Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Bằng Lãi Suất Cơ Bản Và Định Hướng Hoàn Thiện Chính Sách Lãi Suất Ở Việt Nam Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.27 KB, 42 trang )

Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trờng, vai trò của Ngân hàng Nhà Nớc
ngày càng đợc khẳng định. Với những công cụ quản lý vĩ mô trong tay, Ngân hàng
Nhà Nớc đã làm cho hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày càng lành mạnh và
có hiệu quả , tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế . Một trong những
công cụ quản lý hữu hiệu của Ngân hàng Nhà nớc là công cụ lãi suất. Thông qua
công cụ lãi suất, Ngân hàng Nhà nớc tác động lên hoạt động của các Ngân hàng
Thơng mại, các tổ chức tín dụng và từ đó tác động lên lợng cung tiền tệ - một chỉ
tiêu ảnh hởng mạnh mẽ đến sức khoẻ của nền kinh tế.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN, ngành
Ngân hàng đã trải qua 10 năm đổi mới, đó cũng là 10 năm không ngừng đổi mới
chính sách điều hành lãi suất của NHNN theo hớng từng bớc tiến đến một chính
sách lãi suất thị trờng khi điều kiện kinh tế và tiền tệ cho phép. Trên cơ sở định hớng đó, ngày 1/10/1998 Luật NHNN Việt nam ra đời qui định về việc áp dụng một
cơ chế lãi suất mới là lãi suất cơ bản. Với cơ chế này, việc điều hành lãi suất ngày
càng trở nên linh hoạt, bám sát nhu cầu thị trờng hơn, nhng thực tế còn rất nhiều vớng mắc về cách vận dụng cũng nh tác dụng của qui định mới này. Nếu đánh giá
một cách khách quan, chính sách lãi suất trong những năm qua đã thu đợc một số
thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều bất cập và hạn chế.
Thực tiễn khách quan đó đòi hỏi phải có một sự đổi mới sâu rộng trong việc sử
dụng công cụ lãi suất trong hệ thống Ngân hàng Việt nam sao cho phù hợp với
thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tiễn của thị trờng tiền tệ trong nớc.
Chính vì vậy mà đề tài " Quản lý của NHNN bằng lãi suất cơ bản và định hớng
hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam hiện nay" đợc chọn làm đề án nghiên
cứu của em .
Đề án đi vào làm rõ phạm trù lãi suất cơ bản, cách xác định và tác dụng, hạn chế
của nó đối với nền kinh tế; đồng thời phân tích thực trạng chính sách lãi suất hiện
nay để từ đó đa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách lãi suất trong
hệ thống Ngân hàng Việt Nam.


Kết cấu của bản đề án này gồm 3 chơng:
Chơng I: Lý luận chung về lãi suất cơ bản và việc quản lý của NHNN bằng lãi


suất cơ bản.
Chơng II: Thực trạng của chính sách lãi suất ở Việt Na m và tác động của nó
đến sự tăng trởng kinh tế
Chơng III: Đinh hớng hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam


Mục lục
Trang
Lời mở đầu

Chơng I: Lý luận chung về lãi suất cơ bản và việc quản lý của ngân
hàng nhà nớc bằng lãi suất cơ bản
1. Khái niệm và căn cứ xác định
2. Một số cách hiểu về lãi suất cơ bản
3. Yêu cầu đối với lãi suất cơ bản
4. Ưu nhợc điểm của việc quản lý của NHNN bằng lãi suất cơ bản
Chơng II: Thực trạng của chính sách lãi suất ở Việt Nam và tác động
của nó đến sự tăng trởng kinh tế
1. Quá trình nới lỏng việc điều tiết lãi suất ở Việt Nam
2. Đặc điểm của thị trờng tín dụng Việt Nam
Chơng III: Định hớng hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam
hiện nay
I/ Xu thế tự do hoá lãi suất và kinh nghiệm ở một số nớc
II/ Giải pháp tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của NHNN Việt Nam
1. Thế nào là tự do hoá lãi suất có sự điều tiết
2. Cơ sở của việc áp dụng chính sách tự do hoá lãi suất có sự điều tiết ở
Việt Nam
3. Tác dụng của chính sách lãi suất mới
III/ Hoàn thiện môi trờng tài chính, tiền tệ thúc đẩy quá trình vận động
của cơ chế tự do hoá lãi suất có sự điều tiết trong hệ thống Ngân hàng

Việt Nam
1. Hình thành quyền tự quyết trong việc xác định lãi suất của các tổ chức
tín dụng
2. Đa dạng hoá đối tợng phục vụ nhằm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh
giữa các ngân hàng
3. Hình thành tổ chức bảo hiểm tiền gửi bảo đảm cho quá trình tự do hoá
lãi suất có điều tiết
4. Nâng cao hiệu quả tác động của nghiệp vụ thị trờng mở
Kết luận

1
1
5
9
10
14
14
21
23
23
26
26
28
30
31

31
32
33
34



Chơng I: Lý luận chung về lãi suất cơ bản và việc quản lý
của Ngân hàng Nhà nớc bằng lãi suất cơ bản.
1. Khái niệm và căn cứ xác định.
1.1.Khái niệm và bản chất của lãi suất cơ bản.
Trong hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi suất của NHNN đã đợc điều chỉnh
theo hớng tích cực , "nới lỏng" từng bớc theo hớng tự do hoá phù hợp với điều kiện
kinh tế-xã hội trong nớc, mức độ hội nhập quốc tế của nền kinh tế nớc ta. Cơ chế
điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt hơn bám sát cung-cầu vốn thị trờng,
quyền chủ động ấn định lãi suất kinh doanh của các TCTD đợc mở rộng, nên làm
tăng khả năng cạnh tranh nhng vẫn kiểm soát đợc lãi suất trên thị trờng tiền tệ, góp
phần thúc đẩy thị trờng tài chính trong nớc, thúc đẩy tâng trởng kinh tế, ổn định giá
trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam. Để thúc đẩy phát triển và hội nhập
quốc tế, NHNN phải tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất từng bớc triển khai
thực hiện các chủ trơng đổi mới hoạt động ngân hàng của Đảng Nhà nớc, Quốc hội
đề ra.
Trên cơ sở đó, Luật Ngân hàng Nhà nớc và Luật các tổ chức tín dụng đợc Quốc
hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998 là một bớc ngoặt đánh dấu sự trởng thành trong hoạt động ngân hàng nói chung, việc sử
dụng công cụ lãi suất nói riêng.
Điều 18 Luật NHNN ghi" NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản , lãi suất
tái cáp vốn". Khoản 12 điều 9 giải thích: "Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN
công bô làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh".
Nh vậy, theo quy định của Luật NHNN về lãi suất cơ bản thì đây là một khái
niệm rất rộng và rất dễ vận dụng cho sự điều hành lãi suất của NHNN trong mỗi
giai đoạn thích hợp. Bởi vì theo Luật thì lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công
bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh thì có ý nghĩa trên cả hai
mặt:
-Xác định rất rõ vai trò của Nhà nớc trong việc quản lý và điều hành bằng lãi
suất, không lúc nào buông lỏng sự quản lý của Nhà nớc mà cơ quan có thẩm quyền



trách nhiệm là NHNNVN. Vai trò quản lý của Nhà nớc về lãi suất phải đợc thể
hiện nhằm đạt dợc mục tiêu bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD, bảo vệ quyền lợi
một cách hài hoà giữa các bên: ngời gửi, ngời vay và TCTD; sử dụng công cụ lãi
suất làm đòn bẩy để kích thích hoạt động vốn và điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi
thiếu, góp phần thúc đẩy sự ổn định và tăng trởng kinh tế vừa làm công cụ điều
hành chính sách tiền tệ.
- Có rất nhiều loại lãi suất cơ bản mà NHNN công bố vừa phù hợp với các điều
kiện kinh tế, tiền tệ của nớc ta trong từng thời kỳ vừa đảm bảo linh hoạt theo cung
cầu vốn trong chính sách tiền tệ và tăng tính lành mạnh giữa các tố chức tín dụng.
Cũng chính vì có nhiều loại lãi suất cơ bản và việc điều hành bằng lãi suất cơ
bản còn là điều mới mẻ với NHNNVN nên thiết nghĩ, chúng ta nên làm rõ thêm
bản chất và chức năng của lãi suất cơ bản. Từ điều giải thích của Luật NHNN " Lãi
suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất
kinh doanh " có thể thấy lãi suất cơ bản có hai chức năng:
- Là công cụ điều hành chính sách tiền tệ: Qua lãi suất cơ bản NHNN tác động
vào thị trờng tiền tệ thúc đẩy mở rộng hay thu hẹp tín dụng và tổng phơng tiện
thanh toán, giữ mức tơng quan cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. đảm bảo
ổn định giá cả và tiền tệ.
- Là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cơ sở để hình thành lãi suất
thị trờng, tức là lãi suất kinh doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hoà một cách tự nhiên
lợi ích ngời gửi tiền, ngời vay vôn và các TCTD.
Đặc thù của lãi suất cơ bản:
-Lãi suất cơ bản là lãi suất đợc điều hành và tác động trực tiếp lên lãi suất thị trờng.
-Lãi suất cơ bản do NHNN xác định và công bố, không phải tự hình thành trên
thị trờng tiền tệ
-Nó có ý nghĩa bắt buộc các TCTD phải chấp hành vô điều kiện.
Do vậy, có thể khẳng định ngay rằng, các lãi suất Libor và Sibor không phải là
lãi suất cơ bản vì nó tự hình thành trên thị trờng.Thực tế, nó chỉ là những thông tin

tham khảo. Lãi suất hình thành trên thị trờng liên ngân hàng ở nớc ta cũng không
là lãi suất cơ bản vì nó tơng tự nh lãi suất Libor và Sibor.


