Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Đánh Giá Hiện Trạng Phát Triển Doanh Nghiệp Nhà Nước Sau Cổ Phần Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.17 KB, 100 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, việc sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN
là một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và nhà nước ta. Thực tiễn hoạt
động của DNNN ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù DNNN
được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của chúng có nhiều điểm bất
cập. DNNN chiếm phần vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ có
đào tạo, cán bộ quản lí có năng lực cũng tập trung trong các DNNN. Các
DNNN chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí,
vận tải, bưu chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành dịch vụ chiến lược khác
như bảo hiểm, ngân hàng,... Tuy nhiên, với nhiều thế mạnh như vậy song
DNNN vẫn chưa thực sự phát huy tối vai trò nòng cốt của chúng trong việc
làm cho kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo. Đa số các DNNN làm
ăn thua lỗ, gây thất thoát tài sản của Nhà nước một cách nghiêm trọng. Những
vụ tham nhũng điển hình đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến DNNN.
Chính vì vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp này trở
thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn được Đảng và Nhà nước ta chú
trọng sắp xếp, đổi mới DNNN càng trở nên cấp bách khi đất nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự chủ động hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những biện pháp đổi mới
DNNN được thực hiện có hiệu quả và mang lại nhiều thay đổi triệt để trong
cấu trúc tổ chức và hoạt động của DNNN là CPH
CPH doanh nghiệp nhà nước là một biện pháp hữu hiệu được tiến hành
phổ biến ở nhiều nền kinh tế trên thế giới. Ngay cả những quốc gia có nền
kinh tế phát triển, phương thức quản lý doanh nghiệp tiên tiến như: Anh,
Pháp, Mỹ cũng phải áp dụng. Ở nước ta CPH đã được bắt đầu được triển khai
cách đây 19 năm với những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai
rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên do nhiều lí do khác nhau, CPH vẫn chưa
Kông Duy Hải


1

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

mang lại những kết quả mong muốn. Mặc dù hoạt động của các DNNN được
CPH đã chứng tỏ tác dụng to lớn của nó, song thực tế số doanh nghiệp nhà
nước được CPH ít hơn rất nhiều so với yêu cầu đặt ra.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của CPH trong quá trình đổi mới, sắp xếp
DNNN, em chọn đề tài: “Đánh giá hiện trạng phát triển doanh nghiệp nhà
nước sau cổ phần hóa” nhằm đi sâu tìm hiểu về CPH ở nước và rút ra được
thực trạng phát triển của doanh nghiệp nhà nước sau CPH, đồng thời đưa ra
một số giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của các DNNN sau CPH.
Kết cấu bài viết của em như sau:
Chương I: Những lí luận chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Chương II: Hiện trạng phát triển doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
Chương III: Phương hướng và giải pháp pháp nâng cao hiệu quả phát
triển doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
Do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết của em chắc chắn có nhiều sai sót,
em rất mong được thầy cô giáo góp ý và chỉ dạy.
Em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo tiến sĩ Phạm
Ngọc Linh đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Đồng thời
em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc của mình đến cán bộ viên chức của
Cục Thống Kê Thành phố Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn e trong
quá trình thực tập cũng như hoàn chỉnh bài viết.

Kông Duy Hải


2

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG I
NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. Tổng quan về doanh nghiệp nhà nước
1. Khái niệm
DNNN được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở các nước do cách
tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số liệu thống kê với
mục đích khác nhau.
Định nghĩa DNNN được sử dụng khá phổ biến là định nghĩa trong báo
cáo của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO). Theo
UNIDO, DNNN được định nghĩa là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước
hoặc do Nhà nước kiểm soát có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hóa và
cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, DNNN bao gồm các doanh nghiệp
hoàn toàn thuộc sự quản lý của các Bộ, Ngành, các doanh nghiệp mà nhà
nước giữ phần lớn cổ phần song do sự phân tán của cổ đông mà nhà nước
nắm giữ quyền chi phối.
Khái niệm DNNN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều
thời kì, tương ứng với sự thay đổi quan niệm đối với sở hữu nhà nước, thay đổi
trong cơ chế quản lý kinh tế. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung (19601986) các tổ chức kinh tế nhà nước tồn tại dưới dạng các xí nghiệp quốc doanh
(chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp), các nông trường quốc doanh
(trong lĩnh vực nông nghiệp) và các công ty (chủ yếu trong lĩnh vực thương
mại). Khái niệm DNNN lúc này chưa xuất hiện mà chỉ có khái niệm về xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh hay xí nghiệp thương mại quốc doanh.

Trong giai đoạn sau khi ban hành Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh năm 1977 cho đến khi ban hành điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh năm 1988, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã tìm cách hoàn thiện
khái niệm xí nghiệp công nghiệp quốc doanh.
Kông Duy Hải

3

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cách tiếp cận thành phần kinh tế nhà nước, cách nhìn nhận các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng có nhiều thay đổi. Mặt khác, để DNNN
có thể hoạt động có hiệu quả hơn, cần phải có một cơ sở pháp lý vững chắc
hơn cho loại hình doanh nghiệp được coi là có vai trò chủ đạo này. Chính vì
vậy, năm 1995 Nhà nước ta đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước thể chế
hóa nhiều quan điểm mới về loại hình doanh nghiệp này.
Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 định nghĩa DNNN như sau:
“DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức,
quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có
các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh
doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý DNNN có tên gọi, có
con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”.
Khái niệm DNNN được phát triển tương đối sâu trong định nghĩa và các
quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003. Điều 1 Luật DNNN
năm 2003 định nghĩa: “DNNN là các tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu

toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới
hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đến khi Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời, tại điều điều 4 khoản 22 quy định:
“DNNN là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”
2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước
Đối với nhiều quốc gia, DNNN được giao phó sứ mệnh xây dựng nền
kinh tế tự chủ, còn đối với quốc gia khác thì DNNN được giao sứ mệnh hỗ trợ
vật chất cho sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào đời sống kinh tế. Tuy
nhiên, về tổng thể, DNNN có những vai trò sau đây:
- DNNN có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hạ tầng cho nền kinh
tế. Do tác động của quy luật giá trị, việc đầu tư vào hạ tầng như hệ thông giao
Kông Duy Hải

