Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

LÝ LUẬN DẠY HỌC HIỆN ĐẠI Đề tài: “ Đổi mới phương pháp dạy học”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.39 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA VẬT LÝ
….….

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
LÝ LUẬN DẠY HỌC HIỆN ĐẠI
Đề tài: “ Đổi mới phương pháp dạy học”

Giảng viên hướng dẫn:

Học viên thực hiện:

PGS.TS. LÊ VĂN GIÁO

LÊ THANH SƠN
NGUYỄN HỮU THÁI NGHỊ
PHẠM THỊ KIM NGUYỆT
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

PHƯƠNG
K23 – LL&PPDHBM


Lý luận dạy học hiện đại
Huế, khóa học 2014 – 2016
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...................................................................................................................4
NỘI DUNG................................................................................................................5
2. Sự cần thiết phải đổi mới PPDH........................................................................6


2.1. Sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ mang tính bùng nổ của công nghệ
khoa học.............................................................................................................6
2.2. Yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân
lực tích cực, chủ động, sáng tạo........................................................................6
2.3. Có những thay đổi trong đối tượng giáo dục qua từng thời kỳ..................7
2.4. Mục tiêu giáo dục đổi mới..........................................................................7
3. Định hướng đổi mới PPDH...............................................................................7
3.1. Định hướng chung......................................................................................7
3.2. Định hướng cụ thể......................................................................................9
3.3. Đổi mới toàn diện các yếu tố của quá trình dạy học................................10
3.4. Những nội dung định hướng đổi mới PPDH Vật lí..................................10
4. Thực trạng của việc đổi mới PPDH, nguyên nhân, giải pháp khắc phục........10
4.1. Thực trạng đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.....................................10
4.2. Thuận lợi và khó khăn về đổi mới GDPT hiện nay..................................14
4.2.1. Thuận lợi................................................................................................14
4.2.2. Khó khăn................................................................................................15
4.3. Các giải pháp khắc phục những khó khăn trong việc ĐMGDPT.............17

Trang 2


Lý luận dạy học hiện đại
4.3.1. Kịp thời điều chỉnh những sai sót trong các sách giáo khoa hiện hành, tăng
cường kênh hình, hệ thống bài tập trắc nghiệm, bài tập thực hành theo hướng mở
để phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức..................17
KẾT LUẬN.............................................................................................................18

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt


Viết đầy đủ

PPDH

Phương pháp dạy học

PPDHPT

Phương pháp dạy học phổ thông

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

SGK

Sách giáo khoa

ĐMGDPT

Vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông

Trang 3


Lý luận dạy học hiện đại


MỞ ĐẦU
Từ những năm đầu của thập kỷ 90 vấn đề phương pháp dạy học (PPDH) trong nhà
trường phổ thông ở nước ta được dư luận xã hội và các cán bộ, giáo viên trong ngành
giáo dục quan tâm nhiều: lý do chủ yếu của hiện tượng đó là PPDH chậm được đổi mới,
thậm chí có chiều hướng “thụt lùi” so với thập kỷ trước đây, trong khi vai trò hết sức
quan trọng của phương pháp nói chung và PPDH nói riêng ngày càng được đề cao trong
quá trình thực hiện mục tiêu đào tạo. Trong những năm gần đây, chúng ta đã quan tâm
nhiều đến việc đổi mới phương pháp dạy học. Từ các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh
đạo các cấp của ngành giáo dục đến các nhà nghiên cứu, các thầy giáo đều khẳng định
vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong việc nâng cao chất lượng
nhà trường. Sự nỗ lực của chúng ta là rất lớn, hoạt động đổi mới là phong phú và đa
dạng. Nhưng đổi mới cái gì? Và đổi mới như thế nào?
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc, nhà trường hiện đại ngày nay là nhà trường hoạt
động, dùng phương pháp hoạt động rèn luyện trí thông minh bằng hoạt động, thu hẹp sự
cưỡng bức của nhà giáo thành sự hợp tác bậc cao. Trong hình thức học hợp tác, học sinh
học bằng cách thực hiện qua hành động chứ không phải học bằng cách nghe giáo viên
giảng. Xu thế tất yếu của thời đại ngày nay là hợp tác, do vậy nền giáo dục của mỗi quốc
gia trên thế giới phải đặt mục tiêu đổi mới giáo dục để đáp ứng được yêu cầu này. Chính
điều này đòi hỏi mỗi giáo viên cần tích cực hóa hoạt động dạy học của mình để làm học
sinh trở nên tích cực hơn, hứng thú hơn với môn học, và dạy học thật sự đem lại hiệu quả
cao.
Để trình bày một số định hướng đổi mới PPDHPT nhằm góp phần nâng cao chất
lượng dạy học phổ thông, chúng tôi chọn đề tài “Một số vần đề về Đổi mới PPDHPT
hiện nay”.