Nghiên cứu Luật NHTƯ của một số nớc cũng đề cập đến lãi suất của NHTƯ ,
tuy về từ ngữ có khác nhau. Luật NHTƯ của Cộng hoà Liên bang Đức có quy
định"Ngân hàng Liên bang Đức ấn định lãi suất chiết khấu và tỷ lệ chiết khấu đợc
áp dụng cho các hoạt động của Ngân hàng Liên bang". Luật Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc quy định" xác định lãi suất cơ bản của NHTƯ ", Luật NHTƯ Ba Lan
quy định Chủ tịch NBP quyết định lãi suất tái chiết khấu đối với hối phiếu, lãi suất
tín dụng tái cấp vốn ". Luật NHTƯ Hung-ga-ri quy định" NBH hoạt động trên cơ
sở những lãi suất linh hoạt đã đợc công bố, trong đó bao gồm tỷ lệ lãi suất cơ bản
của NHTƯ, lãi suất hàng ngày, lãi suất u tiên và lãi suất phạt...". Luật NHTƯ Hàn
Quốc quy định "Hội đồng trền tệ quy định mức lãi suất tối đa mà các tồ chức ngân
hàng tính đối với các loại cho vay".Tại Pháp, lãi suất cơ bản do Ngân hàng ấn định,
trên cơ sở đó tính lãi cho các khoản cho vay khác nhau. Và về nguyên tắc, mỗi
ngân hàng đợc định ra lãi suất cơ bản của mình trên cơ sở có sự nhất trí nào đó giữa
các ngân hàng. Lãi suất chiết khấu của NHTƯ Pháp hoàn toàn không phụ thuộc
vàơ lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào lãi suất trên thị trờng tiền tệ. Lãi suất trên thị
trờng tiền tệ là lãi suất đợc thực hiện gĩữa các ngân hàng trên thị trờng tiền tệ .Nh
vậy trên thế giới có khá nhiều nớc áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản và nó đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc điều hành hoạt động của hệ thống ngân hàng ở mỗi nớc nhằm thực hiện cho đợc những mục tiêu của chính sách tiền tệ.. Việt Nam là nớc mới vận dụng công cụ này nên cần thiết phải có cách xác định rõ ràng.
1.2 Những căn cứ xác định lãi suất cơ bản.
Mặc dù lãi suất cơ bản là loại lãi suất có tính chất chỉ đạo và ngay từ khái niệm
đã cho thấy rằng có nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản nh ng dù đợc hiều
theo cách nào, dựa trên cơ sở nào thì khi xác định và công bố, thay đổi lãi suất thì
NHNN cũng phải căn cứ vào những yếu tố sau:
- Chỉ tiêu tăng trởng kinh tế hằng năm.
- Chỉ số lạm phát dự kiến hằng năm.
- Lãi thực của ngời gửi tiền đợc hởng nhằm đảm bảo lãi suất tiền gửi là số dơng

dể khuyến khích ngời gửi tiền vào ngân hàng.
- Chi phí ngân hàng thấp nhất đảm bảo tiền lơng, chi phí nghiệp vụ, trích quỹ dự
phòng rủi ro và lợi nhuận tối thiểu trong hoạt động ngân hàng- Tình hình cung cầu vốn tín dụng trên thị trờng.


- Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ, giữa lãi suất nội tệ và lãi suất
ngoại tệ.
- Lãi suất thị trờng đấu thầu trái phiếu Kho bạc Nhà nớc trong các phiên đấu
thầu gần nhất.
- Lãi suất bình quân trên thị trờng nội tệ liên ngân hàng thời gian gần nhất.
Để xác định biên độ đợc cộng vào lãi suất cơ bản cần dựa vào:
- Mục tiêu của chính sách tiền tệ từng thời kỳ ( thắt chặt hay nới lỏng) .
- Hệ số sử dụng vốn bình quân sau khi đã thực hiện dự trữ bắt buộc và đảm bảo
an toàn trong thanh toán của TCTD.
- Mức độ rủi ro của loại hình khách hàng.
- Đặc điểm khó khăn, thuận lợi trên những vùng kinh tế khác nhau
Trên cơ sở lãi suất cơ bản đợc tính theo những căn cứ nh vậy, các ngân hàng thơng mại sẽ niêm yết để công bố mức lãi suất của mình. Mức lãi suất cho vay thực tế
của các ngân hàng sẽ là lãi suất cơ bản cộng với tỷ lệ % theo biên độ giao động do
NHTƯ quy định đợc áp dụng linh hoạt cho từng món vay. Làm nh vậy NHNN Việt
Nam sẽ quản lý đợc lãi suất cho vay cao nhất, lãi suất cho vay thấp nhất, đảm bảo
đợc quyền lợi của ngời vay trong khung lãi suất ấn định, giúp cho các TCTD đợc tự
quyết định lãi suất huy động và tự do cạnh tranh trong khuôn khổ quản lý của
NHNN Việt Nam Nh vậy, lãi suất đã đợc điều hành theo hớng có chỉ đạo của
NHNN, nhng đồng thời các NHTM vẫn duy trì đợc quyền tự chủ trong quy định lãi
suất. Lãi suất đã đợc quản lý linh hoạt theo diễn biến thay đổi của thị trờng và dựa
trên cơ sở đảm bảo an toàn hệ thống.
Công thức chung để tính lãi suất cơ bản nh sau:
Lãi suất cơ bản
do ngân hàng nhà =
nớc công bố


Lãi suất tiền gửi
có đảm bảo quyền +
lợi của ngời gửi tiền

Chi phí ngân
hàng có lãi +
tối thiểu

Biên độ
dao động

Theo cách tính lãi suất cơ bản nh trên, các NHTM đã đợc phép tính đến một tỷ lệ
lợi nhuận trong kinh doanh, mà vẫn tính đến cả mức độ rủi ro có thể xảy ra. Bên
cạnh đó, chi phí huy động đợc tính phù hợp trên cơ sở đảm bảo lãi suất thực dơng
cho ngời gửi tiền.


2.Một số cách hiểu về lãi suất cơ bản.
Nghị quyết Trung ơng lần thứ 4, khoá VIII Thông báo số 144/TB-TƯ ngày
3/6/1998 của Bộ Chính trị nêu rõ: " Xây dựng và thực hiện cơ chế mới phù hợp về
tỷ giá và lãi suất, với bớc đi thích hợp, không để xảy ra biến động xấuvề kinh tế, xã
hội ...Cụ thể là thực hiện lãi suất thực dơng linh hoạt, phản ánh đúng cung cầu vốn
trên thị trờng, từng bớc áp dụng lãi suất cơ bản thay dần cho việc ấn định trần lãi
suât." Tuy nhiên với cách giải thích mà NHNN đa ra trong luật đã nảy sinh khá
nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản. Vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện
nay là lựa chọn loại lãi suất cơ bản nào phù hợp với yêu cầu thực tiễn dặt ra. ở đây,
em xin đợc nêu ra một vài cách hiểu phổ biến nhất.
2.1 Lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vốn
Đây là biện pháp phổ biến đợc NHTƯ các nớc áp dụng. Lãi suất này do