4

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

thông, thông tin liên lạc, các dịch vụ công ích như điện, xây dựng hạ tầng, vận
tải hành khách và hàng hóa thường ít được các doanh nghiệp quan tâm đầu tư.
Hơn nữa, đối với nhiều doanh nghiệp thì những dự án đầu tư vào các lĩnh vực
nêu trên thường vượt ra ngoài khả năng tài chính, khả năng kĩ thuật và công
nghệ. Ngay trong mỗi quốc gia, việc đầu tư vào các cơ sở hạ tầng ở một số
vùng xét về mặt tài chính là những rủi ro lớn đối với doanh nghiệp. Chính vì
vậy, DNNN được coi là giải pháp cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở ở nhiều
quốc gia, nhất là những quốc gia đang phát triển, thiếu vắng những doanh
nghiệp tư nhân có tiềm lực kinh tế và kỹ thuật
- DNNN được giao phó vai trò khá lớn trong việc đảm bảo các hàng hóa,

dịch vụ thiết yếu hoặc nhạy cảm của nền kinh tế mà các doanh nghiệp thuộc
những thành phần kinh tế khác không thể đảm nhiệm vì những lí do khác
nhau. Các loại hành hóa, dịch vụ thiết yếu mà doanh nghiệp nhà nước có
nhiệm vụ phải đảm bảo là điện, nước, dịch vụ giao thông công cộng, thông tin
liên lạc. Những hành hóa và dịch vụ nhạy cảm là các sản phẩm như chất nổ,
chất độc, chất phóng xạ, dịch vụ viễn thông quốc tế,…
- DNNN phải tạo ra được nguồn thu cho ngân sách để phát triển kinh tế
xã hội. Vai trò này thể hiện khá rõ nét ở các nước đang phát triển, nhất là
những nước nông nghiệp lạc hậu. Vì ở những nước này không thể trông chờ
vào những nguồn thu, nhất là từ lĩnh vực nông nghiệp. DNNN đóng góp khá
lớn cho ngân sách và góp phần tạo ra tích lũy cho nền kinh tế của quốc gia.
Có thể nói, đối với những quốc gia đang phát triển, đóng góp của DNNN vào
tổng thu nhập quốc dân và ngân sách nhà nước là rất lớn.
- DNNN có vai trò to lớn trong việc điều tiết nền kinh tế. Nhờ vào sự tồn
tại của thành phần kinh tế công với tiềm lực to lớn của nó, nhà nước có thể tác
động tới sự phát triển của nền kinh tế theo những chiều hướng hoặc theo
những chính sách thích hợp với lợi ích quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể.
- Thúc đẩy và bảo đảm việc làm cũng là một trong những vai trò quan
trọng của doanh nghiệp nhà nước. Các DNNN tạo khá nhiều việc làm cho
người lao động
Kông Duy Hải

5

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

- Giảm đói nghèo là vai trò được các quốc gia đang phát triển kì vọng

nhất từ các DNNN. Mang tính xã hội hóa cao, nắm giữ những lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế, được nhà nước bao cấp nhiều mặt nên DNNN cần phải
trở thành động lực của việc xóa đói giảm nghèo. Trong thực tế, nhiều DNNN
đã thực hiện vai trò này ở một số vùng. Đối với những vùng kinh tế kém phát
triển của một quốc gia, nếu không có sự hoạt động của các DNNN với tư cách
là những động lực thì việc phát triển kinh tế, xóa dần sự cách biệt về nghèo
đói khó có thể thực hiện được
- Tăng cường sự phát triển kinh tế quốc dân và củng cố chủ quyền quốc
gia là vai trò khá phổ biến của DNNN ở các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển. Sự tồn tại của DNNN trong nhiều lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế đảm bảo cho chính phủ đứng vững trước các sức ép từ những doanh
nghiệp khác khi đứng trước sự cần thiết phải thay đổi hoặc điều chỉnh chính
sách cũng như cơ cấu kinh tế. Trong thực tế của nhiều quốc gia, do có những
DNNN mạnh trong nhiều lĩnh vực kinh tế quan trọng, nên các nhóm chính trị
cầm quyền đã đứng vững trước sức ép từ phía các công ty đa quốc gia cũng
như sự chi phối của các quốc gia khác.
- DNNN ở các nước, đặc biệt là xã hội chủ nghĩa thường được giao sứ
mệnh trở thành hình mẫu về hiệu quả sản xuất kinh doanh, mô hình giải quyết
các vấn đề an sinh xã hội cho người lao động. Vai trò này của DNNN ở các
nước xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ quan niệm về tính chủ đạo của kinh tế nhà
nước, theo đó DNNN phải là hình mẫu của các doanh nghiệp khác xét ở nhiều
tiêu chí: đóng góp cho ngân sách, đóng góp cho GDP, công nghệ tiên tiến,
quản lí hiện đại, hiệu quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận cao.
II. Quan niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1. Khái niệm và bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cải cách DNNN từ lâu là mối quan tâm của Đàng và nhà nước ta. Đã có
nhiều giải pháp cải cách được thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990,
Kông Duy Hải

6


KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

tức là đến trước thời điểm thực hiện CPH, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai
nhiều biện pháp nhằm cải tiến quản lí xí nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp
nhà nước theo tên gọi lúc đó). Những biện pháp cải cách tương đối có giá trị
đột phá được quy định trong Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của
Hội đồng Bộ trưởng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy các giải pháp cải cách DNNN được thực hiện
trong thời gian trước 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai trò, hiệu quả của DNNN hầu
như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu quả, thua lỗ, tình trạng lãng phí
tài sản vẫn là những căn bệnh cố hữu của doanh nghiệp nhà nước ta.
Cải cách DNNN có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau. Có những
cách mà nếu thực hiện sẽ dẫn đến sự xóa sổ DNNN như giải pháp bán DNNN
hay nói cách khác là giải pháp tư nhân hóa. Có giải pháp chỉ động chạm đến
cơ chế quản lý DNNN, tức là tăng cường hay giảm bớt quyền chủ động sản
xuất – kinh doanh của chúng trong từng lĩnh vực cụ thể. Có thể mô phỏng các
giải pháp cải cách doanh nghiệp (sắp xếp, đổi mới) nhà nước (cải cách
DNNN) đã được thực hiện như sau:
Bán toàn bộ

Bán DNNN

Bán một phần
Cho thuê DNNN
Cho thuê toàn bộ
Cải cách DNNN


Cổ phần hóa
DNNN

Cho thuê một
phần

Cải cách cơ chế
quản lý DNNN

Kông Duy Hải

7

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

Qua sơ đồ mô phỏng trên, có thể thấy CPH chỉ là một trong những giải
pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN. Tuy nhiên, thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho thấy CPH là giải
pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Những giải
pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý
theo hướng tăng cường quyền tự chủ của DNNN trong một hoặc một số lĩnh
vực cụ thể. CPH doanh nghiệp nhà nước chấp nhận sự dung hòa của nhiều
thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vi mô mà
trước hết là trong các doanh nghiệp. CPH doanh nghiệp nhà nước là giải pháp
làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới ít ai dám nghĩ
đến chứ chưa nói là triển khai nó.

