyển lên giai đoạn chủ nghĩa t bản độc quyền và
chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc. Xã hội hoá sản xuất gắn với hai cuộc cách
mạng kỹ thuật mà thế giới đã trải qua, trong đó các nớc t bản là ngời có công
đầu. Tất nhiên, những thành tựu này là do nhân loại sáng tạo ra đợc các nớc t bản
vận dụng.
Sự phát triển của lực lợng sản xuất và xã hội hoá sản xuất đã đa năng suất lao
động tăng lên cha từng có trong lịch sử. Nhờ đó hoạt động của quy luật giá trị
thặng d, quy luật tích luỹ cùng với các quy luật kinh tế khác, đã làm cho cơ chế
thị trờng vận động và phát triển. Chủ nghĩa t bản càng có nhiều điều kiện và khả
năng lợi dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật để phát triển lực lợng sản
xuất, tăng năng suất lao động, sử dụng có hiệu quả hơn nữa cơ sở vật chất - kỹ
thuật đã đợc tạo ra. C.Mác đã nhận xét xác đáng rằng trong vòng cha đầy một
thế kỷ thống trị của mình, chủ nghĩa t bản đã tạo ra đợc một sức sản xuất khổng
lồ bằng tất cả các thế hệ loài ngời trớc đó đã tạo ra.
Có thể nói, loài ngời đã sống lâu dài trong nền sản xuất nhỏ lạc hậu, phân tán,
năng suất thấp kém, không đảm bảo duy trì tái sản xuất giản đơn. Từ đầu thế kỷ
XVI đến nay, lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa t bản đã chuyển nền sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn với những đặc trng khác về chất so với sản xuất nhỏ. Sự
thắng lợi này diễn ra đầu tiên từ nớc Anh rồi lần lợt sang các nớc khác. Nền sản
xuất lớn hiện đại đã và đang là niềm mơ ớc của hàng trăm nớc trên hành tinh
chúng ta.
1



Bên cạnh mặt tích cực nói trên, chủ nghĩa t bản trong quá trình phát sinh và
phát triển của nó đã gây ra không ít hậu quả. Chủ nghĩa t bản là thủ phạm gây ra
hàng trăm cuộc chiến tranh, đáng chú ý là hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất và lần thứ hai. Trong quá trình công nghiệp hoá và chạy đua vũ trang, chủ
nghĩa t bản làm cho môi trờng bị ô nhiễm. Chủ nghĩa t bản cũng phải chịu trách
nhiệm về nạn nghèo đói, bệnh tật của hàng trăm triệu ngời, nhất là ở các nớc
chậm phát triển.
Để thấy rõ bản chất của chủ nghĩa t bản hiện đại, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
Phân tích bản chất của chủ nghĩa t bản độc quyền. Trình bày những nguyên
nhân dẫn đến điều chỉnh và các biểu hiện mới của chủ nghĩa t bản độc quyền
cho bài tiểu luận của mình.

2


Phần II:
Chủ nghĩa t bản hiện đại
I-

Bản chất của chủ nghĩa t bản hiện đại:

Bất kỳ một phơng thức sản xuất nào cũng có quá trình ra đời, phát triển, suy
yếu và tiêu vong. Nhìn lại lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa t bản cho tới
nay, chúng ta thấy nó đã trải qua các thời kỳ:
Từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII: Đây là thời kỳ hình thành của phơng thức
sản xuất t bản chủ nghĩa. Đặc trng về kinh tế của chủ nghĩa t bản trong thời kỳ
này là tích luỹ nguyên thuỷ (thế kỷ XV, XVI) và sự phát triển của công trờng
thủ công.
Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX: Đây là thời kỳ diễn ra cuộc cách
mạng công nghiệp ở các nớc t bản phát triển nh Anh và Pháp. Lao động thủ

công đợc thay thế bằng lao động sử dụng máy móc. Nền kinh tế này diễn ra theo
nguyên tắc tự do, còn gọi là giai đoạn cạnh tranh tự do của chủ nghĩa t bản.
Từ cuối thế kỷ XIX ,đầu thế kỷ XX cho tới chiến tranh thế giới thứ hai: Đây là
thời kỳ độc quyền t nhân của chủ nghĩa t bản với năm đặc điểm kinh tế cơ bản
mà Lênin đã khái quát trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa t bản. Trong thời kỳ này diễn ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, thực chất là sự tranh giành thuộc địa giữa hai phe đế quốc già (Anh, Pháp,
Nga) và trẻ (Đức, Mỹ, Nhật).
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II tới nay: Chủ nghĩa t bản chuyển sang thời
kỳ độc quyền Nhà nớc với sự xuất hiện của sở hữu nhà nớc và các hoạt động
can thiệp, điều chỉnh của Nhà nớc vào các quá trình kinh tế.
Đặc biệt là trong bối cảnh ngày nay, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ
đang tác động một cách mạnh mẽ đến mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi quốc gia
trên thế giới và kinh tế thị trờng đang ngày càng chứng tỏ những u thế của nó và
đợc các quốc gia sử dụng nh một công cụ để thúc đẩy sự tăng trởng và phát triển
3