NHTƯ chủ động công bố và đợc xem xét tính toán tơng đối thờng xuyên( hàng
tháng hoặc 2 tuần một lần ) nên thực sự đóng vai trò quyết định đối với các mức lãi
suất kinh doanh cũng nh cung, cầu vốn của các TCTD. Hơn nữa ở Việt nam, do
nghiệp vụ chiết khấu của NHNN cha phát triển, việc tái cấp vốn thực hiện tơng đối
trực tiếp vì vậy lấy lãi suất tái cấp vốn của NHNN để điều hành lãi suất sẽ thích hợp
hơn là lãi suất tái chiết khấu. NHNN chỉ cần xác định và công bố một mức lãi suất
chỉ đạo đối với các TCTD, do vậy thuận tiện cho việc điều hành quản lý chính sách
lãi suất của NHNN và tạo điều kiện chủ động trong kinh doanh của các TCTD.
Nhng trong điều 18 Luật NHNN Việt nam quy định:" NHNN xác định và
công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn". Vì vậy không thể lấy lãi suất tái cấp
vốn làm lãi suất cơ bản mà phải công bố một mức lãi suất khác với tên gọi là lãi
suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ, trực tiếp
để điều hành lợng tiền cung ứng của NHTƯ và khối lợng vốn khả dụng của hệ
thống ngân hàng đối với nền kinh tế và gián tiếp tác động vào lãi suất cho vay và
huy động vốn ( thông qua tác động đến cung cầu về vốn). Tuy nhiên, do cơ chế tái
cấp vốn vận hành cha thông suốt theo cơ chế thị trờng, các TCTD cha đợc tự do tiếp
cận nguồn vốn của NHNN ( theo cả hai chiều nhận vốn khi thiếu và đầu t trở lại khi
thừa), nên mức độ tác động của lãi suất tái cấp vốn đến mặt bằng lãi suất chung
còn rất nhiều hạn chế. Do vậy, nếu lấy lãi suất tái cấp vốn lam lãi suất cơ bản thì có
thể NHNN sẽ không đạt đợc mục tiêu tác động vào lãi suất của NHTM , kể cả khi
quy dịnh một biên độ so với lãi suất cho vay.


2.2. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa.
Theo phơng án này, NHNN công bố trần lãi suất cho vay nh hiện nay làm lãi
suất cơ bản, các TCTD căn cứ vào trần lãi suất của NHNNđể ấn định các mức lãi
suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể theo từng thời kỳ và từng vùng khác nhau.
Quy định nh phơng án này về nguyên tắc là phù hợp với Luật NHNN, vì ở đây
lựa chọn trần lãi suất cho vay là lãi suất cơ bản để làm cơ sở cho các TCTD ấn định
các mức lãi suất cho vay và huy động vốn. NHNN công bố một mức lãi suất trần

nhng có thể quy định một số mức biên độ so với trần lãi suất phù hợp với đặc thù
các loại hình TCTD , các vùng khác nhau và các loại cho vay ngắn, trung và dài
hạn nh hiện nay.
Ưu điểm:
- Tạo ra một bớc tiến mới trong chính sách lãi suất, tạo chủ động, linh hoạt cho
các TCTD trong kinh doanh và điều tiết quan hệ cung cầu về vốn, đồng thời tạo môi
trờng cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD trong khuôn khổ lãi suất. Các TCTD đợc tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay trong phạm vi trần tối đa. Tuỳ theo đặc
điểm, điều kiện của các loại hình TCTD về quy mô, chi phí khác nhau mà NHNN
có thể quy định nhiều mức trần lãi suất cho phù hợp với điều kiện riêng có của loại
hình tổ chức tín dụng và của các vùng khác nhau.Các TCTD căn cứ vào trần lãi suất
của NHNN để ấn dịnh các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp
cung cầu về vốn, các vùng khác nhau, mức chi phí vốn và lợi nhuận.
- Việc quy định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất cho
vay trong phạm vi cả nớc, nên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm
tra , giám sát về lãi suất của NHNN.
- Là cơ chế lãi suất linh hoạt theoquan hệ cung cầu vốn, phù hợp hơn với cơ chế
thị trờng và thông lệ quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn hơn giữa các TCTD,
giảm thiểu sự quản lý của Nhà nớc bằng mệnh lệnh hành chính
- Việc xác định, công bố, điều hành chính sách lãi suất của NHNN theo trần lãi
suất dễ dàng, linh hoạt, thuận tiện.
Nhợc điểm:
- Việc quy định trần lãi suât cho vay làm lãi suất cơ bản còn mang nặng tính
hành chính trong điều hành chính sách tiền tệ. Do tính chất điều hành trực tiếp


nhiều hơn gián tiếp có thể sẽ cản trở quá trình tự do hoá lãi suất cũng nh định hớng
chuyền dần từ công cụ điều hành từ trực tiếp sang gián tiếp của NHTƯ.
- Tiếp tục còn tình trạng nhiều trần lãi suất nh đã từng có trong những năm trớc
do tính chất kinh doanh, địa bàn hoạt động của các TCTD khác nhau.
- Trong điều kiện các TCTD đang ứ đọng vốn, không cho vay đợc do nền kinh tế

đang trong trạng thái thiểu phát nh hiện nay, việc quy định lãi suât cho vay tối đa là
lãi suât cơ bản không thích hợp vì có thể dẫn đến tình trạng cac TCTD cạnh tranh
nhau giảm lãi suất cho vay để thu hút khách hàng gây nguy hại cho sự an toàn của
hệ thống ngân hàng, tức là trần lãi suất không còn phát huy tác dụng.
2.3. Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa.
Các TCTD ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức khống chế lãi
suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất tiền vay cụ thể phù hợp với cung cầu
vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHNN chỉ công bố và kiểm soát lãi
suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi
suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp
của chính sách tiền tệ. Điều này sẽ không cho phép các TCTD huy động vốn với bất
kỳ lãi suất nào, bảo đảm an toàn hệ thống và lợi ích ngời gửi tiền; đồng thời giúp
cho các TCTD chủ động và linh hoạt trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay
phù hợp với biến động của thị trơng tiên tệ và đặc điểm hoạt động của từng loại
hình TCTD và giữa các vùng khác nhau.Quy định lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi
tối đa làm việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN mang tính chất quy định,
về nguyên tẵc chung không can thiệp trực tiếp vào lãi suất kinh doanh của TCTD.
Tuy nhiên, muốn điều hành lãi suát cho vay có hiệu quả thông qua việc
khống chế lãi suất tiền gửi tối đa thì phải sử dụng các công cụ gián tiếp của chính
sách tiền tệ nh nghiệp vụ thị trờng mở, cửa sổ chiết khấu và thị trờng liên ngân
hànghoạt động co hiệu quả nhằm thực hiện NHTƯ là ngời cho vay cuối cùng. Nhng các điều kiện trên ở nớc ta cha hội tụ đủ, Vì vậy, khả năng điều tiết và quản lý
lãi suất sẽ rất hạn chế vì chỉ còn mỗi một công cụ trực tiếp mà NHNN có thể thực
hiện là nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa để theo đó mà nâng hoặc hạ lãi suất cho
vay. Nếu thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì có thể dẫn đến tình
trạng:
+ Các TCTD sẽ nâng lãi suất cho vay lên cao để đạt đợc lợi nhuận cao vì bản
chất của cơ chế thị trờng là lợi nhuận tối đa. Khi đó, nếu NHNN dùng biện pháp


hạ lãi suất tiền gửi tối đa thì sẽ kém hiệu quả và có thể lãi suất cho vay co thể

không hạ xuống đợc.Bài học về lãi suất cho vay thoả thuận trớc đây (1993-1995)
đã minh chứng điều đó, lãi suất cho vay thoả thuận lên đến 0,35%/ tháng trong khi
lãi suất cụ thể quy định là 1,8%-2,1%/ tháng, các TCTD có lãi lớn trong khi các
doanh nghiệp gặp khó khăn nên Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ và ngành Ngân
hàng và chính sách trần lãi suất ra đời từ đó để khống chế lãi suất cho vay quá cao.
+ Lãi suất cho vay cao nhng các doanh nghiệp và hộ sản xuất vấn phải vay vì
thiếu vốn sản xuất và vay để bù đắp các khoản nợ cũ đến hạn do cung về vốn ở n ớc
ta luôn nhỏ hơn cầu, lợi nhuận thấp hơn chi phí trả lãi ngân hàng dẫn đến nguy cơ
cả doanh nghiệp và Ngân hàng đều khó khăn và dẫn cả 2 đến chỗ mất khả năng
thanh toán.
+ Nếu thực hiện lãi suất này chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất
theo cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau nh: lãi suất khu vực nông thôn
sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các TCTD cổ phần sẽ cao hơn các
TCTD có quy mô và sức cạnh tranh lớn hơn nh NHTM quốc doanh, Ngân hàng liên
doanh và chi nhánh ngân hàng nớc ngoài, Và nh vậy sé giảm tính lành mạnh của
cạnh tranh và trong sự cạnh tranh này các TCTD lớn sẽ có u thế hơn..
Vì vậy, khi NHNN xây dựng và củng cố thị trờng tiền tệ chuyển từ điều hành
chính sách tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp sang kết hợp điều hành bằng công cụ
trực tiếp với công cụ gián tiếp cần thực hiện một cơ chế lãi suất cơ bản linh hoạt
hon là công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa.
Tóm lại, về nguyên tắc, sử dụng theo một trong các phơng thức nêu trên đều
đúng cả. Nhng do điều kiện kinh tê, tiền tệ ở Việt nam hiện nay việc lựa chọn một
phơng thức thích hợp nhất còn phải cân nhắc nhiều.
3. Yêu cầu đối với lãi suất cơ bản.
Kinh tế Việt nam vừa qua giai đoạn từ một nền kinh tê kế hoạch hoá đậm nét
tính quan liêu bao cấp để hớng tới phát triển theo hớng kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc. Nền thị trờng tiền tệ cha ổn
định vững vàng, hệ thống các NHTM còn nhỏ bé, cha đủ sức cạnh tranh trong lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ, trong đó thị phần chủ yếu là các NHTM quốc doanh. Với
tình hình nh vậy, việc điều hành lãi suất cơ bản phải chú ý đến các yêu cầu sau:

* Lãi suất cơ bản trớc hết phải đợc xác định đúng chuẩn mực để đúng với vai
trò lãi suất chỉ đạo, các căn cứ để xác định lãi suất cơ bản phải dựa trên các chỉ tiêu


kinh tế cũng phải đợc tính toán chính xác nh: các chỉ tiêu dự kiến về chỉ số lạm
phát, chỉ tiêu về tăng trởng kinh tế, mối quan hệ cung cầu về vốn và yêu cầu của
việc điều hành chính tiền tệ quốc gia, mối quan hệ giữa tỷ giá ngoại tệ với đồng
Việt nam.
* Vai trò quản lý Nhà nớc của NHNN thể hiện trong việc điều hành lãi suất cơ
bản phải đợc đề cao. NHNN có thể giám sát kiểm sát các TCTD trong việc quy
định và thực hiện lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay của mình phù hợp với lãi
suất chỉ đạo, phù hợp với lãi suất trên cùng địa bàn, bảo đảm đợc kinh doanh, ngăn
ngừa đợc tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD.
* Phải thể hiện đợc chính sách của Nhà nớc dùng lãi suất để tác động tới kinh
tế nói chung và tình hình tiền tệ nói riêng, nhng không phải là chính sách nặng về
thắt chặt tiền tệ nh thời gian vừa qua.
*Phát huy cao độ tính tự chủ trong kinh doanh của các TCTD, tạo thuận lợi
cho các tổ chức tín dụng linh hoạt cho việc tự do định lãi suất, làm quen dần với
tính cạnh tranh lành mạnh trong thị trờng giữa các TCTD nhng vẫn trong khuôn
khổ của lãi suất cơ bản mà NHNN chỉ đạo quản lý.
* Phản ánh đợc cung cầu tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế mà các Ngân
hàng (thờng là các Ngân hàng lớn), trong đó phải phân biệt đợc đâu là nhu cầu
thực, đâu là nhu cầu đầu cơ để có khả năng chống đầu cơ ở thị trờng tài chính đang
là nguy cơ gây ra khủng hoảng tiền tệ kéo theo khủng hoảng kinh tế.
* Phải tơng thích với lãi suất của các nớc trong khu vực và rộng ra trên thế giới
để vừa thu hút đợc vốn tín dụng từ bên ngoài, vừa không rơi vào những sai lầm
chính sách nh các nớc bị khủng hoảng tiền tệ, vào nanh vuốt của đầu cơ.
4. Ưu nhợc điểm của việc quản lý của NHNN bằng lãi suất cơ bản.
Theo báo cáo của chính phủ do Thủ tớng Chính phủ Phan Văn Khải trình bày tại
kỳ họp thứ 6 quốc hội khoá X tháng 11/1999 thì" Ngân hàng cần sớm thay thế việc

định lãi suất trần bằngviệc áp dụng lãi suất cơ bản theo Luật Ngân hàng đi đôi với
việc sử dụng các công cụ điều tiết lu thông tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trờng...Giải pháp cơ bản và lâu dài là đổi mới cơ chế lãi suất, đồng thời đòi hỏi các
doanh nghiệp phải làm ăn có lãi, trả đợc nợ".
Cụ thể hoá quy định này, Quyết định 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 2/8/2000 nêu
rõ: Đối với đồng Việt Nam, lãi suất cơ bản do thống đốc Ngân hàng nhà n ớc quy


định hàng tháng, trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thơng mại đối với
khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD đợc lựa chọn theo quyết định của Thống
đốc NHNN trong từng thời kỳ. Các TCTD ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi
suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vợt quá lãi
suất cơ bản cộng với biên độ nhất định. Đối với đồng Đôla, Quyết định
243/2000/QĐ-NHNN1 quy định: lãi suất cho vay của các TCTD đợc xác định căn
cứ vào lãi suất Đôla Mỹ trên thị trờng tiền tệ Ngân hàng Singapore (SIBOR) và
cũng đợc phép dao động với một biên độ nhất định. Cùng ngày 2/8/2000, Thống
đốc NHNN đã công bố chính thức lãi suất cơ bản và biên độ hiện hành nh sau:
-Đối với đồng Việt Nam, lãi suất cơ bản là 0,75% tháng, biên độ giao động là
0,3%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với lãi suất cho vay trung,
dài hạn. Lãi suất cho vay và lãi suất huy động của TCTD gắn với lãi suất cơ bản,
theo đó lãi suất cho vay của TCTD cao nhất bằng lãi suất cơ bản cộng(+) tỷ lệ phần
trăm.
Lãi suất cơ bản và biên độ đợc công bố định kỳ hàng tháng, trờng hợp cần thiết
NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
-Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ:
+ Cho vay bằng đôla Mỹ: bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của NHTM đối
với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt phù hợp với thị trờng quốc tế
nhng vẫn có sự kiểm soát của NHNN, cụ thể lãi suất cho vay ngắn hạn( từ 1 năm
trở xuống) không vợt quá mữc SIBOR ( lãi suất thị tròng tiền tệ liên ngân hàng
Singapore ) kỳ hạn 3 tháng 1,0% /năm, lãi suất cho vay trung dài hạn không vợt
quá mức SIBOR kỳ hạn 6 tháng+ 0,5% /năm.

+ Cho vay bằng các ngoại tệ khác: Do chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt động tiền gửi
và tín dụng trên thị trờng, nên cho phép các NHTM tự xem xét quyết định lãi suất
tiền gửi, cho vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất quốc tế và cung cầu
vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ đó.
Với quy định về lãi suất cơ bản và biên độ nh trên là phù hợp với mặt bằng lãi
suất đã và đang đợc hình thành trên thị trờng nông thôn và thành thị hiện nay,
không tác động làm thay đổi lãi suất thị trờng và không tạo tâm lý về việc NHNN
tăng trần lãi suất. Nh vậy, so với cơ chế trần lãi suất tín dụng, cơ chế lãi suất cơ bản
có một số u điềm sau:
- Thứ nhất, nền tảng thị trờng đã đợc đa vào cơ chế xác định lãi suất cơ bản


- Thứ hai, môi trờng cho việc ấn định lãi suất kinh doanh của các TCTD đợc mở
rộng. Nếu nh trớc đây, các TCTD chỉ đợc phép ấn định lãi suất kinh doanh thấp
hơn trần lãi suất tín dụng, thì với cơ chế lãi suất mới này, các TCTD đợc phép ấn
định lãi suất kinh doanh cả ở trên và dới lãi suất cơ bản, trong đó giới hạn trên là lãi
suất cơ bản cộng với biên độ giao động.
- Thứ ba, lãi suất kinh doanh của các TCTD có thể là lãi suất cơ bản hoặc là lãi
suất thả nổi. Việc đa vào cơ chế lãi suất thả nổi là hoàn toàn hợp lý, nó không chỉ
phù hợp với cơ chế thị trờng, mà còn phù hợp với cơ chế lãi suất cơ bản mà NHNN
sẽ tiến hành điều chỉnh hàng tháng trên cơ sở tham khảo lãi suất thị trờng.
- Thứ t, phơng án này một mặt không buông lỏng quản lý để lãi suât biến động
tự do nhng một mặt cũng không gây áp đặt lãi suất cứng nhắc, bỏ qua những tín
hiệu thị trờng. Sử dụng phơng án này là sự kết hợp hài hoà giữa hai thái cực, tạo ra
một hành lang phù hợp để xây dựng một môi trờng cạnh tranh lành mạnh. Một số
ngân hàng không thể sử dụng u thế về quy mô, tiềm lực tài chính, địa bàn hoạt
động... của mình để giành khách hàng quá mức cho phép. Đồng thời quy định này
cũng không làm triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các TCTD . Muốn nâng cao
chất lợng phục vụ, các TCTD vẫn phải không ngừng tìm cách tối thiểu chi phí hoạt
động, hạ mức lãi suất cho vay trong phạm vi quy địnhđể ngày càng thu hút đợc