Xét ở bản chất pháp lý, CPH là việc biến doanh nghiệp một chủ thành
doanh nghiệp của nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang
sở hữu chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho
những người khác. Những người này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp
theo tỷ lệ tài sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Xét dưới góc
độ này thì cổ phần hóa dẫn tới sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần
trên nền tảng của doanh nghiệp được cổ phần hóa.
2. Phân biệt cổ phần hóa và tư nhân hóa
Giữa CPH và tư nhân hóa có những điểm khác nhau cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tư nhân hóa được coi là một chính sách và mục tiêu của nó là
hạn chế đến mức tối đa thành phần kinh tế công trong khi đó thì CPH chỉ
được coi là một giải pháp thực hiện.
Thứ hai, tư nhân hóa được thực hiện với nhiều phương thức khác nhau,
trong đó có cả phương thức phi quốc hữu hóa, tức là trả lại cho chủ cũ những
tài sản đã bị quốc hữu hóa, kể cả toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động. CPH
trong khi đó chỉ thực hiện thông qua việc DNNN tiến hành phát hành cổ phần
ra công chúng lần đầu.
Kông Duy Hải

8

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

Thứ ba, tác động của hai giải pháp này hoàn toàn khác nhau cả về mức
độ lẫn tính chất. Tư nhân hóa dẫn đến sự thay đổi hình thức sở hữu của các
DNNN, còn CPH có tác dụng làm giảm sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp
nhà nước. Với tư cách là một chính sách, tư nhân hóa tác động đến toàn bộ

nền kinh tế, còn CPH với tư cách là một giải pháp thực hiện chính sách này
tác động đến các DNNN bị cổ phần hóa
Thứ tư, tư nhân hóa thường được tiến hành trên cơ sở của luật về tư
nhân hóa. Luật này được ban hành để thực hiện các chương trình tư nhân hóa
do chính phủ đề ra. CPH được thực hiện trên cơ sở của luật công ty hiện hành.
Phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây khi tiến hành tư nhân
hóa đều ban hành các luật về tư nhân hóa.
Qua những phân tích ở trên ta có thể thấy rằng: CPH là một phương thức
có điểm gần giống như tư nhân hóa nhưng khác với tư nhân hóa, CPH được
coi là quá trình tư nhân hóa một phần. Nhưng so với tư nhân hóa thì CPH có
những ưu thế nhất định sau đây:
- CPH không làm thay đổi một cách cơ bản kết cấu sở hữu của nền kinh
tế. Vì vậy, nèn tảng kinh tế của xã hội vẫn có thể không thay đổi lớn khi tiến
hành CPH
- Hiệu quả sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước CPH sẽ
được tăng lên và từ đó có thể làm cho chúng có được khả năng thực hiện tốt
hơn vai trò của mình.
- CPH làm phát sinh nhiều công ty cổ phần có sự tham gia của sở hữu
nhà nước. Công ty cổ phần là chủ thể tích cực của nền kinh tế thị trường và sự
có mặt đông đảo của các công ty này sẽ có tác động tốt tới nền kinh tế
- Do chỉ giảm bớt mức độ sở hữu của nhà nước trong các doanh nghiệp
nhà nước CPH mà không loại chúng ra khỏi nền kinh tế nên cổ phần hóa
không làm phát sinh vấn đề việc làm ở mức độ lớn. Đây chính là yếu tố tích
cực của CPH xét ở khía cạnh ổn định xã hội.
Kông Duy Hải

9

KTPT 47A



Chuyên đề tốt nghiệp

- CPH có thể mang lại sự gia tăng vốn đầu tư của DNNN thông qua việc
huy động từ các cổ đông – các chủ sở hữu mới của doanh nghiệp CPH.
3. Các đối tượng cổ phần hóa và các hình thức cổ phần hóa
3.1 Các đối tượng cổ phần hóa
Các đối tượng của CPH được quy định ở Nghị định số 109/2007/NĐ –
CP của Chính phủ ngày 26/06/2007 như sau:
- Các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, Ngành, địa phương
- Công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước (kể cả ngân
hành thương mại)
- Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn,
tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của
Tổng công ty
- Công ty trách nhiệm hữu hạn do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
3.2 Các hình thức cổ phần hóa
Các hình thức CPH được quy định ở Nghị định số 109/2007/NĐ – CP của
Chính phủ ngày 26/06/2007 như sau:
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ
phiều để tăng vốn điều lệ
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệphoặc kết hợp vừa
bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành cổ phiếu để tăng thêm vốn
điều lệ
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa
bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành cổ phiếu để tăng thêm vốn điều lệ
4. Quy trình cổ phần hóa
Quy trình chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần bao gồm các
công việc sau:


Kông Duy Hải

10

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

Bước 1: Xây dựng phương án CPH
- Thành lập Ban chỉ đạo lựa chọn và ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo
cổ phần hóa và Tổ giúp việc.
+ Cơ quan quyết định CPH ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo CPH
đồng thời với quyết định CPH doanh nghiệp.
+ Trưởng ban chỉ đạo việc lựa chọn và ra quyết định thành lập Tổ giúp
việc CPH trong thời gian 5 ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định thành lập.
- Chuẩn bị hồ sơ tài liệu: trong thời gian tối đa 10 ngày làm việc kể từ
ngày có quyết định thành lập Tổ giúp việc CPH, Ban chỉ đạo có trách nhiệm
chỉ đạo Tổ giúp việc cùng với doanh nghiệp tiến hành:
+ Lựa chọn phương pháp, hình thức xác định GTDN. Lựa chọn thời điểm
xác định GTDN phù hợp với điều kiện của DN và các văn bản hướng dẫn
có liên quan đến CPH.
+ Chuẩn bị đầy đủ các tư liệu: các hồ sơ pháp lý về thành lập doanh
nghiệp, các hồ sơ pháp lý về tài sản của DN ; hồ sơ về công nợ; hồ sơ về các
công trình xây dựng cơ bản dở dang, hồ sơ về các khoản đầu tư góp vốn; báo
cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế của công ty đến thời điểm xác định
GTDN, lập danh sách lao động thường xuyên làm việc tại công ty đến thời
điểm có quyết định CPH và phân loại lao động theo các đối tượng hợp đồng
không xác định thời hạn, thời hạn từ 1- 3 năm, lao động dôi dư,…; lập dự

toán chi phí CPH theo quy định.
- Kiểm kê, xử lý những vấn đề tài chính và tổ chức xác định GTDN; Tổ
giúp việc, doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan có liên quan xử lý những vấn
đề tài chính, quyết toán thuế, phối hợp với các cơ quan có liên quan xử lý những
vấn đề tài chính đến thời điểm xác định GTDN. Ban chỉ đạo CPH lựa chọn tổ
chức định giá để giao cho doanh nghiệp ký kết hợp đồng định giá hoặc giao cho
Tổ giúp việc, doanh nghiệp tự xác định GTDN. Ban chỉ đạo thẩm tra kết quả
kiểm kê , phân loại tài sản và kết quả xác định GTDN, báo cáo cơ quan quyết
Kông Duy Hải