kinh tế. Hơn thế nữa, xu hớng hội nhập mở cửa ngày càng tác động mạnh, đã
liên kết các quốc gia lại với nhau để giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị,
xã hội mang tính toàn cầu. Vì vậy, ta có thể xác định bản chất kinh tế của chủ
nghĩa t bản hiện đại là chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc, phát triển gắn liền
với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế thị trờng hiện đại và xu hớng
toàn cầu hoá.
Thứ nhất, chủ nghĩa t bản hiện đại là chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc:
Thực ra thì chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc đã có mầm mống ngay từ
trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong thời gian này, các cờng quốc t bản độc
quyền tham gia vào cuộc chiến tranh nhằm phân chia lại lãnh thổ thế giới lần thứ
nhất. Để giành thắng lợi trong cuộc chiến, các nhà t sản đã phải trực tiếp can
thiệp vào các quá trình kinh tế để chiếm đoạt thị trờng, duy trì các điều kiện

trong nớc và quốc tế có lợi nhằm đảm bảo sự ổn định về lợi nhuận cho các tổ
chức độc quyền.
Tuy vậy, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nền kinh tế t bản chủ nghĩa bớc
vào một thời kỳ phát triển tơng đối ổn định nên chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà
nớc lại tạm thời lắng xuống. Cho tới khi lý thuyết kinh tế của Keynes ra đời và
cũng là để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, chủ nghĩa t bản độc
quyền Nhà nớc lại phát triển. Và đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ hai, với
sự xuất hiện của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và gắn với nó là cuộc đấu
tranh gay gắt giữa hai hệ thống, chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc lại phát
triển một cách đặc biệt nhanh chóng hơn.
Về bản chất, chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc là sự kết hợp giữa các tổ
chức độc quyền và bộ máy Nhà nớc hình thành nên một hệ thống quan hệ kinh
tế- xã hội, trong đó Nhà nớc bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và trực tiếp
can thiệp vào các quá trình kinh tế. Chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc là một
hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện đại.
Trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy Nhà nớc thì Nhà nớc bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền. Ta biết rằng Nhà nớc là một cơ quan
4


chính trị thuộc về kiến trúc thợng tầng, nó đợc sinh ra để điều hoà mâu thuẫn
giữa các giai cấp. Vì vậy, chức năng đầu tiên của Nhà nớc là chức năng chính trị
chứ không phải là chức năng kinh tế. Nhng kinh tế quyết định chính trị, chính trị
là biểu hiện tập trung của kinh tế. Các tổ chức độc quyền do nắm trong tay thế
lực về kinh tế đã tìm cách thao túng về mặt chính trị của các cơ quan Nhà nớc t
sản, biến cơ quan nhà nớc t sản thành một tổ chức để bảo vệ cho lợi ích của tầng
lớp t sản độc quyền. Tuy nhiên, ở đây nên hiểu sự phụ thuộc của Nhà nớc vào
các tổ chức độc quyền theo nghĩa là Nhà nớc bảo vệ lợi ích của tầng lớp t sản
độc quyền nói chung, đôi khi vì lợi ích chung của tầng lớp t sản độc quyền. Nhà
nớc bắt buộc phải hy sinh lợi ích của một nhà t bản độc quyền cá biệt nào đó.