nhiều khách hàng về phía mình.
- Thứ năm, đã có cơ chế chính thức liên hệ lãi suất đồng đôla trong nớc và lãi
suất đồng đôla trên các thị trờng quốc tế thông qua lãi suất đồng đôla trên thị tròng
tiền tệ Singapore.
Chủ trơng điều hành lãi suất của NHNN theo Luật NHNN về cơ bản là đúng,
phù hợp với yêu cầu và các điều kiện hiện nay của các đối tợng hởng lãi suất là ngời cho vay, ngời vay và các ngân hàng thơng mại, các TCTD.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt u việt trên, việc quản lý của NHNN bằng lãi suất
cơ bản đã bộc lộ một số nhợc điểm không phù hợp với sự phát triển kinh tế, cha tơng xứng với những đòi hỏi bức xúc trong việc phát triển mạnh mẽ thị trờng tiền tệ
+ Việc quy định lãi suất cơ bản nh vậy sẽ tạo ra sự không thống nhất về lãi suất
cho vay, lãi suất huy động vốn giữa các TCTD, tạo nên sự cạnh tranh không bình
thờng giữa các tổ chức này trên cùng địa bàn. Mặc dù theo quyết đinh
241/2000/QĐ-NHNN1 thì lãi suất cho vay tối đa là 1,05% /tháng( ngắn hạn) và
1,25%/ tháng ( trung vàdài hạn) nhng thực tế cho vay của các Quỹ tín dụng nhân


dân và các NHTMCP nông thôn vãn ở mức 1,5% / tháng, trong khi đó thu nhập của
ngời nông dân thấp hơn dân c thành thị, yêu cầu phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn đòi hỏi phải u tiên vốn tín dụng cho khu vực này. Giữa các NHTM với
nhau, lãi suất cho vay và lãi suất huy động cũng rất khác nhau, ngay trong từng địa
bàn, Nói chung lãi suất huy động của các NHTMCP cao hơn các NHTMQD từ 1%1,5%/tháng trên cùng một địa bàn. Một số NHTMCP dùng lãi suất làm công cụđể
cạnh tranh khách hàng với các NHTM khác do họ có lợi thế về tính linh hoạt trong
điều hành lãi suất. Nhiều NHTM còn dùng lãi suất cho vay để thu hút khách hàngm
nhất là các khách hàng lớn nh các Tổng công ty 90-91, trong khi đó, các NHTMCP
vốn ít phải chấp nhận lãi suất cao hơn nên rất khó khăn trong kinh doanh tiền tệ
+ Lãi suất hiện nay đã vợt quá tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ lạm phát năm 1998=9,2%,
năm 1999 là 0,1% và năm 2000là -0,1%. Trong khi đó, tỷlệ lãi suất huy động tiền
gửi và lãi suất cho vay của các NHTM và các TCTD ngắn hạn và dài hạn đều cao
hơn mức đó. Sự chênh lệch tỷ lệ lạm phát và lãi suất huy động, lãi suất cho vay nh
trên đã và đang tạo ra những mâu thuẫn trong hoạt động tín dụng của các NHTM
và các TCTD. Tỷ lệ lạm phát thấp nh ba năm vừa qua, bên cạnh mặt tích cực là ổn

định giá trị đồng nội tệ cũng có mặt đáng quan tâm là thị trờng trầm lắng, sức mua
thấp, hàng hoá ứ đọng, dấu hiệu của những cơn sốt lạnh. Trong khi đó các doanh
nghiệp lại phải vay vốn ngân hàng với lãi suất cao nên buộc họ phải tính toán và
giảm mức vayvốn của ngân hàng để giảm chi phí do lãi suất cho vay vốn. Không ít
doanh nghiệp thay vì việc vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh lại gửi tiền vào
ngân hàng để đợc hởng lãi suất đỡ rủi ro hơn so với mở rộng sản xuất kinh doanh
trong điều kiệnthị trờng trầm lắng, hàng hoá tồn kho còn nhiều. Hoạt động của các
doanh nghiệp cũng có xu hớng chững lại rõ nét và xu hớng này cũng làm cho tình
trạng các ngân hàng bị xấu đi.
+ Lãi suất cơ bản vẫn còn mang tính chất áp đặt hành chính, mặc dù đã tạo điều
kiện cho các ngân hàng phát huy quyền tự chủ. Bởi vì thực tế thì cung cách điều
hành bằng lãi suất cơ bản nh hiện nay về nguyên tắc không káac là bao so với cơ
ché quy định trần lãi suất cho vay mà chúng ta vẫn đang ạp dụng trong năm 1999.
Mà nh vậy, nó cha thể giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn tại của cơ chế lãi
suất trần. Có chăng chỉ là " bình cũ rợu mới " mà thôi.
+ Phơng thức này có thể duy trì thói quen của các TCTD luônluôn chỉ muốn áp
dụng lãi suất cho vay sát trần cao nhất để có lãi cao hoặc tập trung vốn đầu t vào


vùng kinh tế phát triển chấp nhận mức lãi suất cao, mà lơi là trong việc đầu t vốn u
tiên đến các vùng kinh tế khó khăn, kém phát triển mà yêu cầu phải cho vay với lãi
suât thấp.
Nh vậy, chính sách lãi suất cơ bản mặc dù mới đợc vận dụng nhng đã ít nhiều thể
hiện những khiếm khuyết, sự không phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt nam
và đã bắt đầu có những phản ứng tiêu cực từ phía các TCTD và khách hàng. Đó là
những vấn đề đặt ra cho NHNN có kế hoạch chỉ đạo khắc phục và bằng các chính
sách đồng bộ hơn, tin rằng có thể giải quyết đợc .
Nhng trớc khi đi tìm một chính sáchlãi suất mới chúng ta hãy cùng nhau đánh
giá thực trạng điều hành lãi suất ở Việt nam thời gian qua.



Chong II: Thực trạng của chính sách lãi suất ở Việt nam và
tác động của nó đến sự tăng trởng kinh tế
1.Quá trình nới lỏng việc điều tiết lãi suất ở Việt Nam
Sau 10 năm đổi mới cả tổ chức và cơ chế chính sách hoạt động ngân hàng sang
cơ chế thị trờng cĩng là 10 năm đổi mới việc điều hành chính sách lãi suất. Chính
sách lãi suất của Nhà nớc ta trong 10 năm qua phải nói là đã đổi mới rất mạnh mẽ
nhng cũng rất thận trọng, đi dần từng bớc phù hợp với từng giai đoạn trên con đờng
tiến đến một chính sách lãi suất thị trờng theo hớng tự do hoá lãi suất. Em xin đánh
giá lại các bớc đổi mới chính sách lãi suất trong giai đoạn vừa qua, đặc biệt là thời
kỳ từ 1996 đến nay để chúng ta có thể hình dung một cách rõ nét hơn các bớc đi về
lãi suất, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc đề xuất một định hớng lãi suất kịp
thời.
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trớc năm 1988, lãi suất của Việt Nam không theo
quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do NHNN áp đặt là một trong những nguyên
nhân gây và kéo dài lạm phát phi mã. NHNN lúc này qui định cụ thể các loại lãi
suất tiền gửi và tiền vay để các NHTM thực hiện. Thực tế chính sách lãi suất trong
giai đoạn này lâm vào một tình trạng chung là: ngời gửi tiền lỗ, ngân hàng lỗ và
doanh nghiệp lỗ. Những khoản lỗ này đợc Nhà nớc bù đắp cho ngành Ngân hàng
và các doanh nghiệp quốc doanh bằng 2 cách: Phát hành tiền và vay nợ nớc ngoài
làm cho tình trạng càng khó khăn hơn. Mặc dù từ tháng 10/1986 đén 7/1987,
NHNN đã 3 lần điều chỉnh lãi suất nhng chính sách lãi suất trong thời kỳ này còn
bộc lộ nhiều yếu điểm , cha thực sự là công cụ tốt của chính sách tiền tệ, điều này
thể hiện rõ nết qua việc Nhà nớc còn phải bao cấp về tín dụng.
Trớc tình thế này, đến tháng 3/1989, với quyết định 39/HĐBT. qui luật lãi suất
thực mới đợc công nhận, nhng t tởng" Lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trờng " ( lãi suất của nớc hoa Thanh Hơng đã bị ngộ nhận là lãi suất thị trờng) đã dẫn
đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12% tháng dù tỷ lệ lạm phát nửa cuối năm 1988
chỉ còn 7%/tháng. Dù tháng 7/1989, NHNN đã hạ xuống 7% nhng lãi suất cực kỳ
cao vẫn còn ảnh hởng đến tâm lý ngày nay: ngời đã gửi tiền luôn đòi hỏi lãi suất
cao.