11

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

định GTDN và Bộ Tài chính. Thời gian để hoàn tất công việc này không quá 50
ngày làm việc kể từ ngày chuẩn bị xong hồ sơ tài liệu. Trong thời gian không
quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của Ban chỉ đạo CPH, cơ
quan quyết định phải ra quyết định công bố GTDN CPH.
- Hoàn tất phương án CPH:
+ Lập phương án CPH: căn cứ quyết định hiện hành và tình hình thực tế
của doanh nghiệp, Ban chỉ đạo xem xét quyết định thuê tổ chức tư vấn hoặc
giao cho Tổ giúp việc và doanh nghiệp lập phương án CPH. Trong phương án
CPH phải thể hiện được các nội dung chủ yếu: giới thiệu về công ty, mô tả
khái quát quá trình thành lập công ty và mô hình tổ chức công ty trong thời
gian 3 – 5 năm liền kề trước khi tiến hành CPH; đánh giá thực trạng của công
ty ở thời điểm xác định GTDN về tài sản, về tài chính công nợ, về lao động và
những vấn đề cần tiếp tục xử lí; phương án sắp xếp lại lao động bao gồm cả

số lao động tiếp tục tuyển dụng, số lao động dôi dư và phương án giải quyết
theo từng đối tượng, phương án đào tạo lại lao động để bố trí việc làm mới
trong công ty cổ phần; phương án hoạt động sản xuất – kinh doanh trong 3 – 5
năm tiếp theo trong đó nêu rõ: phương án cơ cấu lại doanh nghiệp khi chuyển
thành công ty cổ phần; kế hoạch sản xuất – kinh doanh của các năm tiếp theo
về sản phẩm, sản lượng, thị trường, lợi nhuận,.. và các giải pháp về vốn,
nguyên liệu, tổ chức sản xuất, lao động, tiền lương; phương án cổ phần bao
gồm: hình thức CPH và vốn điều lệ, dự kiến cơ cấu vốn điều lệ (số cổ phần
nhà nước nắm giữ, số cổ phần bán ra ngoài và cho các nhà đầu tư chiến lược,
số cổ phần bán ưu đãi cho người lao động…), phương thức phát hành cổ
phiếu (đấu giá trực tiếp tại công ty hoặc đấu giá thông qua tổ chức tài chính
trung gian hoặc đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán): điều lệ hoạt
động của công ty cổ phần theo các quy định của Luật doanh nghiệp và các
văn bản pháp luật hiện hành.

Kông Duy Hải

12

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

+ Hoàn thiện phương án CPH: căn cứ quyết định công bố GTDN CPH
Tổ giúp việc cùng với doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tư vấn (nếu có)
hoàn thiện phương án CPH và gửi tới từng bộ phận trong công ty để nghiên
cứu trước khi tổ chức Hội nghị công nhân viên chức bất thuwongfm tổ chức
Hội nghị công nhân viên chức bất thường để lấy ý kiến hoàn thiện phương án
CPH; sau Hội nghị công nhân viên chức bất thường, Tổ giúp việc hoàn thiện

phương án CPH trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
+ Phê duyệt phương án CPH: trong thời gian không quá 5 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được báo cáo của Ban chỉ đạo, cơ quan quyết định CPH xem
xét ra quyết định phê duyệt phương án CPH.
Bước 2: Tổ chức bán cổ phần
- Ban chỉ đạo CPH lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định
- Tổ chức bản cổ phần:
+ Trường hợp đấu giá trực tiếp tại công ty: Ban chỉ đạo CPH và doanh nghiệp
tổ chức bán đấu giá cổ phần cho nhà đầu tư đồng thời xác định giá đấu thành công
bình quân để bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược.
+ Trường hợp đấu giá thông qua tổ chức tài chính trung gian: Ban chỉ
đạo CPH và doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tài chính trung gian thực hiện
việc bán cổ phần theo quy định
+ Trương hợp đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán: Ban chỉ đạo
CPH được quyền đăng kí trực tiếp hoặc thuê tổ chức trung gian đăng kí và
phối hợp với trung tâm giao dịch chứng khoán đề bán cổ phần.
- Tổng hợp kết quả bán cổ phần báo cáo cơ quan quyết định CPH
- Báo cáo cơ quan quyết định CPH ra quyết định điều chỉnh quy mô, cơ
cấu cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa đối với trường hợp không bán cổ
phần cho các đối tượng theo đúng phương án CPH được phê duyệt.
Bước 3: Hoàn tất việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần
- Ban chỉ đạo, Tổ giúp việc và doanh nghiệp tổ chức Đại hội đồng cổ
Kông Duy Hải

13

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp


đông lần thứ nhất đề thông qua điều lệ tổ chức và hoạt động, phương án sản
xuất – kinh doanh, bầu hội đồng quản trị, ban kiểm soát và bộ máy điều hành
công ty cổ phần.
- Thực hiện đăng kí kinh doanh, nộp con dấu của doanh nghiệp cũ và xin
khắc dấu của công ty cổ phần
- Lập báo cáo tài chính tại thời điểm công ty cổ phần được cấp giấy
chứng nhận đăng kí kinh doanh lần đầu, thực hiện quyết toán thuế, quyết toán
chi phí CPH, báo cáo quyết định CPH. Nộp tiền thu CPH về công ty, tổng
công ty hoặc quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại Bộ Tài chính.
5. Các chủ trương, chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp của
nhà nước
Văn bản pháp luật đầu tiên về CPH doanh nghiệp nhà nước là Quyết
định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990. Quyết định số 143/HĐBT đã đưa ra một
số điều kiện để chọn các DNNN làm thí điểm CPH. Tuy nhiên, trong hai năm
1990 và 1991, việc CPH doanh nghiệp nhà nước được chọn làm thí điểm cũng
không thực hiện được. Chỉ một vài DNNN trong diện được lựa chọn thí điểm
tiến hành CPH. Quyết định số 143/HĐBT chưa tạo được những cơ sở pháp lý
đầy đủ cho CPH. Hơn nữa, các tiêu chí cho việc chọn DNNN thí điểm CPH
hoàn toàn dựa vào mong muốn chủ quan của doanh nghiệp, ý chí của chủ sở
hữu không được thể hiện rõ. Theo quyết định này, chỉ những DNNN kinh
doanh có lãi, tập thể doanh nghiệp đoàn kết và có khả năng mua cổ phần mới
được tiến hành CPH. Thực tế này cho thấy, pháp luật ở thời điểm này chỉ mới
khai sinh khái niệm CPH. Những quy định cụ thể về CPH chưa xuất hiện và
điều này cũng chứng tỏ đây đây chỉ mới là những bước đi đầu tiên của CPH.
Tiếp theo Quyết định số 143/HĐBT, Chính phủ ban hành Chỉ thị
2002/CP ngày 6/8/1992 và sau đó vài tháng ban hành tiếp chỉ thị số 84/TTg
ngày 4/3/1993 về việc CPH doanh nghiệp nhà nước.
Kông Duy Hải