Nhà nớc cũng có t cách để làm điều đó. Bởi vì, Nhà nớc có tính độc lập tơng đối
với nó khi giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội nói chung (không phải phụ
thuộc đơn giản theo nghĩa là các tổ chức độc quyền hoàn toàn điều khiển dật đây
Nhà nớc). Nh vậy là ở đây có sự kết hợp thế lực về kinh tế của độc quyền với thế
lực về chính trị của Nhà nớc đã làm cho chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc trở
thành hệ thống quan hệ kinh tế - xã hội có quyền lực vạn năng và thống trị xã
hội t sản hiện đại.
Chủ nghĩa t bản độc quyền Nhà nớc là một hình thức vận động mới của quan
hệ sản xuất t bản chủ nghĩa trong giai đoạn hiện đại. Cái mới ở đây là ở sự xuất
hiện của sở hữu Nhà nớc. Sở hữu Nhà nớc ra đời là để giải quyết mâu thuẫn cơ
bản của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa: mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
của nền sản xuất với quan hệ sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa về t liệu sản xuất. Có
thể nói, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa t bản thì mâu thuẫn này cũng ngày
càng trở nên gay gắt hơn. Chủ nghĩa t bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền với những hình thức tổ chức độc quyền nh: Các-ten,
Xanh- đi- ca, Tơ- rớt, Công-sooc- xi- om thực chất là sự phát triển của sở hữu
t bản từ sở hữu t nhân thuần tuý sang sở hữu t bản tập thể ở những mức độ khác
nhau nhằm phần nào đáp ứng yêu cầu xã hội hoá về mặt sở hữu. Nhng rồi sự
xuất hiện và phát triển của sở hữu t bản tập thể thông qua các hình thức cơ bản
của tổ chức độc quyền dờng nh vẫn không giải quyết đợc mâu thuẫn cơ bản của
5


phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa và rồi một hình thức sở hữu mới nữa lại xuất
hiện đó là sở hữu Nhà nớc. Sự xuất hiện của sở hữu Nhà nớc đã phần nào xoá dịu
đợc mâu thuẫn, song nó vẫn cha vợt ra khỏi đợc khuân khổ của quan hệ sản xuất
t bản chủ nghĩa, vì vậy mâu thuẫn vẫn còn tồn tại.
Thứ hai, về sự thay thế của Độc quyền Nhà nớc đối với độc quyền t nhân:
Sự thay thế không có nghĩa là độc quyền t nhân bị mất đi mà chỉ có nghĩa là
độc quyền nhà nớc đã có những tác dụng mà độc quyền t nhân không thể có đợc,

độc quyền t nhân bị hạn chế trên một số mặt nhất định. Cụ thể:
Khác với độc quyền t nhân, Nhà nớc không phải lúc nào cũng dùng sức mạnh
về t bản và sản xuất của mình để thống trị thị trờng. Trong nhiều trờng hợp Nhà
nớc dùng sức mạnh đó để can thiệp, điều tiết thị trờng và đời sống kinh tế- xã
hội.
Mục đích của độc quyền t nhân là giành lợi nhuận cao nhất, còn độc quyền
của Nhà nớc không phải lúc nào cũng nhằm vào lợi nhuận, Nhà nớc trong chủ
nghĩa t bản hiện đại cũng cần có sức mạnh về kinh tế trong tay để đủ khả năng
điều tiết kinh tế làm cho các hoạt động kinh tế diễn ra bình thờng, ổn định và
tăng trởng.
Về lợi ích kinh tế: Nói chung, lợi ích của độc quyền Nhà nớc và độc quyền t
nhân là thống nhất với nhau, song đôi khi cũng có sự khác nhau không nhỏ. Các
tổ chức độc quyền t nhân chỉ quan tâm tới lợi ích riêng, vì vậy cạnh tranh rất
quyết liệt, còn nhà nớc t sản độc quyền hiện đại quan tâm tới lợi ích tổng thể, tất
nhiên là tổng thể của giai cấp t sản nói chung và t sản độc quyền nói riêng. Do
vậy, Nhà nớc vợt lên trên các tổ chức độc quyền t nhân điều hoà mối quan hệ lợi
ích giữa chúng. Vì lợi ích tổng thể có khi Nhà nớc phải chấp nhận hy sinh lợi
ích cục bộ tạm thời của một tập đoàn t bản cá biệt.
Do có sự điều tiết của Nhà nớc nên sự lộng hành của các tổ chức độc quyền t
nhân bị hạn chế. Có thể nói, nếu không có sự điều tiết của Nhà nớc thì nền kinh
tế t bản ngày nay không thể ổn định nổi, nhất là khi các tổ chức độc quyền lại
nắm trong tay sức mạnh của khoa học và công nghệ. Sức mạnh cộng với lợi ích

6


cục bộ mà thiếu sự điều tiết chung sẽ có nguy cơ dẫn tới những đổ vỡ và tổn thất
không lờng đợc.
II-


Những điều chỉnh mới của chủ nghĩa t bản hiện đại:

1- Những nguyên nhân dẫn đến sự điều chỉnh của chủ nghĩa t bản hiện đại:
a) Cách mạng khoa học - công nghệ:
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay đang tác động một cách
mạnh mẽ, sâu rộng tới mọi ngành, mọi lĩnh vực trong sản xuất và đời sống của
toàn nhân loại. Đối với các quốc gia t bản chủ nghĩa, quá trình này lại càng sôi
động hơn, bởi vì đây chính là động lực trực tiếp của tăng trởng kinh tế và là nhân
tố để tăng cờng năng lực cạnh tranh trên thị trờng thế giới.
Sau đây là một số lĩnh vực công nghệ mới đợc coi là có triển vọng nhất hiện
nay:
Thứ nhất, kỹ thuật điện tử đợc coi là ngành hạt nhân có tính quyết định của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ, là ngành phát triển nhanh nhất, ứng dụng
rộng rãi nhất trong số các ngành khoa học - công nghệ mới nổi lên. ở các nớc t
bản phát triển ngành này đã trở thành một ngành mới, độc lập, giá trị sản lợng
của nó không ngừng tăng lên.
Máy vi tính điện tử đợc coi là một trong những phát minh khoa học công nghệ
vĩ đại nhất của thế kỷ này. Máy vi tính cho phép xử lý thông tin và đa ra những
kết luận lôgic dựa trên cơ sở tri thức nhân loại đã đợc tích luỹ. Cho tới nay, sự
phát triển của máy vi tính mới trải qua nửa thế kỷ, nhng triển vọng của nó vô
cùng rộng lớn.
Thứ hai, thông tin là hệ thống thần kinh của xã hội hiện đại. Hiện nay, với các
biện pháp thông tin đa dạng nh thông tin sợi quang, thông tin vi sóng, thông tin
vệ tinh, thông tin di động, đã làm cho việc chuyển tin không những có dung lợng
lớn, chất lợng lớn, diện phủ rộng mà còn nhanh chóng, linh hoạt, an toàn. Ngày
nay, một ngời ngồi làm việc tại nhà trong căn hộ điện tử cũng có thể tham dự hội
nghị quốc tế thông qua sự liên kết giữa máy điện thoại, máy thu hình và máy vi
tính. Nh vậy, với hệ thống thông tin cao tốc này, nền kinh tế thế giới sẽ có những
bớc phát triển mới.
7



Thứ ba, công nghệ vật liệu mới phát triển mạnh mẽ. Đó là công nghệ thông
qua phơng pháp khoa học để chế tạo ra các vật liệu thay thế cho các vật liệu
thiên nhiên. Những vật liệu mới phát triển với tốc độ nhanh hiện nay là vật liệu
cho công nghệ thông tin, vật liệu tổng hợp, và vật liệu năng lợng mới. Trong đó,
đáng chú ý nhất là vật liệu năng lợng mới. Do sự phát triển của công nghệ vật
liệu mới mà thời gian gần đây, nhu cầu về vật liệu mới thờng xuyên tăng nhanh
hơn nhu cầu về vật liệu truyền thống.
Thứ t, công nghệ sinh học bắt đầu nổi lên từ những năm 50 của thế kỷ này. Nó
là sản phẩm của sự kết hợp khoa học về sự sống và khoa học hiện đại. Công nghệ
sinh học đang đợc nghiên cứu và phát triển hiện nay chủ yếu là gen, dung hợp tế
bào, môi tế bào, phản ứng sinh vật và công nghệ gây men Cừu Dolly là một
thành tựu của công nghệ sinh học của loài ngời trong thế kỷ XX. Hiện nay, công
nghệ sinh học đã hình thành một ngành nghề mới ở các nớc t bản phát triển. Các
công ty chuyên kinh doanh công nghệ sinh học phát triển ngày càng nhiều. Ước
tính năm 2000, giá trị sản lợng do ứng dụng công nghệ sinh học đã đạt tới gần
100 tỷ đôla. Có ý kiến cho rằng thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ bùng nổ của công nghệ
sinh học (thế kỷ XX là thế kỷ bùng nổ của công nghệ thông tin).
Thứ năm, công nghệ hải dơng hiện nay rất đợc chú trọng. Biển chiếm 71%
diện tích trái đất nhng việc lợi dụng biển của loài ngời còn hết sức nhỏ bé. Cùng
với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, con ngời ngày càng coi trọng việc khai
thác và lợi dụng biển. Ngời ta dự đoán rằng, trong tơng lai phạm vi hoạt động
của con ngời sẽ đợc chuyển dần từ đất liền ra biển. Hiện nay, dầu lửa, khí tự
nhiên, hạt mangan và các hầm mỏ thể nóng đợc coi là 4 nguồn khoáng sản lớn
của đáy biển. Vì vậy, khai thác biển sẽ là lĩnh vực kinh doanh béo bở và dễ thu
đợc lợi nhuận siêu ngạch trong tơng lai.
Thứ sáu, công nghệ vũ trụ rất phát triển. Bao gồm việc nghiên cứu, chế tạo
máy móc cho việc bay vào vũ trụ, nghiên cứu vũ trụ, những điều kiện trong
khoảng không vũ trụ để tạo ra những sản phẩm mà trên mặt đất không làm đợc.