Trang 4


Lý luận dạy học hiện đại


NỘI DUNG
1.Thế nào là “Đổi mới PPDH”?
Nói đến đổi mới phương pháp dạy học, chúng ta đã quen với nhiều cụm từ như “Phát
huy tính chủ động sáng tạo của người học”, “ lấy người học làm trung tâm”. Điều này
đúng nhưng làm thế nào để đạt được mục tiêu “người học là trung tâm” thì GV lại lúng
túng, mơ hồ và ngần ngại đi tìm con đường để “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo”. Chính vì thế những điều đúng lại trở thành sáo rỗng, thậm chí nhàm chán.
Khi đi sâu mổ xẻ, phân tích cái gọi là “đổi mới phương pháp”, nhiều nhà sư phạm lại
có những ý kiến khác nhau. Tại hội thảo đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ
thông và Đại học, Cao đẳng do Bộ Giáo Dục - Đào Tạo tổ chức mới đây, một số nhà sư
phạm đã đặt vấn đề: Để đánh giá được hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trước hết
phải xây dựng được tiêu chí để trả lời câu hỏi “Thế nào là đổi mới phương pháp dạy
học?”, “Một bài dạy như thế nào thì được gọi là đổi mới phương pháp giảng dạy?”. Đã
từng có quan niệm “cứ áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học là “đổi mới”. Thực tế đã
có một số cơ sở giáo dục đầu tư phòng học trang bị máy chiếu, máy tính, ti vi, trang
âm...và tự hào gọi đó là “đổi mới phương pháp”. Nhưng việc sử dụng thiết bị hiện đại
như thế nào vào bài dạy, hiệu quả ra sao thì không tính đến.
Một quan niệm khác đánh giá giờ dạy ở bậc ĐH căn cứ vào số sinh viên tham gia phát
biểu xây dựng bài. Theo thầy giáo PGS.TS. Lê Đình Trung – GV trường ĐH Sư Phạm
Hà Nội, thì tiêu chí này đối với giờ dạy ở phổ thông là đúng, nhưng với giờ dạy ở ĐH
không hẳn như thế. Tương tự, như thế, có quan điểm cho rằng thuyết giảng (lối dạy
truyền thống) là lạc hậu, và “đổi mới” thì phải bỏ thuyết giảng. Theo một cán bộ giảng
dạy Đại học nhận xét rằng: Nhiều GV phổ thông và GV các trường sư phạm quan niệm
đơn giản: thầy đọc, trò chép là “cũ”, thảo luận theo nhóm mới là “mới”. Điều này không
thật đúng. Vì “thảo luận nhóm” là hình thức học tập khá hiệu quả, nhưng không phải
thích hợp với tất cả các môn, các bài học, các đối tượng học.
Quan niệm này đã dẫn đến một tình trạng ở các trường phổ thông, hễ có người dự giờ,
kiểm tra là GV cho HS “thảo luận nhóm”. Điều này quen thuộc đến mức HS cứ nghe có
người dự giờ là chắc chắn được “thảo luận nhóm”. “Thảo luận nhóm” trở thành hình

thức, giống như “ứng dụng công nghệ thông tin”...

Trang 5


Lý luận dạy học hiện đại
Như vậy, với mỗi ngành học, bài học cần có sự linh hoạt áp dụng cách dạy học khác
nhau hoặc phối hợp các cách dạy học khác nhau để mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, rõ ràng
“đổi mới phương pháp dạy học” đang cần những tiêu chí chung để tránh nhầm lẫn, cực
đoan và sa vào bệnh hình thức, phong trào) .
2. Sự cần thiết phải đổi mới PPDH
2.1. Sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ mang tính bùng nổ của công nghệ khoa
học
Điều này thể hiện qua các lí thuyết, các thành tựu mới và khả năng ứng dụng cao,
rộng và nhanh vào thực tế buộc chương trình, sách giáo khoa (SGK) phải luôn được xem
xét, điều chỉnh. Học vấn mà nhà trường phổ thông trang bị không thể thâu tóm được mọi
tri thức phổ thông mong muốn, vì vậy phải coi trọng việc dạy phương pháp, dạy cách đi
tới kiến thức của loài người, trên cơ sở đó mà tiếp tục học tập suốt đời, mọi người sống
trong xã hội học tập. Xã hội đòi hỏi người có học vấn hiện đại không chỉ có khả năng lấy
ra từ trí nhớ các tri thức dưới dạng có sẵn, đã lĩnh hội ở nhà trường phổ thông mà còn
phải có năng lực chiếm lĩnh, sử dụng các tri thức mới một cách độc lập; khả năng đánh
giá các sự kiện, các tư tưởng, các hiện tượng mới một cách thông minh, sáng suốt khi gặp
trong cuộc sống, trong lao động và trong quan hệ với mọi người. Nội dung học vấn được
hình thành và phát triển trong nhà trường phải góp phần quan trọng để phát triển hứng
thú và năng lực nhận thức của HS; cung cấp cho HS những kĩ năng cần thiết cho việc tự
học và tự giáo dục sau này. Chương trình và SGK phải góp phần tích cực trong việc thực
hiện yêu cầu đó.
2.2. Yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân lực
tích cực, chủ động, sáng tạo
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH)

với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành
một nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc CNH, HĐH và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn nhân lực người Việt
Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng
cao. Việc này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông, mà trước hết là phải bắt đầu từ
việc xác định mục tiêu đào tạo như là xác định những gì cần đạt được ( đối với người học
) sau một quá trình đào tạo. Nói chung đó là một hệ thống phẩm chất và năng lực được
hình thành trên một nền tảng kiến thức, kĩ năng đủ và chắc chắn.