14

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

Sau ba năm thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp nhà nước, ngày
7/5/1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP về “chuyển một số doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần”. Chưa đầy một năm sau đó, Chính
phủ ban hành tiếp Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 sửa đổi một số điều
của Nghị định số 28/CP. Các quy định của Nghị định số 28/CP và 25/CP đã
tạo ra được những cơ sở pháp lý khá vững chắc để chuyển các DNNN sang
hình thức công ty cổ phần đã được Luật công ty năm 1990 xác định. Các văn
bản này đã quy định mục tiêu, điều kiện, thủ tục CPH, thẩm quyền cho phép
CPH, quyền và lợi ích của người lao động khi DNNN được CPH.
Ngày 29/6/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/CP về chuyển
DNNN thành công ty cổ phần. Khác với Nghị định 28/CP, Nghị định số 44/CP
có thêm các quy định về hình thức CPH, các vấn đề liên quan đến định giá tài
sản của doanh nghiệp nhà nước CPH. Chính nhờ những quy định này nên việc
CPH được tiến hành trên cơ sở pháp lý vững chắc hơn. Việc ban hành Nghị
định số 44/CP trong thực tế đã thúc đẩy CPH tiến nhanh hơn một bước.
Tốc độ CPH sau Nghị định số 44/CP tuy được đẩy nhanh hơn nhưng với
số lượng gần 600 DNNN đang tồn tại ở thời điểm đó, có thể thấy đổi mới, sắp
xếp doanh nghiệp nhà nước không tiến triển đáng kể. Để tạo thêm động lực
cho tiến trình CPH, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ – CP
ngày 19/6/2002 về việc chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định
số 64/2002/ NĐ – CP đã điều chỉnh một số vướng mắc mà trước đây không
thể giải quyết được. Đó là những vấn đề liên quan đến định giá tài sản
DNNN, việc xử lý nợ của DNNN trước khi CPH, vần đề phát hành cổ phần.

Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ – CP ngày
16/11/2004 bổ sung đối tượng CPH là các công ty nhà nước có quy mô lớn,
kể cả các tổng công ty nhà nước, đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục các bất
cập trong cơ chế CPH DNNN trước đây, đồng thời cũng bổ sung các giải
Kông Duy Hải

15

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

pháp để tháo gỡ vướng mắc cho các doanh nghiệp sau khi chuyển thành công
ty cổ phần. Quy định rõ đối tượng và điều kiện CPH, bổ sung các giải pháp
xứ lý các tồn tại về tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước trước khi CPH,
hoàn thiện cơ chế định giá và bán cổ phần theo hướng gắn với thị trường và
đảm bảo tình khách quan, minh bạch.
Ngày 26/06/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 109/2007/NĐ – CP
về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần
nhằm thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-CP (16/11/2004) nhằm mục tiêu
chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà
nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp. Thực
hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng
CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn,
thị trường chứng khoán… Sự ra đời của Nghị định 109/2007/NĐ-CP là một
tất yếu khách quan, phù hợp với thực tế và đồng bộ với các quy định mới nhất
của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Chứng khoán 2006. Nghị định mới bổ
sung thêm đối tượng cổ phần hoá là: Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, công ty

mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con, công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà
nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Khác với Nghị định 187/2004/NĐ-CP, Nghị
định mới đã mở rộng đối tượng nhà đầu tư chiến lược, không chỉ có các nhà
đầu tư trong nước, mà bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời xoá bỏ cơ
chế ưu đãi giảm 20% giá bán cổ phần so với giá đấu bình quân Đặc biệt, Nghị
định lần này đã tập trung chủ yếu vào xác định giá trị DN, điều mà bấy lâu luôn
là vấn đề bức xúc trong dư luận về việc xác định giá trị DN khi CPH quá thấp,
gây thiệt hại cho Nhà nước và làm lợi cho một bộ phận cá nhân,…
III. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
1. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước
Sự phát triển của DNNN ở Việt Nam bắt đầu từ những xí nghiệp nhà
nước được thành lập sau Cách mạng tháng Tám bằng con đường quốc hữu
Kông Duy Hải

16

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

hóa. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1945-1960 số lượng các DNNN còn hạn chế.
Sự phát triển DNNN ồ ạt về số lượng diễn ra sau khi đất nước thống nhất,
nhất là khi có chủ trương tăng cường xây dựng cấp huyện. Các DNNN trực
thuộc cấp huyện được thành lập rất nhiều. Năm 1993 cả nước có hơn 12.000
DNNN và tính đến tháng 6 năm 2008 thì số lượng doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước hiện còn khoảng 1.720 đơn vị, bao gồm: 7 tập đoàn kinh tế, 86 tổng
công ty nhà nước và 1.099 công ty nhà nước độc lập. Tuy số lượng DNNN đã
giảm song con số này vẫn còn lớn đối với nền kinh tế nước ta hiện nay.
1.1 Thành tựu đạt được

Cũng như doanh nghiệp nhà nước ở nhiều nước trên thế giới, doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam cũng gặp phải những vấn đề về hiệu quả. Ngay
từ những năm 60, 70 thế kỷ XX hiệu quả thấp trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các xí nghiệp quốc doanh đã được đặt ra như là một vấn đề bức
xúc. Tình trạng kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của đơn vị kinh tế
này kéo dài trong nhiều năm.
Để khắc phục tình trạng yếu kém của DNNN làm hạn chế đến vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều cuộc cải
cách khác nhau. Nhiều nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
đặt vấn đề tiến hành cải tiến quản lý DNNN mà lúc đó được gọi là xí nghiệp
quốc doanh. Nhưng do cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, nhu cầu cải
cách triệt để DNNN chưa được đặt ra. Cùng với việc chuyển sang nền kinh
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để lành mạnh hóa thực
trạng của DNNN, tạo sức sống mới cho nền kinh tế, nhiều biện pháp sắp xếp,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN đã được thực hiện, đặc
biệt là từ năm 1990 trở lại đây. Qua hơn 18 năm cải cách, sắp xếp, đổi mới
DNNN đã có những bước phát triển tốt hơn ngay cả khi đối mặt với những
thách thức của cơ chế mới. Những bước phát triển này thể hiện ở các khía
cạnh sau:
Kông Duy Hải