Dự kiến trong tơng lai, ngời ta có thể xây dựng trong vũ trụ những trạm chế tạo
những sản phẩm đặc biệt nh vậy.
8


Điều này lí giải tại sao trong giai đoạn hiện đại, cuộc đấu tranh phân chia lãnh
thổ giữa các cờng quốc t bản độc quyền lại đợc chuyển sang thành cuộc đấu
tranh phân chia về hải phận và không phận.
b) Hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, phát triển và đổi mới:
Tất cả đều có tác động tới sự phát triển của chủ nghĩa t bản, khiến chủ nghĩa t
bản phải điều chỉnh. Cụ thể:
Thời kỳ hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời và phát triển thì chủ nghĩa t bản đã
phải đa ra hình thức sở hữu Nhà nớc để giảm bớt tính gay gắt của mâu thuẫn cơ
bản của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa t bản cũng phải lo giải
quyết nhiều vấn đề xã hội.
Các nớc theo con đờng xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành công cuộc đổi mới
hoặc cải cách, chủ nghĩa t bản lại phải có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại,
tăng cờng phát triển các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác khu vực, âm mu
thông qua con đờng kinh tế để thực hiện những ý đồ về chính trị. Tất nhiên,
không loại trừ lý do trong bối cảnh hiện tại sự phát triển của một quốc gia
không thể tách rời với sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung, nhng
trong hợp tác về kinh tế là có ý đồ chính trị bởi vì chiến lợc của nhà trắng đề ra
là sang thế kỷ XXI, CNTB sẽ thống trị trên toàn thế giới.
c) Toàn cầu hoá, khu vực hoá đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, song đấu
tranh giai cấp vẫn tồn tại:
Toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hởng, tác
động và phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, làm nổi bật
hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt
điều kiện mới. Toàn cầu hoá khiến cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, làm
sâu sắc hơn sự chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế, kích thích gia

tăng sản xuất không chỉ ở cấp độ quốc gia mà còn mở rộng ra trên toàn thế giới.
Toàn cầu hoá tạo thành một xu hớng tác động mạnh mẽ nh ngày nay là do sự
tăng trởng của thị trờng tài chính toàn cầu, sự mở rộng liên kết kinh tế thế giới.
Toàn cầu hoá đang đụng chạm đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhng biểu
hiện rõ nhất là xu hớng toàn cầu hoá kinh tế. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế
9


quốc tế và khu vực nh: WTO, IMF, EU, NAFTA, APECdẫn đến sự hình thành
các tổ chức chính trị xã hội lớn nh: UNDP, UNFPA, UNESCO,UNICEF, FAOđây chính là kết quả của quá trình toàn cầu hoá. Tuy vậy, trong bối cảnh mới thế
giới vẫn tồn tại những mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa t bản và chủ
nghĩa xã hội, giữa chủ nghĩa t bản và giai cấp công nhân, giữa các nớc t bản với
nhau.
d) Bầu không khí thế giới đang vận động theo xu hớng chuyển từ đối đầu sang
đối thoại, chuyển từ chiến tranh sang hoà bình song vẫn tiềm ẩn những nhân
tố gây xung đột, chiến tranh:
Ngày nay tác động của nguy cơ huỷ diệt của chiến tranh hạt nhân là rất lớn,
nhiều quốc gia trên thế giới hoặc công khai hoặc là ngấm ngầm vẫn tham gia sản
xuất vũ khí hạt nhân. Những xung đột về sắc tộc, tôn giáo hiện nay không còn là
vấn đề của riêng từng quốc gia mà đã trở thành vấn đề có tính chất toàn cầu.
Những xung đột này đang có xu hớng ngày càng gia tăng và nếu không giải
quyết tốt thì đây sẽ là một nguy cơ dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Ngợc lại, phong trào đấu tranh đòi hỏi hoà bình của các lực lợng tiến bộ trên
toàn thế giới phát triển mạnh.
e) Các cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ:
Các cuộc khủng hoảng nói lên rằng, mặc dù trong chủ nghĩa t bản sản xuất có
xu hớng mở rộng vô hạn, song chủ nghĩa t bản cũng đã gặp phải những bế tắc,
khó khăn trong việc mở rộng cầu có khả năng thanh toán. Nếu tình trạng này cứ
kéo dài, chủ nghĩa t bản không chịu điều chỉnh để giảm bớt tình trạng căng
thẳng của mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng thì nguy cơ sụp đổ của chủ

nghĩa t bản là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
2- Nội dung điều chỉnh của chủ nghĩa t bản hiện đại ngày nay:
Điều chỉnh trong cấu trúc của lực lợng sản xuất: Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học kỹ thuật kể từ sau chiến tranh, lực lợng sản xuất trong các nớc
t bản chủ nghĩa đã có đợc những bớc phát triển nhảy vọt, từ đó dẫn đến sự thay
đổi trong cấu trúc của nó.