Năm 1994, NHNN đã công bố chủ trơng hạ lãi suất trong các cuộc họp Giám
đốc đầu năm nhng chủ trơng này vẫn không thực hiện đợc với lý do tỉ lệ lạm phát
bị đẩy lên cao gấp đôi năm 1993 mặc dù lạm phát vẫn gần với một con số. Trong
giai đoạn này, NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay), vừa áp dụng lãi suất thoả
thuận. Cụ thể là trần cho vay doanh nghiệp Nhà nớc là 1,8%/tháng, kinh tế ngoài
quốc doanh là 2,1%/tháng. Trờng hợp Ngân hàng không huy động đủ vốn để cho
vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì đợc áp
dụng lãi suất thoả thuận: lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ
hạn là 0,2%/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng. Trong 3 năm chậm
hạ lãi suất, tiền gửi của các NHTM chỉ sử dụng hết 1/2, cụ thể các NHTMCP từ chỗ
sử dụng tiền gửi để cho vay tới 87,02% năm 1993, tụt xuống chỉ còn 74,75%
năm94, 71,75% năm 95 và 58,98% vào giữa năm 96. Trong lãi suất thoả thuận,
mức chênh lệch giữa sàn( tiền gửi) và trần ( cho vay) rất lớn, khoảng từ 0,7-1%/
tháng làm cho các NHTM có mức lợi nhuận quá cao, trong khi doanh nghiệp và hộ
nông dân gặp nhiều khó khăn Các doanh nghiệp vay vốn đã è cổ ra gánh một lãi
suất cao để trả lẫi cho ngời nớc ngoài dem ngoại tệ vào đồi lấy VND để gửi tiết
kiệm với lãi suất cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới.
Từ thực tế này, Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng 8/95 cùng với nghị
quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu Ngân
hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và
cho vay bình quân là 0,35%/tháng. Đây là duyên cớ để ra đời cơ chế trần lãi suất
hoàn toànvà bãi bỏ lãi suất cho vay thoả thuận từ 01/01/1996. Theo quyết định số
381/QĐ-NH1 về việc điều chỉnh lãi suất tiền gửi, cho vay đối với các tổ chức kinh
tế- xã hội dân c, gồm có:
- Lãi suất vay ngắn hạn tối đa: 1,75%/ tháng ( 21%/năm)
- Lãi suất trung và dài hạn tối đa: 1,70% /tháng( 20,6%/năm)
- Tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất huy động bình quân và lãi suất cho vay bình quân
tối đa là 0,35%. Tổng giám đốc TCTD căn cứ vào trần lãi suất cho vay tối đa và tỷ

lệ chênh lệch lãi suất bình quân trên để qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho
vay nhằm phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng loại hình doanh
nghiệp, điều kiện kinh doanh của từng ngân hàng,
Quyết đình này đã đạt đợc một bớc tiến về lãi suất, giao quyền chủ động cho các
NHTM trong việc điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trờng, quan hệ cung-cầu vốn


tín dụng, phù hợp với từng đặc điểm riêng của từng ngân hàng, từng khu vực kinh
tế. Tuy vậy,nguồn vốn của các NHTM tăng chủ yếu là gia tăng nguồn vốn ngắn
hạnvà đã dẫn tới hiện tợng một số NHTMQD thừa vốn ngắn hạn trong khi đó nhu
cầu vốn trung và dài hạn cuả nền kinh tế còn thiếu nghiêm trọng. Đặc biệt việc
giảm lãi suất cho vay ngắn hạn xuống 1,25%/ thángvà khống chế chênh lệch tối đa
là 0,35%/ tháng thì Ngân hàng nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn vì họ không có
đợc những lợi thế kinh doanh nh các ngân hàng khác
Năm 1996, NHNN tiếp tục ba lần điều chỉnh lãi suất và đến tháng 4/1998
NHNNđã diều chỉnh thêm hai lần lãi suất nữa:
Quyết định điều
chỉnh

Thời điểm điều
chỉnh

381/QĐ - NH1
191/QĐ - NH1
255/QĐ - NH1
266/QĐ - NH1
197/QĐ - NH1
39/QĐ - NH1

28 - 12 - 1995

15 - 07 - 1996
27 - 08 - 1996
27 - 09 - 1996
28 - 06 - 1997
17 - 01 - 1998

Trần lãi suất cho
vay ngắn hạn
(%/tháng)
1,75
1,60
1,50
1,25
1,00
1,20

Trần lãi suất cho
vay trung và dài
hạn (%/tháng)
1,70
1,65
1,55
1,35
1,25
1,25

Nh vậy, lãi suất cho vay trong năm 1996 đã đợc điều chỉnh giảm mạnh giúp cho
các doanh nghiệp giảm đợc chi phí và giá thành trong việc vay vốn để sản xuất kinh
doanh đồng thời mạnh dạn hơn trong việc thực hiện các dự án cho vay, đầu t phát
triển và đổi mới công nghệ.

Thực ra, trớc khi NHNN chính thức công bố lãi suất trần, các NHTM đã tiến
hành điều chỉnh hạ thấp lãi suất cho vay để tăng cờng thu hút khách hàng. Hiện tợng này diễn ra âm thầm, tự phát nhng không kém phần quyết liệt và hầu hết tập
trung ở các thành phố đô thị lớn nơi có nhiều hệ thống ngân hàng cạnh tranh, Vì
vây, đã dẫn đến một nghịch lý: cờng độ cạnh tranh cao thờng hội tụ ở những nơi
phồn hoa đô hội, ngời đi vay đợc hởng rất nhiều từ sự cạnh tranh giảm giá lãi suất,
Trong khi đó, khu vực nông thôn đang cần đến sự nâng đỡ lại phải chấp nhận mức
lãi suất cao hơn( ?) Đặc trng lớn nhất của thị trờng tín dụng Việt Nam lúc này là
tính không hoàn hảo của nó: Phần lớn những địa bàn độc quyền lãi suất cho vay


luôn đội "trần" , đan xen với những điaj bàn cạnh ttranh lãi suất cho vay có hiện tợng đạp " sàn".
Năm 1997, với mức lạm phát thấp nhất từ trớc đến nay, NHNN đẫ không bỏ qua
cơ hội này liên tục điều chỉnh giảm lãi suất xuống đến mức thấp nhất vào
tháng7/1997( trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1%, trung và dài hạn 1,1% đồng thời
cũng hạ các mức trần lãi suất cho vay u đãi khác) để kích thích kinh tế phát triển,
nhng các ngân hàng không tán thành vì họ cho rằng lúc này các nớc phải nâng lãi
suất tiền gửi để chống làn sóng rút tiền gửi ra mua USD. Để phòng ngừa cơn bão
tiền tê có thể lớt qua, các ngân hàng trong nớc cũng phải giữ lãi suất gần nh cũ,đến
mức lãi suất tiền gỉ có kỳ hạn chỉ chênh với lãi suất cho vay từ 0,05% đến
0,1%/tháng gây lỗ về tín dụng.
Vào năm1998, khu vực tiền tệ ngân hàng phải đối mặt với những hệ quả nghiêm
trọng của khủng hoảng Châu á, áp lực giảm giá VND xuất hiện không chỉ bắt
nguồn từ các hoạt động hữu hình, cụ thể là tình trạng xấu đi nhanh chóng của hoạt
động đối ngoại ( năm1997, giá trị kim ngạch xuất khầu chỉ tăng 22% so với mức
tăng 34,4% năm1995) mà hiệu ứng tâm lý lan truyền về sự phá giá của đồng VND
tiếp theo làn sóng phá gía mạnh của hầu hết các đồng tiền Châu ấ đã gây ra những
bất ổn trên thị trờng ngoại hối. Tỷ giá liên ngan hàng luôn ở mức trần cho phép và
tỷ giá thị trờng tự do còn biến động cao hơn mức trần. Cộng thêm vào đó, tin tức
các vụ Epco Minh phụng làm cho một số ngời đổ xô vào rút tiền gửi ở các ngân
hàng mà họ nghi là có cho hai công ty này vay. Các ngân hàng này bị một phen hú

vía, phải vay cào,vay cấu bên ngoài để đối phó kịp thời và khi đã giải thích làm dịu
cơn sốt rút tiền thì đã phải tăng chi phí đến mức tỷ suất lợi nhuận giảm hẳn. NHNN
Việt nam không có loại tín dụng điều chỉnh nh ở Mỹ để ứng phó cho vay tiếp quỹ
kịp thời vào những lúc khó khăn nh vậy, lại thờ ơ với tình trạng phải giảm mạnh lợi
nhuận nên các NHTM đã phản ứng khá mạnh với những câu đại loại nh Ngân hàng
mẹ mà không giúp đỡ Ngân hàng con.
Trong bối cảnh nh vậy,việc còn duy trì kiểm soát lãi suất là rất thiết thực, vì
NHNN có thể ngay lập tức tăng giá trị tơng đối của việc nắm giữ đồng nội tệ bằng
cách tăng lãi suất các tài sản chính của hệ thống ngân hàng. Thực tế, NHNN đã
phải sử dụng chính những công cụ này để hạn chế các dòng dịch chuyển nguồn tiền
tệ, cụ thể là :