Trang 6


Lý luận dạy học hiện đại
Trong xu thế của nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới
hiện nay đòi hỏi cần có nguồn nhân lực là người lao động tích cực, chủ động, sáng tạo
thích ứng với xã hội mới vì vậy chúng ta cần phải thay đổi phương pháp dạy học để tạo
ra những sản phẩm mới của giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu mới
2.3. Có những thay đổi trong đối tượng giáo dục qua từng thời kỳ
Những kết quả nghiên cứu tâm – sinh lí của HS và điều tra xã hội học gần đây trên
thế giới cũng như ở nước ta cho thấy thanh thiếu niên có những thay đổi trong sự phát
triển tâm – sinh lí. Trong điều kiện phát triển của các phương tiện truyền thông, trong bối
cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, HS được tiếp nhận nhiều kênh thông tin đa dạng, phong
phú từ nhiều mặt của cuộc sống, có nhiều hiểu biết hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với
các thế hệ cùng lứa tuổi trước đây mấy chục năm, đặc biệt là HS trung học. Trong học
tập, họ không thỏa mãn với vai trò của người tiếp thu thụ động, không chỉ chấp nhận với
các giải pháp đã có sẵn được đưa ra. Ở lứa tuổi này nảy sinh một yêu cầu và cũng là một
quá trình: sự lĩnh hội độc lập các tri thức và phát triển kĩ năng. Nhưng các phương thức
học tập tự lập ở HS nếu muốn được hình thành và phát triển một cách có chủ định thì cần
thiết phải có sự hướng dẫn đồng thời tạo các điều kiện thuận lợi. Chương trình và đặc biệt
là SGK có một vai trò hết sức quan trọng.

Như vậy đối tượng dạy học luôn luôn có sự thay đổi qua từng thời kỳ phát triển của
đất nước, nên phương pháp tác động vào đối tượng cũng phải thay đổi do đó đòi hỏi
chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy sao cho phù hợp với đối tượng mới.
2.4. Mục tiêu giáo dục đổi mới
Mục tiêu giáo dục đổi mới nên đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp
với mục tiêu mới.
3. Định hướng đổi mới PPDH
3.1. Định hướng chung
Nghị quyết TƯ 2 (khoá VIII) nêu rõ: "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học.

Trang 7


Lý luận dạy học hiện đại
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá
trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là
học sinh đại học.
Điều 24.2. Luật Giáo dục qui định: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh."
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số
201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2.
ghi rõ: "Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri
thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá
trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một
cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân;
tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, học sinh trong quá trình học tập,..."


Trang 8


Lý luận dạy học hiện đại
Dựa vào cơ sở trên, việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ
thông được diễn ra theo bốn hướng chủ yếu:
+ Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh.
+ Bồi dưỡng phương pháp tự học.
+ Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
+ Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Trong đó, hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh là cơ bản,
chủ yếu, chi phối đến ba hướng sau.
3.2. Định hướng cụ thể
- Định hướng về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
+ Về phương pháp dạy học, giáo viên cần vận dụng mọi phương pháp dạy học
hiện có một cách linh hoạt, đồng thời từng bước vận dụng các phương pháp dạy học hiện
đại như PPDH hợp tác (PPDH cùng tham gia), PPDH giải quyết vấn đề,...nhằm giúp học
sinh biết cách tự học, biết cách hợp tác trong tự học; tích cực chủ động, sáng tạo trong
việc phát hiện và giải quyết vấn đề để vừa có được những kiến thức cần thiết, vừa rèn
luyện được các năng lực hành động.
+ Về hình thức tổ chức dạy học, nên áp dụng các hình thức tổ chức dạy học một
cách linh hoạt, phối hợp dạy học cá nhân và dạy học theo nhóm nhỏ, theo lớp; phối hợp
dạy học ở trong và ngoài lớp, ở nhà trường và ở hiện trường (cơ sở sản xuất vật phương).
- Định hướng về thiết bị dạy học
Các thiết bị dạy học vật lý là điều kiện, phương tiện và nguồn tri thức không thể
thiếu được trong quá trình học tập của học sinh. Thông qua hoạt động với các thiết bị,
học sinh tiếp cận được với hình ảnh mô phỏng thực tế, rèn luyện các kỹ năng quan sát,
thu thập và xử lý thông tin, hướng tới việc hình thành những năng lực cần thiết của người
lao động mới.
Các thiết bị dạy học phải phù hợp nội dung, phương pháp của chương trình và