17

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

- DNNN vẫn chi phối được những ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt
của nền kinh tế, góp phần để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, giữ tỷ trọng

lớn trong xuất khẩu, thu nộp ngân sách, hợp tác đầu tư với nước ngoài, bảo
đảm các dịch vụ công ích, phục vụ tốt cho an ninh quốc phòng của đất nước.
Năm 2008, khu vực doanh nghiệp nhà nước đóng góp 28,8% tổng thu nội địa
(không kể dầu thô và thuế xuất nhập khẩu), góp phần ổn định nguồn thu
- Số lượng DNNN giảm từ 5.655 (năm 2000) xuống còn 1.720 vào năm
2008 nhưng năng lực sản xuất xét trên tổng thể vẫn tăng. Tổng hợp báo cáo
của 7 tập đoàn, 11 tổng công ty 91 và 56 tổng công ty 90 trong 6 tháng đầu
năm 2008, tổng doanh thu đạt 510.811 tỉ đồng đạt 59,3% kế hoạch năm, tăng
50,8% so với cùng kì năm 2007. Trong đó, 18 tập đoàn, tổng công ty 91 đạt
367.667 tỉ đồng, đạt 62% kế hoạch năm, tăng 55% so với cùng kí năm 2007.
Những tập đoàn, tổng công ty nhà nước có mức doanh thu cao là: Tập đoàn
Dầu khí đạt 76% kế hoạch năm, tăng 68,8% so với cùng kì năm 2007; Tổng
công ty May động lực và máy nông nghiệp đạt 84% kế hoạch năm, tăng
65,8% so với cùng kì năm 2007,…
- Tổng lợi nhuận trước thuế đạt 76.329 tỉ đồng, đạt 53,5% kế hoạch năm,
tăng 72% so với cùng kì năm 2007. Trong đó, 18 tập đoàn, tổng công ty 91
đạt 68.956 tỉ đồng đạt 54% kế hoạch năm, tăng 73% so với cùng kì năm 2007.
Những tập đoàn, tổng công ty nhà nước đạt lợi nhuận trước thuế cao là: Tập
đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam đạt 51% kế hoạch năm, tăng 12,5% so với
cùng kì năm 2007; Tập đoàn Dầu khí đạt 55,8% so với kế hoạch năm,…
- Tổng nộp ngân sách 78.066 tỉ đồng, đạt 68,4% kế hoạch năm, tăng
58,6% so với cùng kì năm 2007. Trong đó, 18 tập đoàn, tổng công ty 91 đạt
62.484 tỷ đồng, bằng 70% kế hoạch năm, tăng 62% so với cùng kì năm 2007.
Những tập đoàn, tổng công ty nhà nước có mức nộp ngân sách cao là : Tập
đoàn Dầu khí đạt 75% kế hoạch năm, tăng 18% so với cùng kì năm 2007; Tập
đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đạt 66% kế hoạch năm, tăng
35% so với cùng kì năm 2007.
Kông Duy Hải

18


KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

- DNNN đang dần thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm được nâng cao, vốn được
bảo toàn và phát triển. Tổng số vốn nhà nước tại 7 tập đoàn, 11 tổng công ty
91 và 56 tổng công ty 90 trong 6 tháng đầu năm 2008 la 402.815 tỷ đồng.
Trong đó vốn nhà nước tại 18 tập đoàn, tổng công ty 91 là 296.600 tỷ đồng.
- Nhiều DNNN đã tăng được khả năng cạnh tranh và khả năng hội nhập
quốc tế
1.2 Những hạn chế
Nếu xét một cách toàn diện thì những thành tựu trên của DNNN vẫn
chưa thể khắc phục được những tồn tại của chúng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Số lượng DNNN tính đến tháng 6 năm 2008 còn lại 1.720 doanh
nghiệp. Đây là sự giảm đáng kể về số lượng của DNNN trong những năm vừa
qua. Thế nhưng ngay cả con số này vẫn là lớn so với tổng số vốn mà hiện nay
DNNN đang nắm giữ, so với nến kinh tế có tổng thu nhập quốc dân khoảng
70 tỷ đô la Mỹ. Sự phát triển không bình thường về lượng cộng với những
bất cập trong cơ chế quản lý đã dẫn DNNN tới những hạn chế sau đây.
Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa tương xứng với
vị trí và sự đầu tư của ngân sách. Các DNNN đang chiếm giữ tới 80% lượng
vốn tín dụng của các ngân hàng trong nước; 70% vốn vay nước ngoài, trong
khi chỉ tạo ra 40% GDP, chưa kể trong 40% GDP ấy, phần lớn có được nhờ
đặc quyền khai thác các tài nguyên quốc gia. Có những tập đoàn như
Vinashin, nói là phát triển công nghiệp đóng tàu, nhưng đất đai có đủ “trên
rừng, dưới biển”. Chưa kể, vô số công ty to nhỏ, kinh doanh “thượng vàng hạ
cám”, khai thác “thương hiệu” Vinashin. Năm 2007, tập đoàn này được ưu

tiên khai thác 750 triệu USD từ nguồn tiền bán trái phiếu chính phủ. Gần đây,
Vinashin lại được bảo lãnh để vay 2 tỉ USD từ một ngân hàng nước ngoài.
Thật khó biết hiệu quả của những đồng vốn ấy, vì không có các số liệu tài
chính minh bạch. Vinashin chỉ là một ví dụ, phần lớn nguồn vốn của xã hội
Kông Duy Hải

19

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

đang tập trung vào khu vực này. Hiện còn nhiều DNNN chưa kiểm toán có
lãi, nhưng lợi nhuận vẫn thấp hơn lãi suất ngân hàng, nhiều doanh nghiệp
sống dựa vào việc cho thuê mặt bằng, còn kinh doanh thực tế không hiệu quả.
Chỉ tính 76 tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước hiện được giao xấp xỉ
403 ngàn tỷ đồng, không kể 514 ngàn tỷ đồng tiền vay (trong đó, phần nhiều
được Chính phủ bảo lãnh), nhưng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ hữu của khối
này chỉ đạt 17,04%, thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp dân doanh và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Thêm nữa, trong khi doanh
nghiệp FDI xuất siêu 5,2 tỷ USD thì khối DNNN lại nhập siêu đến 21 tỷ
USD.Ngoài ra, tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh của các DNNN
chỉ là 3,52% mặc dù đã được hưởng rất nhiều ưu đãi trong khi đó thì khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài là 13,15%. Thêm vào đó, tình trạng nợ vay của các
DNNN đang ở mức nguy hiểm, nhiều tập đoàn nhà nước thi đua vay, nhà nhà
đi vay, người người đi vay. Hiện, số dư nợ của nhóm các công ty thuộc Bộ
Giao thông Vận tải ước tính lên tới trên 12.300 tỷ đồng, chủ yếu là nợ xấu;
Các công ty xây dựng cũng có số nợ xấu ước tính trên 2.000 tỷ đồng. Nhóm
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, chế biến nông sản,