- Tăng trần lãi suất tín dụng từ 1,1%/tháng lên 1,2%/tháng đối với tín dụng ngắn
hạn và tử 1,2% lên 1,25%/ tháng đối với tín dụng trung và dài hạn.
Nâng lãi suất tái cấp vốn của NHNN cho các TCTD từ 0,9% /tháng lên
1,1%/tháng theo quyết định số 40/1998/QĐ ngày 17/1/1998.
- Giảm lãi suất ngoại tệ theo quyết định 309/1998/QĐ-NHNN1 ngày 10/9/1998.
Theo quyết định này, trần lãi suất tiền gửi ngoại tẹ áp dụng đối với các loại hình
không kỳ hạn, kỳ hạn 6 tháng và trên 6 tháng giảm xuống các mức tơng ứng là
0,5%/năm, 3%/năm và 3,5%/năm .
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện việc quản lý và điều hành chính sách lãi
suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các TCTD. Trần
lãi suất trong năm 1999 đợc NHNN điều chỉnh liên tục phù hợp với chỉ số lạm
phát, quan hệ cung cầu vốn tín dụng tại từng thời điểm và góp phần thực hiện giải
pháp kích cầu đầu t của Chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng, Có
thể nói, đâylà năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín dụng nhiều nhất từ trớc đến nay,
lãi suất năm 1999 luôn có xu hớng giảm sau các lần điều chỉnh, cụ thể nh sau:
Quyết định điều
chỉnh


Thời điểm điều
chỉnh

01/1999/CT - NH1
184/1999/QĐ
NH1
266/1999/QĐ
NH1
05/1999/CT - NH1
383/1999/QĐ
NH1

17/1/1999
29/5/1999

Trần lãi suất cho
vay ngắn hạn
(%/tháng)
1,2
1,15

30/7/1999

1,05

09/1999
10/1999

0,95

0,85

Trần lãi suất cho
vay trung và dài
hạn (%/tháng)
1,25
1,15

0,95
0,85

Lạm phát âm xuất hiện và kéo dài liên tục trong nhiều tháng của năm1999, 2000,
do đó đã phải giảm liên tục trần lãi suất tín dụng. Có đợt giảm lãi suất, NHNN còn
qui định buộc các NHTM giảm ngay cả lãi suất d nợ cho vay; trong khi đó, vốn huy
động thời kỳ trớc vẫn giữ nguyên cho đến lúc đáo hạn. Tình hình này làm các
NHTM rơi vào tình trạng rủi ro lãi suất. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
huy động vốn rất nhỏ, có khi không chênh lệch, thậm chí lãi suất cho thời kỳ hiện


tại thấp hơn lãi suất huy động vốn của thời kỳ trớc đó đang còn số d có. Trờng hợp
khi NHNN qui định không giảm lãi suất đối với các khoản cho vay trớc đây, ngời
vay lập tức đến vay ở một ngân hàng khác có lãi suất thấp hơn để trả nợ cũ với lãi
suất cao . Kết cục là rủi ro lãi suát luôn đắt gánh nặng lên các NHTM. Thêm vào
đó, do mức độ điều chỉnh lãi suất từng lần của NHNN tơng đối lớn và tần suất điều
tiết của NHNN lớn nên thị trờng , d nợ tín dụng không có động cơ tăng( mặc dù lãi
suất đã giảm mạnh) vì khách hàngvay hy vọng lãi suất sẽ tiếp tục giảm, và chính
các TCTD cũng tạm ngừng huy động vốn có kỳ hạn ( 6 tháng và 9 tháng)với lý do
tơng tự làm tình trạng ứ đọng vốn vẫn còn rất gay gắt.
Trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ, đặc biệt là nền kinh
tế thiếu các dự án khả thi, giảm phát kéo dài, thì việc hạ lãi suất là hoàn toàn đúng

đắn. Vấn đề lại nằm ở chỗ các TCTD không chủ động giảm lãi suất nh một biện
pháp để cứu cánh cho chính họ ( trừ một vài ngân hàng) mà lại coi đó chỉ đơn
thuần là biện pháp hỗ trợ nền kinh tế. Chính vì thế nên mặc dù trần lãi suất tín dụng
đã đợc điều chỉnh giảm liên tục vào năm 1999, nhng các TCTD hầu nh không có
phản ứng lãi suất đầu vào mặc dù ứ đọng vốn đã phổ biến. Phải đến lần điều chỉnh
thứ ba của NHNN, các TCTD mới thực sự hạ lãi suất Điều này đẫ làm xấu thêm
tình trạng tài chính của các TCTD. Không dừng lại ở đó, nguồn vốn huy động đã
tăng mạnh nh là kết quả của việc duy trì mức lãi suất tiền gửi trong khi lạm phát
liên tục âm, làm trầm trọng hơn tình trạng ứ đọng vốn của hệ thống ngân hàng và
chủ trơng kích cầu cũng bị hạn chế.
Nh vậy, cơ chê trần lãi suất tín dụng dờng nh không thích hợp với môi trờng kinh
tế vĩ mô thay đổi thờng xuyên nh ở Việt nam. Nền kinh tê vĩ mô mặc dù đã có
những cải thiện đáng ghi nhận nhng vẫn cha thực sự đi vào ổn định. Giảm phát liên
tục trong năm 1999 và năm 2000 buộc NHNN đã phải 5 lần điều chỉnh hạ trần lãi
suất cho vay để " chạy theo" lãi suất cho vay của các TCTD. Điều đó cho thấy công
cụ điều hành lãi suất của NHNN bằng việc qui định trần lãi suất cho vay đối với
các TCTD đã trở nên kém hiệu lực, không còn phát huy vai trò là cơ sở điều chỉnh
lãi suất trên thị trờng.
Vì thê, ngày 2/8/2000, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định về việc
thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/8/2000, chính
thức đa một loại lãi suất mới, lãi suất cơ bản vào vận hành. Theo đó lãi suất cơ bản
do Thống đốc NHNN qui định hàng tháng, trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho


vay thơng mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD đợc lựa chọn theo
quyết định của Thống đốc NHNN trong từng thời kỳ. Các TCTD ấn định lãi suất
cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố nhng không vợt quá lãi suất
cơ bản cộng với biên độ nhất đinh. Cụ thể là với đồng VND, lãi suất cơ bản là
0,75%/tháng, biên độ giao động là 0,3%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và
0,5%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn.