sách giáo khoa.
- Định hướng về đánh giá kết quả học tập
+ Yêu cầu của việc đánh giá là phải toàn diện, khách quan, chính xác và có tác
dụng điều chỉnh hoạt động dạy học, động viên sự cố gắng học tập của học sinh.
+ Để tránh việc kiểm tra kiến thức theo kiểu ghi nhớ máy móc và tạo nên sự thống
nhất về đánh giá trong cả nước, sẽ tiến tới việc xây dựng hệ thống chuẩn về kiến thức và
kỹ năng của bộ môn là cơ sở cho việc đánh giá.
+ Các yêu cầu của chương trình cần được đánh giá phải bao gồm kiến thức, kỹ
năng, các phẩm chất nhân cách khác. Tuy vậy, trước hết nên tập trung vào đánh giá về
kiến thức và kỹ năng bằng cách bố trí hai yêu cầu này trong tất cả các lần kiểm tra.
+ Các bài kiểm tra cần tạo điều kiện để học sinh bộc lộ các năng lực như: năng lực
xử lý thông tin, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo...

Trang 9


Lý luận dạy học hiện đại
+ Cần kết hợp các loại hình kiểm tra, đánh giá: trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm
khách quan...
3.3. Đổi mới toàn diện các yếu tố của quá trình dạy học
Quá trình dạy học được tạo thành từ các yếu tố: mục đích, nội dung, thầy và hoạt
động dạy (phương pháp, hình thức), trò và hoạt động học (phương pháp, hình thức),
phương tiện, kết quả. Tất cả các yếu tố này tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ với
nhau, trong đó mục đích quyết định đến nội dung và phương pháp, nội dung quyết định
đến phương pháp, phương tiện và đến lượt mình, phương pháp và phương tiện dạy học có
tác động tích cực (hay tiêu cực) đến thực hiện mục đích và nội dung dạy học. Việc đổi
mới PPDH cần phải được xem xét ở tất cả các yếu tố của quá trình giáo dục, dạy học
trong một chỉnh thể thống nhất liên quan chặt chẽ với nhau.
3.4. Những nội dung định hướng đổi mới PPDH Vật lí
3.4.1. Bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông.

3.4.2. Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể.
3.4.3. Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh.
3.4.4. Phù hợp với cơ sở vật chất, các điều kiện dạy học của nhà trường.
3.4.5. Phù hợp với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy – học.
3.4.6. Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các PPDH tiên tiến,
hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các PPDH truyền thống.
3.4.7. Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học và đặc biệt lưu ý
đến những ứng dụng của công nghệ thông tin.
4. Thực trạng của việc đổi mới PPDH, nguyên nhân, giải pháp khắc phục
4.1. Thực trạng đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay
- Nhận thức rõ vai trò của giáo dục trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
nhằm tạo ra nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu hội nhập với thế giới và với khu vực
nên giáo dục và vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông (ĐMGDPT) đã được các cấp lãnh đạo
từ Trung ương đến địa phương hết sức quan tâm. Điều này thể hiện trong Nghị quyết TƯ
2 (Khoá VIII): "đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo của người học..."; trong Báo cáo chính trị tại Đại
hội Đảng lần thứ IX (2001): coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu"; trong nghị quyết
40/2000/QH10 của Quốc hội và chỉ thị 14/2001/CT-TTg của thủ tướng Chính phủ: "Thực
hiện đồng bộ việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học với
việc đổi mới cơ bản về phương pháp đánh giá, thi cử, nâng cấp cơ sở vật chất nhà

Trang 10


Lý luận dạy học hiện đại
trường theo hướng chuẩn hoá"; trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010: "khắc
phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi mới một cách có hệ thống và
đồng bộ, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chấn hưng đất nước, đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững"; trong Luật giáo dục (sửa đổi) (2005): "Nội dung giáo dục phải bảo

đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống...", "phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên", "chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định, tính thống
nhất, kế thừa..."; trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006): coi "giáo dục
cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu". Như vậy, phải nói rằng giáo dục
và công cuộc ĐMGDPT đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo Đảng,
Nhà nước và ngành giáo dục.
- Việc ĐMGDPT phải bắt đầu từ đổi mới mục tiêu giáo dục, đó là "đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Trong những năm qua, việc biên soạn nội dung, chương
trình, sách giáo khoa mới đã bám sát được mục tiêu này, góp phần nâng cao khả năng tự
học, chủ động tiếp thu kiến thức, chú trọng kĩ năng thực hành cho học sinh. Đây chỉ mới
là những kết quả bước đầu trong năm đầu tiên thực hiện chương trình, sách giáo khoa
mới ở lớp 10,11 và đang triển khai ở lớp 12.
- Chương trình đã được đổi mới phù hợp với mục tiêu giáo dục. Chương trình theo
quan niệm mới có nghĩa rộng hơn, trong đó trình bày mục tiêu học tập; số lượng, phạm
vi, mức độ nội dung học tập; các phương pháp, phương tiện và các hình thức tổ chức học
tập; cách thức đánh giá kết quả học tập. Như vậy, chương trình mới đã hướng đến người
học, hướng đến sự phát triển toàn diện của học sinh về năng lực hành động, sáng tạo, hợp
tác và tự khẳng định mình. Sách giáo khoa đã được biên soạn trên khung chương trình