10


Điều chỉnh về quan hệ sản xuất nhng vẫn trong khuôn khổ của chủ nghĩa t
bản: Sự xuất hiện của hệ thống tham dự mới tức là sự tham gia của những ngời lao động vào các mặt sở hữu, quản lý và phân phối lợi nhuận của công ty. Do
các nớc ở phơng Tây sau một thời kỳ phát triển khu vực kinh tế Nhà nớc đã bộc
lộ tính kém hiệu quả của nó bộc lộ ra ngày càng rõ và từ đó xuất hiện xu hớng
cổ phần hoá doanh nghiệp. Một điều đáng chú ý là chủ đề chính của xu hớng cổ
phần hoá lần này là bán cổ phần của doanh nghiệp cho chính những ngời làm
công trong doanh nghiệp. Và cũng từ đây những quan hệ sản xuất có tính truyền
thống của chủ nghĩa t bản bắt đầu có sự biến dạng.
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế: Do cuộc cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy,
cơ cấu ngành ở các nớc t bản chủ nghĩa có những thay đổi lớn. Tỷ trọng ngành
dịch vụ tăng nhanh, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm nhanh, còn tỷ trọng ngành
công nghiệp trong thời gian những năm 70 tăng chậm, sau đó sang những năm
80 bắt đầu giảm.
Điều chỉnh trong quan hệ kinh tế quốc tế: Xu hớng toàn cầu hoá, khu vực hoá
ngày nay đang đặt các quốc gia trong mối quan hệ vừa hợp tác với nhau lại vừa
cạnh tranh với nhau. Thể hiện ở sự phân công lao động quốc tế đang diễn ra cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu, làm cho sản phẩm đợc sản xuất ngày càng mang
tính quốc tế cao. Do vậy làm cho các nớc phải phụ thuộc vào nhau. Hơn nữa, vai
trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng tăng lên và sự phối hợp giữa các
quốc gia t bản ngày càng đợc tăng cờng thông qua các tổ chức kinh tế quốc tế và

các tổ chức kinh tế khu vực
Điều chỉnh trong kết cấu giai cấp xã hội: Kết cấu giai cấp có tính truyền
thống trong chủ nghĩa t bản là giai cấp t sản chiếm thiểu số trong dân c của xã
hội nhng lại chiếm đa số về của cải và thu nhập, ngợc lại, giai cấp vô sản chiếm
đa số trong dân c nhng lại chiếm thiểu số về của cải và thu nhập. Hiện nay, ngời
làm công cũng có sở hữu cổ phần, trở thành những ngời đồng sở hữu về vốn và
tài sản của công ty. Tầng lớp này gọi là tầng lớp trung lu. Trong xã hội ngày
nay, ngời không có tài sản và phải bản sức lao động và những chủ sở hữu 100%

11


đối với vốn và tài sản của doanh nghiệp còn rất ít. Đại bộ phận trong xã hội là
tầng lớp trung lu.
Điều chỉnh trong chu kỳ của tái sản xuất t bản chủ nghĩa: Do tăng cờng vai
trò điều tiết của nhà nớc t bản độc quyền nên chu kỳ tái sản xuất ở các nớc t bản
sau chiến tranh đã có những thay đổi sâu sắc: Khủng hoảng kinh tế không gay
gắt, vật giá leo thang trong khủng hoảng và có sự xuất hiện của các cuộc khủng
hoảng trung gian, khủng hoảng cơ cấu.
III-

Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm kinh tế cơ bản của

chủ nghĩa t bản hiện đại:

1- Về đặc điểm thứ nhất: Tích tụ và tập trung sản xuất và sự ra đời của độc
quyền:
Khi chủ nghĩa t bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền, đến giai đoạn hiện đại quá trình tích tụ và tập trung sản xuất không
những không mất đi mà còn không ngừng đợc tăng lên cả trên quy mô ngành

cũng nh quy mô nền kinh tế. Thể hiện: Tỷ trọng thị phần của các công ty lớn
ngày càng tăng nhanh, xu hớng tích tụ và tập trung sản xuất trong nền kinh tế t
bản chủ nghĩa đang chuyển từ những ngành truyền thống sang những ngành mũi
nhọn, dịch vụ là những ngành sản xuất ra những sản phẩm có hàm lợng khoa học
cao và mua các công ty đang hoạt động đợc coi là phơng thức có hiệu quả để đẩy
nhanh tốc độ tích tụ và tập trung sản xuất.
Sự phát triển của các công ty hỗn hợp quy mô lớn, vừa có liên kết theo chiều
ngang (liên kết theo ngành) lại vừa có liên kết theo chiều dọc (liên kết đa
ngành), tức là có sự kết hợp giữa chuyên môn hoá với kinh doanh tổng hợp. Ví
dụ: ở Mỹ, năm 1981 trong số 500 công ty lớn nhất thì có 412 công ty trở thành
công ty liên hiệp hỗn hợp. Còn ở Nhật, công ty sản xuất thép ngoài việc sản xuất
gang thép còn sản xuất hoá chất, điện công cộng, kiến trúc, phân hoá học
Tổ chức xí nghiệp quốc tế là hình thức phổ biến của các tổ chức độc quyền:
Thực chất các công ty xuyên quốc gia là những công ty t bản độc quyền bành trớng hoạt động kinh tế ra nớc ngoài dới hình thức cắm nhánh để tìm kiếm lợi
nhuận độc quyền cao và phân chia thế giới về kinh tế. Việc ra đời và phát triển
12


mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia gắn liền với quá trình quốc tế hoá đời
sống kinh tế và cũng là hiện tợng đặc trng đánh dấu bớc phát triển mới của chủ
nghĩa t bản trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay có sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền với
các công ty vừa và nhỏ: Sự phát triển của các hình thức kinh doanh vừa và nhỏ đợc đánh giá nh một xu hớng vận động mới trong sự phát triển của chủ nghĩa t
bản, khi mà vai trò của thị trờng và cạnh tranh ngày càng trở nên quan trọng đối
với quá trình tăng trởng và phát triển kinh tế. Nhờ tính thích ứng kịp thời và năng
động mà vai trò của các hình thức kinh doanh nhỏ và vừa ngày càng trở nên cần
thiết cho sự ổn định và phát triển của kinh tế thị trờng. Vai trò này không mâu
thuẫn với xu hớng mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh. Trong điều kiện hiện
đại, chúng không mang tính loại trừ mà còn bổ sung cho nhau. Một bên là hình
thức kinh doanh lớn, một bên là kinh doanh nhỏ và vừa. Mỗi loại đều có những u

thế đặc thù và thực hiện những chức năng trong hệ thống tác động qua laị đặc
biệt hình thành giữa chúng với nhau.
2- Về đặc điểm thứ hai: T bản tài chính và sự thống trị của t bản tài chính:
T bản tài chính, theo quan điểm của Lênin, là sự dung hợp của t bản độc
quyền công nghiệp với t bản độc quyền ngân hàng vẫn là một đặc trng quan
trọng của chủ nghĩa t bản ngày nay, nhng đã có nhiều điểm mới cho phù hợp với
sự thay đổi trong nền sản xuất nói chung và trong lĩnh vực tín dụng nói riêng.
Thể hiện: Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và thâm nhập vào
nhau giữa t bản độc quyền công nghiệp và t bản độc quyền ngân hàng. Đã có sự
thay đổi trong lĩnh vực phát hành chứng khoán và hệ thống tham dự bằng cách
các ngân hàng phát hành chứng khoán và buôn bán chứng khoán với qui mô lớn.
Ngoài ra, hình thành những tập đoàn t bản tài chính với t cách một hình thái liên
minh siêu độc quyền.
3- Về đặc điểm thứ ba: xuất khẩu t bản:
Xuất khẩu t bản vẫn là cơ sở của độc quyền quốc tế sau chiến tranh, nhng địa
bàn xuất khẩu t bản cũng có sự thay đổi. Trớc đây chủ yếu là các nớc t bản phát