Nh chúng ta đã biết, lãi suất cơ bản là một bớc tiến trong tiên trình tự do hoá lãi
suất ở Việt nam vì nó cho phép các TCTD tự do và linh hoạt hơn trong việc ấn định
lãi suất kinh doanh, đồng thời giảm bới tính áp đặt, cỡng chế của NHNN đối với
một công cụ rất nhạy cảm là lãi suất, làm cho lãi suất bám sát tín hiệu thị trờng
hơn, bám sát quan hệ cung cầu về vốn.
Tuy nhiên, với những hạn chế của lãi suất cơ bản mà chúng ta đẫ đề cập đến ở
Chơng I có thể thấy bản chất của việc quản lý bằng lãi suất cơ bản không khác so
với chính sách trần lãi suất. Nó không đáp ứng đợc yêu cầu của thời diểm hiện tại
là tạo thành chiéc" van" kìm hãm sự cạnh tranh thái quá giữa các TCTD khi các
TCTD đều muốn hạ thấp lãi suất cho vay để thu hút khách hàng nhằm đẩy mạnh d
nợ cho vay của đon vị này, có khả năng dẫn đến sự suy yếu của hệ thống ngân
hàng. Hơn nữâ, thực tế vận hành lãi suất cơ bản cũng cho thấy cơ chế này không
phải là tối u, thể hiện ở quan hệ cung cầu và lãi suât ngày càng phức tạp. Trong
khoảng 2/3 thời gian năm2000, vốn VND ứ đọng thể hiện số d tài khoản VND của
cácNHTM tại NHNN lên tới hàng chục tỷ đồng. Để giải toả nguồn vốn ứ đọng này,
các NHTM đã tận dụng triệt để phơng châm" thà cho vay, đầu t với lãi suất thấp tới
0,4%/tháng còn hơn là để vốn chết tại NHNN hởng lãi suất 0,1%/ tháng". Khai
thác triệt để nguồn vốn VND d thừa mà các ngân hàng muốn giải phóng, Kho bạc
Nhà nớc luôn đặt mức ;ãi suất trúng thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nớc trung bình
0,34%-0,35%/tháng trong thời gian dài mà các NHTM vẫn phải chấp nhận, thậm
chí còn xuống tới 0,408%/tháng. Mức lãi suất cho vay sản xuất, thơng mại,dịch vụ,
đầu t trung- dài hạn trung bình 0,7-0,73%/tháng nhng tốc độ tăng trởng tín dụng
cha có ý nghĩa, dấu hiệu ứ đọng vốn tại các NHTM vẫn lớn. Trong 4 tháng đầu
năm, vốn huy động tăng 12.3% trong khi d nợ tín dụng tăng 5,8%. Trong bối cảnh
đẩy mạnh cho vay khách hàng trở nên khó khăn, các ngân hàng đã hạ lãi suất huy
động và giữ ổn định trong khoảng 2/3 thời gian đầu năm2000. Mức lãi suất huy
động VND cho kỳ hạn 12 tháng trong thời gian này là 0,5% đối với các NHTMQD,
các NHTMCP huy động với mức 0,55-0,57%/tháng. Tuy nhiên, cuộc chiến hạ lãi



suất cho vay khách hàng đã giảm tốc độ lại và chuyển sang khu mới trong những
tháng cuối năm 2000. Trong thời gian này, hầu nh mặt bằng lãi suất huy động VND
đã tăng cao trên cả hai khu vực: NHTMQD và NHTMCP phản ánh sự thiếu hụt vốn
VND đã xuất hiện. Lãi suất cho vay theo đó cũng đã nhích lên so với đầu năm
2000, mức lãi suất cho vay trung bình đã đựoc dịch chuyển0,68-0,7%/tháng lên
0,73-0,75%/tháng. Mặc dù sự dịch chuyển lãi suất này là nhỏ và cha vợt quá biên
độ giao động cho phép của lãi suất cơ bản, song có thể thấy quan hệ cung cầu về
vốn sẽ ngày càng phức tạp và sự biến động tỷ giá có thể sẽ rất lớn do NHNN Mỹ
cắt giảm lãi suất tái chiết khấu trong mấy tháng vừa qua nên lãi suất ở Việt nam sẽ
còn tiếp tục biến đổi theo chiều hóng khó lờng. Cộng thêm với những tồn tại, hạn
chế của chính sách lãi suất cơ bản nh chúng ta đã phân tích càng đặt ra yêu cầu cấp
thiết hiện nay là phải tìm cho đợc một cơ chế lãi suất mới phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh Việt nam và xu thế tự do hoá lãi suất trên thế giới.
2. Đặc điểm của thị trờng tín dụng Việt Nam.
Nớc ta đổi mới xuất phát từ một nền kinhtế nông nghiêpj lạc hậu khi kinh tê thị
trờng mới thoát khỏi mức sản xuất của chế độ phong kiến. Vì vậy, thị trờng tín
dụng vẫn bao hàm cả thị trờng cho vay nặng lãi ở nông thôn và ngay cả ở thành
thị. Vì vậy, nông dân sẽ rất vui mừng néu đợc vay với lãi suất ngày càng giảm của
các ngân hàng nông thôn.
Tỷ lệ ngời gửi tiền ở nớc ta năm 1998, đã đựoc Tỏng cục Thống kê và Bộ Kế
hoạch và đầu t điều tra chỉ chiém 17% dân số nhng tiềm lực vốn trong dân còn rất
lớn, chủ yếu dới các hình thức để dành phi kinh tế khác nh mua vàng và ngoại
tệ( 44%) , 20% mua nhà đất và cải thiện nhà ở, còn lại 19% dành cho đầu t phát
triển sản xuất kinh doanh ngắn hạn theo tính chất tự phát của kinhtế hộ. Những
năm gần đây, do nhu cầu vốn đầu t phát triển nên Nhà nớc đã mở rộng các hình
thức huy động vốn trong dân c nh trái phiếu kho bạc, tín phiếu, các hình thức tiết
kiệm ngắn hạn và dài hạn với lãi suất tơng đối phù hợp với xu hớng biến động của
thị trờng vốn và chỉ số giá cả hàng hoá dịch vụ. Nhờ vậy, mức độ và tốc độ huy
động vốn trong dân của các NHTM và TCTD năm sau cao hơn năm trớc. Tuy nhiên
cho đến nay, tỷ lệ vốn này mới đạt khoảng 20-21% so với tổng số tiền tiết kiệm có

của dân c. Tỷ lệ này tuy có cao hơn các thời kỳ trớc nhng còn xa mới đạt yêu cầu.
Trong số 80% còn lại, khoảng 50% vẫn tồn tại dới các hình thức để dành phi kinh
tế của dân c. Đồng vốn vẫn không thể quay vòng phục vụ cho các nhu cầu đầù t


phát triển, trong khi đó vốn huy động cho nền kinh tế còn thiếu. Tiềm lực vốn trong
trong dân còn nhiều nhng sức hút của các NHTM và TCTD vẫn cha đủ mạnh để tạo
ra sự đột biến trong huy động vốn của dân c cho các chong trình mục tiêu phát triển
kinh té- xã hội. Tình hình này tạo ra đặc điểm: thị trờng tín dụng ở nớc ta không
đồng nhất và tự nhiên tồn tại những lãi suất khác biệt khá xa ở các vùng khác nhau
do nhu cầu tín dụng khác nhau. Nó đã dẫn tới tình trạng có lúc lãi suất tiền gửi của
một vài ngân hàng ở thành phố cao hơn cả lãi suất cho vay của các ngân hàng khác
gây ra tình trạng phải đồng loạt nâng lãi suất để tránh bị hút mất tiền gửi.
Nớc ta mới có từng mảnh thị trờng tài chính và tiền tệ nh thị trờng tín phiếu kho
bạc hoạt động không thờng xuyên và cung câp không đủ lọng tín phiếu cho thị trờng liên ngân hàng, thị trờng liên ngân hàng đã có từ lâu nhng hầu nh không hoạt
động vì các ngân hàng ít vay mợn lẫn nhau hoặc vay mợn trực tiếp qua bảo đảm
bằng tín phiếu kho bạc. Đến khi tín phiếu kho bạc cạn dần do không phát hành
thêm thì hầu nh thị trờng liên ngân hàng không còn hoạt động. NHNN sử dụng vốn
phát hành qua tín dụng bằng cách cung ứng nguồn vốn trực tiếp cho các cho các
NHTMQD để thực hiện những loại cho vay u đãi nh cho vay mua gạo xuất khẩu.
Đâylà trở ngại rất lớn của việc hình thành lãi suất thị trờng.
Thị trờng mở và thị trờng chứng khoán chính thức đi vào hoạt động trong năm
2000. Cả hai thị trờng này đã bắt đầu phát huy đợc vai trò của mình đối với các mục
tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, qua 5 tháng hoạt động, các tổ chức tín dụng
cha tham gia thờng xuyên vào các phiên giao dịch của thị trờng mở mà chủ yếu là
các NHTMQD tham gia nhng cũng rất tha thớt, có phiên giao dịch chỉ có một
thành viên; hàng hoá giao dịch ở thị trờng mở chỉ dừng ở giấy tờ có giá ngắn hạn và
tập trung vào hai loại là tín phiếu NHNN và tín phiếu KBNN; cácphiên đấu thầu lãi
suất có tính cạnh tranh cao nên các NHTM và các TCTD nhỏ không có đủ điều
kiện tham gia , tạo ra tình trạng cha sôi động của thị trờng. Trong khi đó thị trờng

chứng khoán - thị trờng thứ cấp của thị trờng mở, nơi mua bán lại tín phiếu giữa các
TCTD và khách hàng của họ cha phát triển. Trên thị trờng này cũng có hiện tợng
khan hiếm hàng hoá nh trên thị trờng mở, cầu luôn vợt quá cung khiến thị giá của
cổ phiếu bị đẩy lên rất nhiều do so với giá trị thực của nó, trong khi đó thì giao dịch
bằng tín phiếu KBNN rất hạn chế. Hoạt động mua bán trên thị trờng chng khoán
mang nặng tính đầu cơ, có thể gây ảnh hởng không nhỏ đến hệ thống ngân hàng.


×