Trang 11


Lý luận dạy học hiện đại
mới, theo hướng mới "là tài liệu học tập chủ yếu của học sinh và tài liệu tham khảo quan
trọng cho giáo viên". Sách giáo khoa mới viết theo lối gợi mở, nêu vấn đề, đưa vào nhiều

câu hỏi đa dạng, mang tính tư duy cao, chú trọng kênh hình khi trình bày (nhưng chưa
nhiều), in ấn khá đẹp. Về việc triển khai nội dung, chương trình và sách giáo khoa mới,
các Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức vào các đợt bồi dưỡng thay sách do các chuyên
viên của Bộ và Sở phụ trách nhằm hướng dẫn, phân tích những điểm mới và khó trong
chương trình, sách giáo khoa mới. Tuy nhiên, so sánh với nội dung sách giáo khoa cải
cách giáo dục và thời lượng học tập trên lớp thì chương trình, sách giáo khoa mới "có vẻ"
nặng. Đây là vấn đề đã được phản ánh rất nhiều trong các hội nghị tổng kết về đổi mới
nội dung, chương trình, sách giáo khoa mới và trên cả các phương tiện thông tin đại
chúng. Điều này chứng tỏ sự nhận thức, cách nhìn nhận và việc tổ chức thực hiện chương
trình, sách giáo khoa mới ở nhiều nơi còn lúng túng, chưa đúng với yêu cầu của việc
ĐMGDPT hiện nay. Ngay cả cấp lãnh đạo ở Sở và ở các trường vẫn còn cảm nhận độ
"nặng", độ "khó" của chương trình và sách giáo khoa mới. Việc tổ chức các lớp bồi
dưỡng thay sách mang lại hiệu quả chưa cao. Nhiều phụ huynh và học sinh đón nhận
chương trình và sách giáo khoa mới với tâm trạng hồ hởi, tin tưởng nhưng vẫn còn không
ít phụ huynh và học sinh còn lúng túng trong việc sử dụng sách giáo khoa mới vì thế hiệu
quả sử dụng sách và kết quả học tập còn thấp.
- Đổi mới phương pháp dạy học được coi là hạt nhân của ĐMDHPT hiện nay. Điều
này được khẳng định trong rất nhiều văn bản, nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ;
Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhiều hội nghị, hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay nhằm "hướng vào người học", chuyển từ "học tập thụ động, ghi nhớ kiến thức
sang học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn". Việc đổi mới phương pháp dạy học trong thời gian qua đã có những "bước chuyển
mình", nhiều giáo viên đã áp dụng tốt các phương pháp dạy học hiện đại trên cơ sở phát
huy những yếu tố tích cực của phương pháp dạy học truyền thống phát huy được tính tích
cực, hứng thú của học sinh trong giờ học. Nhiều trường, nhiều Sở đã tổ chức các hội thảo
về đổi mới phương pháp dạy học, tạo thành phong trào được nhiều giáo viên hưởng ứng.

Trang 12



Lý luận dạy học hiện đại
Việc đánh giá giờ dạy đã theo chuẩn mới, lấy việc đổi mới phương pháp dạy học làm tiêu
chuẩn đánh giá quan trọng trong kết quả tiết dạy của giáo viên. Tuy nhiên, phải thừa nhận
rằng việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay vẫn còn nặng tính phong trào, phổ biến
ở một số giáo viên tâm huyết, có năng lực, nhạy bén và trong các buổi dự giờ, hội thi
giáo viên dạy giỏi. Vẫn còn giáo viên dạy học theo lối cũ (tuy không phổ biến): thầy đọctrò chép; thầy giảng-trò nghe...Thực tế này do nhiều nguyên nhân: cả giáo viên (vị trí,
động lực dạy, năng lực tiếp cận các phương pháp dạy học mới...); cả học sinh (mặt bằng
kiến thức học sinh nhiều nơi rất thấp, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa...);
cả điều kiện phục vụ cho dạy học (cơ sở vật chất, thiết bị dạy học...); cả cơ chế của ngành
(chế độ động viên, khuyến khích...).
- Đổi mới phương tiện dạy học góp phần cho việc đổi mới phương pháp dạy học nói
riêng và ĐMGDPT nói chung thành công. Nhiều trường đã tiến hành xây mới và cải tiến
các phòng học bộ môn, trang bị các thiết bị dạy học hiện đại như máy vi tính, máy chiếu
qua đầu, máy chiếu điện tử... phục vụ cho việc dạy học theo tinh thần mới. Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã ban hành danh mục thiết bị dạy học tối thiểu các môn học của lớp 10 và 11
và tổ chức đấu thầu, trang bị đủ các thiết bị dạy học về cho các trường phổ thông. Các Sở
Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các hội thi làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm được
đông đảo giáo viên các trường hưởng ứng, thạm gia. Nhiều giáo viên đã sử dụng khá
thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại vào việc đổi mới phương pháp dạy học như
sử dụng máy vi tính và máy chiếu điện tử để dạy học bằng giáo án điện tử; nhiều trường
đã tổ chức việc quản lí sử dụng các phương tiện dạy học tại trường khá bài bản, góp phần
nâng cao chất lượng giờ học. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, việc trang bị phương tiện dạy học
cho các trường rất chậm, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới phương pháp dạy học của giáo
viên, làm các trường phổ thông rất bị động về khâu thiết bị, giáo viên phải "dạy chay"
trong nhiều tháng liền; chất lượng nhiều loại thiết bị chưa tốt không tạo được niềm tin
cho giáo viên khi sử dụng, làm ảnh hưởng đến kết quả giờ dạy của giáo viên. Không ít
các trường việc bảo quản các thiết bị dạy học chưa tốt do không có phòng, không có giáo
viên chuyên trách. Nhiều giáo viên ngại sử dụng các thiết bị do thiếu kĩ năng sử dụng