13


triển xuất khẩu t bản sang các nớc kém phát triển (khoảng 70%) nhng nay lợng t
bản xuất khẩu đợc đầu t vào các nớc phát triển.
4- Về đặc điểm thứ t: sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các liên minh t bản
độc quyền:
Chúng ta đã biết quá trình phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc
quyền thuộc các quốc gia khác nhau đã dẫn tới sự xung đột lẫn nhau về lợi ích
kinh tế, song do tơng quan lực lợng xấp xỉ nhau nên các tổ chức độc quyền giữa
các quốc gia đã đi tới thoả thuận với nhau và kí kết với nhau những hiệp ớc
mang tính độc quyền quốc tế và hình thành nên các tổ chức độc quyền quốc tế
(các công ty xuyên quốc gia). Nh vậy, sự hình thành của các tổ chức độc quyền

quốc tế, một mặt là sản phẩm của quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, mặt
khác lại thúc đẩy nhanh chóng quá trình toàn cầu hoá. Hiện nay, t bản độc
quyền quốc tế chính là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hoá thông qua
các tổ chức kinh tế quốc tế và đang tìm mọi cách hạn chế sự phát triển của các
tổ chức khu vực.
5- Về đặc điểm thứ năm: sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cờng
quốc t bản độc quyền:
Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới đã
suy yếu nhng các cờng quốc t bản độc quyền vẫn khi ngấm ngầm, khi công khai
tiến hành các cuộc chiến tranh tranh giành nhau khu vực ảnh hởng, mục đích
nhằm ràng buộc các nớc kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ và đi
tới lệ thuộc về chính trị. Thứ đến là các cuộc chiến tranh tranh giành nhau về hải
phận và không phận và các cuộc chiến tranh thơng mại, chiến tranh sắc tộc, tôn
giáo mà đứng đằng sau các cuộc chiến tranh đó bao giờ cũng là các cờng quốc t
bản độc quyền.

14


Phần III: Kết luận

Có thể nói, học thuyết của Lênin về chủ nghĩa t bản độc quyền đợc coi là học
thuyết kinh tế chính trị đầu tiên về chủ nghĩa t bản hiện đại theo quan điểm Mác
- xít. Lôgic xuyên suốt trong các vấn đề của chủ nghĩa t bản hiện đại mà Ngời
nêu ra là sự thống trị của độc quyền thay thế cho sự thống trị của cạnh tranh tự
do.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của chủ nghĩa t bản có những nét mới
của nó, đó là những nét mới trong các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa t
bản độc quyền, những hoạt động điều chỉnh mới của chủ nghĩa t bản để thích
nghi với tình hình mới. Những cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, những

biến động trong đời sống kinh tế - chính trị, xã hội trên thế giới đều là những
nhân tố tác động dẫn tới sự xuất hiện của những nét mới trong sự phát triển của
chủ nghĩa t bản hiện đại.
Chủ nghĩa t bản hiện đại xét về bản chất vẫn là chủ nghĩa t bản độc quyền.
Nhng những cái mới ở đây là độc quyền Nhà nớc trong điều kiện cách mạng
khoa học công nghệ, kinh tế thị trờng hiện đại và bối cảnh toàn cầu hoá.
Vai trò tiến bộ của chủ nghĩa t bản trong việc phát triển lực lợng sản xuất của
xã hội, tạo dựng và hoàn thiện mô hình kinh tế thị trờng, xoá bỏ cơ cấu xã hội
phong kiến lỗi thời là không thể phủ nhận. Song, bên cạnh vai trò tiến bộ, chủ
nghĩa t bản hiện đại cũng ngày càng bộc lộ rõ những giới hạn của nó, thể hiện ở
những bế tắc trong việc giải quyết những mâu thuẫn, những vấn đề nan giải của
kinh tế thị trờng, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa và giành giật thị
trờng giữa các quốc gia t bản độc quyền trên thế giới, những xung đột xung
15


quanh những vấn đề tôn giáo, sắc tộc. Chính vì vậy, chủ nghĩa t bản đang có
những hoạt động điều chỉnh để thích nghi. Chỉ khi nào chủ nghĩa t bản phát triển
hết cỡ và không còn có khả năng điều chỉnh để thích nghi nữa thì khi đó những
điều kiện cho cách mạng Vô sản mới đợc coi là chín muồi. Còn hiện tại, theo
đánh giá của các chuyên gia kinh tế và chính trị ở cả trong nớc và ngoài nớc thì
chủ nghĩa t bản vẫn cha phát triển hết khả năng, việc chuyển từ chủ nghĩa t bản
vận động thuần tuý theo cơ chế thị trờng sang chủ nghĩa t bản vận động theo cơ
chế hỗn hợp lại mở ra một khả năng mới cho sự tồn tại và phát triển của chủ
nghĩa t bản. Vì vậy, việc chủ nghĩa t bản bị tiêu diệt không thể là chuyện của vài
chục năm tới và lại càng không phải là chuyện của một vài năm, nó là cả một
quá trình lâu dài.

16



17



×