may mặc, cung ứng vật tư nông nghiệp, in ấn và bao bì, mía đường... thuộc sự
quản lý nhà nước của các tỉnh, thành phố ước tính có số nợ xấu là 2.500-3.000
tỷ đồng
Thứ hai, trình độ kĩ thuật, công nghệ lạc hậu là cản trở lớn nhất đối với
khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Phần lớn các DNNN được trang bị
máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau, điền hình là từ các nước như Liên
Xô cũ, các nước Đông Âu, các nước ASEAN,.. và thuộc nhiều thế hệ khác
nhau. Số máy móc thiết bị có tuổi trung bình cao nằm hầu hết tại các DNNN.
Theo số liệu của Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường qua khảo sát các xí
nghiệp thuộc nhiều ngành trên cả nước thì máy móc thiết bị, dây chuyền sản
xuất của nước ta lạc hậu so với thế giới từ 10 – 20 năm, mức độ hao mòn hữu
Kông Duy Hải

20

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

hình từ 30 – 50%. Mặt khác do hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp nên thời
gian khấu hao TSCĐ kéo dài bình quân từ 10 – 12 năm, trong khi mức khấu
hao bình quân của khu vực và trên thế giới là 7 -8 năm. Hậu quả là khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước của các sản phẩm
làm ra thấp, nhiều mặt hàng tồn tại được là do chính sách bảo hộ của Nhà
nước thông qua thuế nhập khẩu cao. Một số mặt hàng sản xuất trong nước
như: sắt, thép, phân bón, xi măng.. có mức giá cao hơn giá mặt hàng cùng loại
nhập khẩu.
Thứ ba, DNNN còn nhỏ về quy mô. Theo số liệu được cung cấp bởi
Tổng cục Thống kê , xét theo quy mô vốn thì số DNNN có vốn dưới 1o tỷ

đồng chiếm khoảng 21,37% ; số DNNN có vốn từ 10 – 200 tỷ chiếm 61,83%,
một con số khá cao. Trong khi đó thì chỉ có khoảng 16,80% DNNN có vốn
trên 200 tỷ. Xét theo quy mô lao động thì số DNNN có quy mô nhỏ và vừa
chiếm một tỷ lệ rất cao. Số DNNN có lao động dưới 300 người chiếm
65,46%; có lao động từ 300 – 1000 người chiếm 24,06%. Trong khi đó thì số
DNNN có quy mô lao động từ 1000 người trở lên chỉ chiếm 10,48%.
Thứ tư, cơ chế quản lí Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như cơ chế
quản lí trong bản thân doanh nghiệp cồng kềnh và thiếu hiệu quả. Quản lí vĩ
mô DNNN chưa hiệu quả, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của nền kinh
tế, của việc nâng cao hiệu quả của DNNN.
Chế độ chủ quản đối với DNNN, chế độ chức năng đối với DNNN rất
nhiều tầng cấp khiến chúng bị ràng buộc bởi quá nhiều yêu cầu và đòi hỏi
khác nhau. Trong lúc đó, lợi ích của người lao động trong DNNN chưa trở
thành động lực thúc đẩy họ lao động tốt hơn, gắn với doanh nghiệp một cách
chặt chẽ hơn.
Thứ năm, cơ cấu phân bố chưa hợp lí. Còn khá nhiều DNNN hoạt động
trong các lĩnh vực mà trong đó chúng khó có thể cạnh tranh được trong
những dịch vụ thông thường. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy DNNN được
Kông Duy Hải

21

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

phân bổ không hợp lí theo địa phương, theo ngành. Có những địa phương,
ngành như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, ngành công nghiệp,
thương mại DNNN tập trung với số lượng lớn trong lúc đó nhiều địa phuơng

lại có rất ít các DNNN.
2. Cổ phần hóa đặt ra do yêu cầu sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu
quả của doanh nghiệp nhà nước
Duy trì một thành phần kinh tế công có hiệu quả, có khả năng chi phối
nền kinh tế là một trong những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, kinh tế công và DNNN ở nước ta đang
trong mâu thuẫn giữa sứ mệnh và thực trạng. Những phân tích về các căn
bệnh trầm kha của DNNN trong tất cả các quốc gia về cơ bản cũng đúng với
các DNNN Việt Nam. Bên cạnh đó, do hoạt động lâu trong một nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung nên những biểu hiện của các căn bệnh này thậm chí còn
rõ rệt và trầm trọng hơn. Tính tất yếu của DNNN và thực trạng kém hiệu quả
của chúng buộc phải có những biện pháp cải cách hữu hiệu. Chúng ta không
chấp nhận phát triển kinh tế nhà nước và tập thể với bất kỳ giá nào. Cải cách
DNNN là xu thế khách quan của các quốc gia hiện nay. Tuy nhiên giải pháp
chủ yếu nào cho cải cách DNNN và thành phần kinh tế công phụ thuộc vào
mô hình kinh tế xã hội mà mỗi quốc gia lựa chọn. Đối với Việt Nam, CPH là
giải pháp tối ưu cho quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN
bởi những lí do sau:
- Thứ nhất, mâu thuẫn nội tại giữa tính tất yếu của một thành phần kinh
tế công hiệu quả và có khả năng chi phối với thực trạng kém hiệu quả và có
khả năng chi phối với thực trạng kém hiệu quả của DNNN Việt Nam hiện nay
- Thứ hai, CPH là giải pháp nhằm giảm bớt sự có mặt của sở hữu nhà nước
trong các doanh nghiệp, nhất là các DNNN không cần nắm. Vì vậy, trên bình
diện vĩ mô, DNNN vẫn tồn tại trong những hình thức mới chứ không chuyển
hóa gần hết vào thành phần kinh tế tư nhân giống như hậu quả của tư nhân hóa.
Kông Duy Hải