Trang 13



Lý luận dạy học hiện đại
hoặc do thiết bị thiếu thốn, bố trí sử dụng không hợp lí...Vì vậy trong thực tế, ở nhiều
trường việc sử dụng thiết bị, phương tiện dạy học vẫn còn mang tính đối phó, thời vụ,
chưa được thường xuyên, tình trạng "dạy chay" vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt là ở các
trường vùng nông thôn, miền núi....
- Về công tác kiểm tra, đánh giá, trong những năm qua đã có những cải tiến, đổi mới
phù hợp với tinh thần ĐMGDPT hiện nay. Phối hợp giữa hình thức trắc nghiệm tự luận
và trắc nghiệm khách quan để việc kiểm tra mang tính bao quát, khách quan, nhẹ nhàng
hơn. Các địa phương đã khuyến khích và đưa dần hình thức trắc nghiệm vào các bài kiểm
tra học sinh; trong các kì thi quốc gia (thi tốt nghiệp phổ thông, thi tuyển sinh vào Đại
học, Cao đẳng) số môn thi theo hình thức trắc nghiệm được nâng dần hàng năm từ một
môn (Tiếng Anh) đến bốn môn (Vật lí, Hoá học, Sinh học, Tiếng Anh) và dự kiến sẽ tiếp
tục tăng thêm trong các năm tiếp theo. Nhiều địa phương đã tổ chức kiểm tra tập trung
các môn học theo hướng ba chung: chung đề, chung thời gian và chấm chung. Nội dung
đề ra đã chuyển dần sang hướng bao quát, đa dạng (cả nội dung thực hành, các giải thích
thực tế). Cuộc vận động "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục" đã đi vào cuộc sống được xã hội đồng tình, hưởng ứng, đánh giá được thực
trạng chất lượng giáo dục nước nhà. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, công tác kiểm tra, đánh giá
vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là kĩ thuật ra đề trắc nghiệm vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều
sai sót; việc tổ chức kiểm tra còn nặng nề, chưa khuyến khích và hướng dẫn học sinh tự
đánh giá, độ tin cậy chưa cao, chưa công bằng do phải dạy nhiều lớp, tổ chức kiểm tra
nhiều lần và chưa mang tính thường xuyên. Còn quá chú trọng chất lượng giáo dục "mũi
nhọn", "luyện gà", chưa chú trọng đúng mức đến giáo dục "đại trà", "cơ bản".
4.2. Thuận lợi và khó khăn về đổi mới GDPT hiện nay
4.2.1. Thuận lợi
- Trước hết là sự quan tâm của Đảng và các cấp chính quyền được cụ thể qua:
+ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần IX, X; Chiến lược phát triển giáo dục
2001-2010 của Chính phủ; Luật giáo dục sửa đổi (2005) đều đặt ra yêu cầu phải đổi mới


Trang 14


Lý luận dạy học hiện đại
toàn diện giáo dục phổ thông từ nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo
khoa phổ thông.
+ Ngân sách dành cho giáo dục hàng năm tăng đều, coi đầu tư cho giáo dục là
"đầu tư phát triển".
- Sự quan tâm, chăm lo của toàn xã hội đối với sự nghiệp “trồng người”. Công tác
xã hội hoá giáo dục ngày càng mang lại hiệu quả: cả xã hội chung lòng, chung sức "lo
với cái lo của giáo dục", "làm với giáo dục" vì giáo dục là nhân tố quyết định trong việc
đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho đất nước.
- Sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước tạo động lực cho giáo dục phát triển.
Kinh tế phát triển, xã hội ổn định là điều kiện quan trọng giúp cho việc ĐMGDPT thành
công.
- Sự phát triển của công nghệ thông tin là cơ sở triển khai thành công việc đổi mới
nội dung, chương trình, sách giáo khoa mới vì hạt nhân của ĐMGDPT là đổi mới phương
pháp dạy học trong đó việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại là yêu cầu
hết sức cần thiết đối với việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông.
- Đa số giáo viên đã đạt trình độ chuẩn (về bằng cấp), đủ điều kiện để tiếp nhận
chương trình và sách giáo khoa mới cũng như các phương pháp dạy học hiện đại; truyền
thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo” của dân tộc là những thuận lợi hết sức cơ bản cho
ĐMGDPT.
- Xã hội đã bước đầu chấp nhận và đồng tình với cuộc vận động chấn hưng giáo dục
của ngành “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”.
4.2.2. Khó khăn
- Sự lúng túng, bất cập trong việc triển khai ĐMGDPT hiện nay. Nhận thức của xã
hội về phân ban còn hạn chế, chưa thật sự tin tưởng vào kế hoạch phân ban ở các trường
THPT hiện nay. Nguy cơ phân ban khó thành công nếu không có sự tuyên truyền để toàn

xã hội nhận thức đúng về chủ trương của nhà nước và của ngành và không có những sự
điều chỉnh kịp thời, cần thiết.

Trang 15


Lý luận dạy học hiện đại
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu về đổi mới nội
dung, chương trình, sách giáo khoa mới. Nhiều trường không có phòng học bộ môn mà
chỉ có các kho chứa thiết bị, không có giáo viên chuyên trách. Việc sử dụng, vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực vào quá trình dạy học còn hạn chế do “tính ì”, ‘ngại
khó”, do lúng túng trong việc kế thừa các phương pháp dạy học truyền thống và việc áp
dung các phương pháp dạy học hiện đại, do khả năng tự học của một số giáo viên còn
hạn chế nên không sử dụng được các thiết bị dạy học hiện đại như máy vi tính, máy chiếu
điện tử...vào phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Chất lượng dạy và học còn thấp. Tâm lí thi cử còn đè nặng trong tâm trí của nhiều
người. Điều này thể hiện qua kết quả thi tốt nghiệp THPT năm học 2006-2007 (lần 1:
66,67%; lần 2: 34,3%); kết quả thi tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng năm
2007: tỉ lệ điểm dưới 5 khá cao, có môn thi ở một số trường tỉ lệ dưới 5 trên 90%; tỉ lệ
học sinh yếu kém ở một số địa phương lên đến trên 70%.
- Nhận thức của đại bộ phận nhân dân về vấn đề học tập vẫn còn hạn chế. Tâm lí
học đại học vẫn đè nặng, dẫn đến kết quả phân luồng HS chưa thực sự đạt kết quả cao.
- Công tác xã hội hoá giáo dục mặc dù đã được xã hội bước đầu quan tâm. Tuy
nhiên vẫn chưa thực sự huy động sức mạnh nguồn lực của toàn xã hội cho công cuộc đổi
mới giáo dục phổ thông.
- Đời sống của đa số cán bộ, giáo viên còn khó khăn, chưa toàn tâm, toàn ý cho
công tác dạy học ở trường. Mức sống xã hội đã được nâng lên nhưng đa số nhân dân vẫn
còn nghèo, không đủ điều kiện chăm lo cho giáo dục nói chung và việc học tập của con
em nói riêng.
- Một bộ phận không nhỏ giáo viên đã đạt chuẩn về bằng cấp nhưng chưa đạt chuẩn

về trình độ. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng dạy học và tiến trình ĐMGDPT.

Trang 16


Lý luận dạy học hiện đại
4.3. Các giải pháp khắc phục những khó khăn trong việc ĐMGDPT
4.3.1. Kịp thời điều chỉnh những sai sót trong các sách giáo khoa hiện hành, tăng cường
kênh hình, hệ thống bài tập trắc nghiệm, bài tập thực hành theo hướng mở để phát
huy tính tích cực của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức.
4.3.2. Tăng cường công tác bồi dưỡng cho cả cán bộ quản lí và giáo viên cả về nhận thức
và năng lực triển khai ĐMGDPT. Cần chú ý bồi dưỡng những gì họ đang thiếu, những gì
thiết thực vận dụng vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, làm
cho họ nhận thức được mục tiêu, nội dung của ĐMGDPT và cách thức triển khai ở
trường phổ thông nơi họ đang trực tiếp giảng dạy. Đặc biệt là bồi dưỡng về CNTT cho
đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng
CNTT vào dạy học đạt hiệu quả cao.
4.3.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị dạy học đảm bảo đủ về số lượng,
chủng loại, đúng về thời gian trang bị và chất lượng. Chú trọng công tác bảo quản và sử
dụng các loại thiết bị dạy học: xây mới hoặc cải tiến các phòng học cũ thành phòng học
bộ môn đảm bảo qui cách, bố trí giáo viên chuyên trách hợp lí.
4.3.4. Huy động toàn xã hội tham gia đóng góp nhiều hơn nữa cho giáo dục, biến chủ
trương xã hội hoá giáo dục ngày càng hiện thực, làm cho sự nghiệp giáo dục trở thành
nhiệm vụ chung của toàn xã hội, góp phần quan trọng cho việc ĐMGDPT thành công.
4.3.5. Quan tâm đến đời sống của giáo viên: nâng lương để giáo viên an tâm dạy học; có
cơ chế khuyến khích, động viên giáo viên tham gia nhiệt tình vào quá trình ĐMGDPT
hiện nay: đưa việc đổi mới phương pháp dạy học, việc sử dụng phương tiện dạy học, việc
tự học để nâng cao trình độ nghiệp vụ vào tiêu chí đánh giá giáo viên.
4.3.6. Đổi mới hình thức và nội dung sinh hoạt các tổ, nhóm chuyên môn. Cần chú trọng
vào các vấn đề về ĐMGDPT như: nội dung chương trình, các vấn đề mới, khó trong sách