22

KTPT 47A



Chuyên đề tốt nghiệp

- Những hình thức tồn tại mới của DNNN cho phép doanh nghiệp tự chủ
hơn, trở thành chủ thể thị trường thực sự hơn. Quan trọng hơn, thông qua cơ
chế cổ phần, DNNN c sẽ trở nên có hiệu quả hơn trong nền kinh tế cạnh tranh
- Cho đến nay, đổi mới DNNN đã thực hiện qua nhiều giai đoạn với
nhiều biện pháp, nhiều hình thức khác nhau song đều không cải thiện được
đáng kể tình trạng yếu kém của DNNN
- Sự thành công của chương trình CPH doanh nghiệp ở Trung Quốc cho
thấy CPH là giải pháp cải cách DNNN khá toàn diện song không mang tính tư
nhân hóa.
3. Tác động của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
CPH có vai trò to lớn trong việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nhất là
ở những nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác dụng của cổ phần hóa thể
hiện ở một số khía cạnh sau đây:
- CPH có tác dụng làm cho sở hữu trong doanh nghiệp trở nên đa dạng
hơn. Chính vì vậy, nó giải quyết được khá triệt để vấn đề sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước vốn gây ra những vướng mắc về hiệu quả và sự kém năng
động trong sản xuất kinh doanh
- CPH có tác dụng trong việc xã hội hóa tư liệu sản xuất trong các doanh
nghiệp thuộc sở hữu một chủ. Như vậy, các thực thể kinh tế vi mô cũng trở
nên đa sở hữu như bản thân nền kinh tế vĩ mô. Điều này tạo ra sự tương thích
nhất định của các giải pháp quản lý vĩ mô và vi mô
- CPH tạo cho những người lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh
nghiệp nếu như họ mong muốn. Bằng việc sở hữu cổ phần (hay vốn góp) trong
doanh nghiệp, người lao động có thể tham gia vào việc quyết định các vấn đề
quan trọng của doanh nghiệp thông qua cái gọi là “nền dân chủ cổ phần”. Họ

góp phần hình thành nên các cơ quan quản lý doanh nghiệp, quyết định các vấn
đề trọng đại của nó. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ
động, tích cực của người lao động không chỉ đối với các vấn đề của doanh
Kông Duy Hải

23

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

nghiệp mà cả đối với các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Ngoài ra, CPH doanh nghiệp nhà nước còn có những tác động to lớn, cụ
thể như sau:
3.1 Cổ phần hóa với tăng trưởng kinh tế
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra chỉ tiêu tăng trưởng GDP
tổng quát cho giai đoạn 2001 – 2005 theo đó nền kinh tế tăng ở mức 7,5% đến
8% mỗi năm. Việc thực hiện chỉ tiêu này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong
đó có yếu tố quyết định là hiệu quả của khu vực kinh tế công mà nòng cốt là
DNNN. Điều này cũng có ý nghĩa là CPH doanh nghiệp nhà nước có tác động
rất lớn đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng này.
Một thực tế khó có thể phủ nhận là tốc độ và tính bền vững của sự tăng
trưởng kinh tế ở nước ta phụ thuộc rất nhiều vào khu vực kinh tế nhà nước.
Với tỷ trọng vốn và các nguồn lực khác được đầu tư, quy mô lao động,tiềm
năng về khoa học công nghệ, chất xám và ưu thế về thị trường của khu vực
kinh tế nhà nước hơn hẳn so với các thành phần kinh tế khác, tăng trưởng của
khu vực kinh tế nhà nước là một yếu tố quyết định trực tiếp đến sự tăng
trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo và đổi mới và
phát triển, DNNN hiện nắm khoảng 60% tài sản của đất nước, tạo ra 37,39%

GDP, sử dụng 1,9 triệu lao động trong tổng số 6,7 triệu lao động của tất cả
các doanh nghiệp.
Thứ nhất, kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy ở các nước
có thành phần kinh tế công lớn thì tốc độ tăng trưởng không cao. Chính vì thế,
đối với đất nước ta, muốn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì cần cơ cấu
lại thành phần kinh tế này. Phân tích của các nhà kinh tế cho thấy ở Trung
Quốc giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ CPH tỷ lệ thuận với nhau rất
rõ. Sở dĩ như vậy do là CPH sàng lọc và đào thải những doanh nghiệp kém
hiệu quả, tạo môi trưởng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và động lực phát
triển. Những DNNN kinh doanh không hiệu quả phần lớn là do khâu quản lý
kém, bộ máy điều hành thiếu năng động, sángtạo hoặc thiếu vốn. Khi chuyển
thành công ty cổ phần, lợi ích sở hữu sẽ phát huy sức mạnh và trí tuệ của các
Kông Duy Hải

24

KTPT 47A


Chuyên đề tốt nghiệp

cổ đông tham gia vào việc quản lý và sử dụng hợp lí hơn, hiệu quả hơn nguồn
lực của các doanh nghiệp CPH.
Thứ hai, việc giảm số lượng các DNNN thuần túy, tức là doanh nghiệp
100% vốn nhà nước sẽ giảm bớt được một khoản bổ sung vốn từ ngân sách cho
những doanh nghiệp này để dành đầu tư vào những nhu cầu phát triển khác.
Thứ ba, thông qua cổ phần hóa, Nhà nước thu được một phần giá trị tài
sản nhà nước trước đây giao cho các doanh nghiệp quản lý nhưng sử dụng
kém hiệu quả. Khoản tiền này sẽ được đầu tư trở lại để phát triển doanh
nghiệp, làm tăng phần giá trị tài sản còn lại của Nhà nước tại các doanh

nghiệp đó, đảm bảo quyển lợi cho các cổ đông khác, cho người lao động cũng
như giải quyết các vấn đề phát sinh từ quá trình CPH.
Thứ tư, cùng với việc giảm đầu mối DNNN sẽ làm giảm nhu cầu hỗ trợ
và ưu đãi về tín dụng của nhà nước. Đặc biệt nó sẽ làm giảm áp lực vay vốn
lên các ngân hàng thương mại quốc doanh và các quỹ tín dụng nhà nước.
Thực trạng tài chính của các ngân hàng này được lành mạnh hóa và cơ hội để
để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tiếp cận nguồn vốn
vay sẽ mang tính bình đẳng và thị trường hơn.
Thứ năm, CPH doanh nghiệp nhà nước gắn liền với sự xuất hiện của hàng
loạt công ty cổ phần. Sự tồn tại của công ty cổ phần với cơ chế lưu chuyển cổ
phần thông qua thị trường chứng khoán tạo ra quá trình luân chuyển vốn từ nơi
không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao hơn. Toàn bộ các
nguồn lực xã hội nằm trong các công ty cổ phần sẽ được sử dụng có hiệu quả
hơn. Cũng thông qua việc phát hành cổ phần, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng thu
hút các nguồn vốn trong xã hội cho phát triển kinh tế. Nguồn lực này còn được
mở rộng đáng kể khi nhà nước chi phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài được
mua cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước CPH
Cuối cùng, với việc chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần, nhờ vào
những lợi thế sẵn có của mình và những hỗ trợ ban đầu về cơ chế, chính sách
của nhà nước, nếu biết tận dụng tốt thì các công ty này sẽ làm ăn rất hiệu quả,
nhanh chóng vươn lên và chiếm lĩnh thị trường. Chính chúng sẽ tạo áp lực
Kông Duy Hải

25

KTPT 47A


×