giáo khoa, phương pháp dạy học từng bài, cách thức tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh.
Tổ chức sinh hoạt chuyên đề, bồi dưỡng năng lực sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện
đại như máy vi tính, máy chiếu điện tử cho giáo viên, hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong việc sử

Trang 17


Lý luận dạy học hiện đại
dụng các phương tiện kĩ thuật trên trong quá trình dạy học; bồi dưỡng năng lực soạn thảo
một đề thi trắc nghiệm khách quan.
4.3.7. Phát động phong trào "Làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm" trong giáo viên
nhằm bổ sung nguồn thiết bị còn thiếu ở các trường và phát huy khả năng, tâm huyết của
nhiều giáo viên trong trường.
4.3.8. Tăng cường công tác dự giờ giáo viên theo nhiều hình thức khác nhau và tổ chức
đánh giá, rút kinh nghiệm nghiêm túc, vừa làm vừa hoàn chỉnh để việc đổi mới nội dung,
chương trình, sách giáo khoa mới ngày càng đạt kết quả.
4.3.9. Mỗi giáo viên, cán bộ quản lý phải tự khắc phục khó khăn, tự bồi dưỡng năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ để khắc phục những hạn chế của bản thân đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục trong giai đoạn mới hiện nay.

KẾT LUẬN
Có thể nói đổi mới phương pháp dạy học là xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay
cho phù hợp với đối tượng học sinh ngày càng được phát triển ở tất cả mọi mặt, phù hợp
với yêu cầu ngày càng cao về con người của xã hội, phù hợp với xu hướng tiến bộ của xã
hội.
Trong đó, việc phát huy năng lực tự học, tích cực hóa hoạt động nhận thức của học
sinh là một yêu cầu cấp thiết của xã hội. Điều đó thể hiện vai trò định hướng của người
thầy trong quá trình dạy học cho học sinh. Đồng thời khẳng định vấn đề tất yếu là người
thầy không thể theo ta trên suốt con đường học vấn cũng như đi vào cuộc sống xã hội cụ


Trang 18


Lý luận dạy học hiện đại
thể mà bản thân mỗi học sinh phải ý thức được việc mình phải tự học, tự chiếm lĩnh tri
thức và tự bước đi trên con đường tri thức của mình. Nhưng cũng chính vì vậy mà bản
thân người thầy phải ý thức được sự cần thiết đổi mới phương pháp dạy học của mình để
phù hợp với thế hệ học sinh mới, với yêu cầu mới về đào tạo con người của xã hội, phù
hợp với sự tiến bộ của xã hội.
Tuy nhiên mỗi phương pháp dạy học dù mới hay cũ đều có những ưu điểm và hạn
chế. Vì vậy chúng ta cần xem xét và lựa chọn vận dụng linh hoạt các phương pháp nhằm
đi đến mục tiêu cuối cùng của quá trình dạy học là đào tạo được thế hệ học sinh đủ bản
lĩnh, tri thức và kĩ năng để tham gia tốt vào xã hội.
Trên đây, nhóm chúng tôi đã nêu lên sự bức thiết của việc đổi mới PPDHPT, cùng
với đó là những định hướng, thực trạng của việc đổi mới DHPT ở Việt Nam hiện nay. Rõ
ràng, khi đi sâu vào phân tích, chúng ta phát hiện ra rất nhiều bất cập mà nền giáo dục
nước nhà cần giải quyết. Thiết nghĩ, việc đổi mới PPDHPT đã được xây dựng từ rất lâu
thế nhưng hiệu quả mà nó mang lại chưa cao. Chính vì điều này khiến nền giáo dục của
chúng ta trở nên trì trệ, lạc hậu so với các nước khác. Bài tham luận cũng đưa lên một số
giải pháp mà chúng tôi nghĩ là ở tầm vi mô. Để thực hiện cải cách giáo dục, đổi mới
PPDHPT một cách triệt để thì cần hơn nữa sự chung tay góp sức của cộng đồng xã hội,
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các cấp quản lí và cơ quan giáo dục cùng với đó là
sự vượt khó vươn lên, tự ý thức ở mỗi giáo viên – người tiên phong và làm chủ trong
công cuộc đổi mới này.

Trang 19




×