Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Chế độ pháp lý về hoạt động tín dụng và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng TMCP đông nam á chi nhánh ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.21 KB, 89 trang )

Chuyên đề thực tập

1

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ngày càng phát triển, mở
rộng mạng lưới của mình cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá. Các NHTM
đã trở thành các tổ chức trung gian tài chính quan trọng có nhiệm vụ chuyển vốn từ
những nơi thừa sang những nơi thiếu, đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của các
doanh nghiệp. Nhất là tại các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam,
NHTM thực sự đóng một vai trò rất quan trọng bởi nó đảm nhận vai trò giữ cho
mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và chỉ có vậy mới góp phần
bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu.
Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, sản xuất hàng hoá phát triển nhanh làm cho các doanh nghiệp tích luỹ vốn
không kịp để mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu về vốn luôn là vấn đề đau đầu
của các doanh nghiệp. Chính vì lý do đó mà các doanh nghiệp luôn luôn có nhu cầu
cần vay vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hiện nay, ở nước ta chủ
yếu là hoạt động tín dụng ngân hàng thực hiện nhiệm vụ này.
Hoạt động tín dụng - một trong những hoạt động mang tính truyền thống của
ngân hàng là hoạt động mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng, tuy nhiên đây
là cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong các hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng. Sự phát triển của hoạt động tín dụng như hiện nay cùng với vấn đề
làm thế nào để hạn chế được những rủi ro trong hoạt động tín dụng đã đặt ra yêu
cầu cho nhà làm luật là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật pháp luật ngân hàng, xây
dựng một hệ thống pháp luật có hiệu quả và đảm bảo an toàn. Trong đó cần chú
trọng xây dựng các quy chế pháp lý về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng
(HĐTD).
Mặc dù hiện nay, các quy định về giao kết thực hiện HĐTD đã được quy


định trong nhiều văn bản, đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần song vẫn không
tránh được những điểm bất cập so với thực tiễn. Nhất là từ khi Việt Nam chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày
11/1/2007, hoạt động tín dụng ngân hàng ở Việt Nam đã có được nhiều cơ hội thuận
lợi để phát triển nhưng cũng gặp không ít khó khăn thách thức, nhất là trong cạnh
tranh. Bởi vậy cần có sự thay đổi và hoàn thiện hơn nữa trong hệ thống pháp luật về
ngân hàng, đặc biệt là trong giao kết và thực hiện HĐTD để có thể phù hợp và đáp
ứng được với những yêu cầu đổi mới, tăng khả năng cạnh tranh của các ngân hàng
trong nước với các ngân hàng nước ngoài.
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập

2

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

Chính vì những lý do này mà em đã lựa chọn đề tài chuyên đề thực tập của
mình là “ Chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng đối với khách hàng là cá nhân và
thực tiễn áp dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á - chi nhánh
Ba Đình”
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, chuyên
đề được chia ra làm ba chương:
Chương I: Khái quát về hợp đồng tín dụng và pháp luật về hợp đồng tín
dụng.
Chương II: Thực tiễn áp dụng pháp luật về HĐTD đối với khách hàng
là cá nhân tại ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á (ngân hàng TMCP
ĐNA) - chi nhánh Ba Đình.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả

pháp luật về HĐTD.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của ThS Nguyễn
Anh Tú và các anh chị phòng tín dụng ngân hàng TMCP Đông Nam Á – chi nhánh
Ba Đình đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập

HĐTD
TCTD
NHTM
NHNN
BLDS
Ngân hàng TMCP ĐNA
SeABank
NHNo
Agribank
HĐQT
WTO
NĐ 178
NĐ 163
QĐ 1627

QĐ 502

QĐ 1908


3

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

Hợp đồng tín dụng
Tổ chức tín dụng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Bộ luật Dân sự
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Hội đồng quản trị
Tổ chức thương mại thế giới
Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay
của tổ chức tín dụng
Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về
giao dịch bảo đảm
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ban hành
ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng
Quyết định 502/2007/QĐ-HĐQT ngày
12/11/2007 về việc ban hành Quy chế cho vay của
SeABank
quyết định 1908/2008/QĐ-TGĐ về ban hành
quy trình kiểm tra, giám sát vốn vay của SeABank

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

1. Khái quát chung về HĐTD
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập

4

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

1.1 Khái niệm HĐTD
Điều 388 BLDS 2005 đã đưa ra khái niệm hợp đồng dân sự như sau: “Hợp
đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Xét dưới khía cạnh pháp lý, hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận bằng
lời nói hoặc văn bản giữa hai hay nhiều chủ thể có đủ năng lực pháp luật và năng
lực hành vi, nhằm xác lập, thực hiện hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý
nhất định trên cơ sở phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
Từ quan niệm chung này về hợp đồng có thể đưa ra định nghĩa về HĐTD căn
cứ vào bản chất của hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng (TCTD) như sau:
“Hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng
(bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay),
theo đó tổ chức tín dụng thoả thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dựa trên sự
tín nhiệm”1.
Trong cuốn Quản trị ngân hàng thương mại, PGS.TS Nguyễn Thị Mùi đưa ra
định nghĩa về HĐTD như sau:
“Hợp đồng tín dụng/hợp đồng bảo đảm tiền vay là văn bản pháp lý thể hiện
mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người đi vay, là cơ sở pháp lý để ngân
hàng thực hiện cho vay, quản lý khoản vay, thu hồi nợ và xử lý các khiếu kiện/tranh

chấp (nếu có)”2.
1.2 Đặc điểm của HĐTD
Ngoài những dấu hiệu chung có ở mọi loại hợp đồng, so với các loại hợp
đồng khác trong giao dịch dân sự và thương mại thì HĐTD có những đặc trưng sau:
- Thứ nhất, xét về mặt chủ thể, một bên tham gia HĐTD bao giờ cũng là
TCTD với đủ các điều kiện do luật định, với tư cách là bên cho vay, thực hiện hành
vi cho vay mang tính chuyên nghiệp. Còn chủ thể bên kia (bên vay) có thể là những
tổ chức, cá nhân thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định.
- Thứ hai, xét về mặt đối tượng, đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là tiền
(bao gồm tiền mặt và bút tệ). Về nguyên tắc, đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là
một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận, ghi rõ trong văn bản hợp
1

Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân năm
2005, trang 133
2
Quản trị ngân hàng thương mại – Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Mùi, nhà xuất bản Tài chính năm 2006,
trang 31

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập

5

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

đồng.
- Thứ ba, xét về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ, trong HĐTD, nghĩa vụ

chuyển giao tiền vay (nghĩa vụ giải ngân) của bên cho vay bao giờ cũng phải được
thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên
vay. Do đó, chỉ khi nào bên cho vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao tiền
vay theo đúng HĐTD cho bên vay thì khi đó họ mới có quyền yêu cầu bên vay thực
hiện nghĩa vụ đối với mình. Các nghĩa vụ này bao gồm các nghĩa vụ chính như sử
dụng tiền vay đúng mục đích; nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi đúng thời hạn
đã cam kết trong hợp đồng…
- Thứ tư, hình thức của HĐTD là bắt buộc bằng văn bản, không thể bằng lời
nói hay hành vi như trong hợp đồng dân sự. Điều này được quy định tại điều 17
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ban hành ngày 31/12/2001 về quy chế cho
vay của TCTD đối với khách hàng (gọi tắt là QĐ 1627).
“Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành
hợp đồng tín dụng.”
- Thứ năm, HĐTD chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên
cho vay. Điều này được giải thích là vì theo cam kết trong HĐTD, bên cho vay chỉ
có thể đòi tiền bên vay sau một thời hạn nhất định. Trong thời gian đó, nếu khách
hàng gặp khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi sẽ dẫn đến khó khăn trong
việc trả nợ. Việc thu hồi tín dụng không những phụ thuộc vào bản thân khách hàng
mà còn phụ thuộc vào cả môi trường hoạt động ngoài tầm kiểm soát của khách hàng
như sự biến động về giá cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị trường,
thiên tai…Như vậy, thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng
cao và ngược lại, thời hạn cho vay ngắn hơn thì nguy cơ rủi ro cũng sẽ thấp đi. Vì
thế các tranh chấp phát sinh từ HĐTD cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn
hơn so với đa số các loại hợp đồng khác.
- Thứ sáu, HĐTD thường nhằm mục đích lợi nhuận, trường hợp không nhằm
mục đích lợi nhuận là trường hợp ngân hàng chính sách vay để hỗ trợ đồng bào gặp
khó khăn.
1.3 Vai trò của HĐTD
HĐTD có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Cũng như vai trò của các loại hợp đồng dân sự hay các loại hợp đồng kinh doanh

thương mại khác, HĐTD là bằng chứng chứng minh cho việc TCTD và khách hàng
đã thực hiện một giao dịch cho vay một khoản tiền nhất định, đây được xem là căn
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập

6

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

cứ để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đồng thời đây cũng là cơ sở
pháy lý để giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên (nếu có). Đối với TCTD,
HĐTD còn là công cụ để quản lý khách hàng vay sau khi cho vay, nhằm quản lý
vốn vay, giám sát khách hàng vay, đôn đốc khách hàng vay trả nợ và lãi đúng kỳ
hạn.
1.4 Phân loại HĐTD
a) Căn cứ vào khả năng trả nợ và mức độ uy tín của khách hàng, HĐTD
được phân chia thành hai loại: HĐTD có bảo đảm bằng tài sản và HĐTD không có
bảo đảm bằng tài sản.
 HĐTD có bảo đảm bằng tài sản
Xét dưới khía cạnh pháp lý, HĐTD có bảo đảm bằng tài sản là sự thoả thuận
bằng văn bản giữa TCTD với khách hàng vay, theo đó TCTD cam kết chuyển giao
cho khách hàng vay vốn sử dụng tiền của mình trong một thời gian nhất định, với
điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi trên cơ sở bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay
bằng tài sản cầm cố, thế chấp của bên vay hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba.
HĐTD có bảo đảm bằng tài sản có những đặc điểm cơ bản sau:
- Trong HĐTD có bảo đảm bằng tài sản luôn tồn tại những điều khoản về
bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay. Các điều khoản này có thể được ghi nhận ngay
trong HĐTD hoặc tách biệt thành một hợp đồng riêng lẻ đính kèm theo HĐTD.

- Trong HĐTD có bảo đảm bằng tài sản, TCTD cho vay luôn có quyền ưu
tiên theo đuổi tài sản đảm bảo để thu hồi nợ cho mình, bất luận tài sản đảm bảo đó
đang nằm ở đâu và trong sự quản lý của ai. Quyền ưu tiên này được xác lập trên cơ
sở giao dịch đảm bảo giữa TCTD (bên nhận đảm bảo) với khách hàng vay hoặc
người thứ ba – người bảo lãnh (gọi là bên bảo đảm). Với tư cách là một chủ nợ có
đảm bảo, TCTD cho vay có quyền ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản bảo đảm
trước các chủ nợ có bảo đảm đăng ký sau hoặc trước các chủ nợ không được bảo
đảm bằng tài sản đó.
- Quy trình thủ tục ký kết và thực hiện HĐTD có bảo đảm bằng tài sản bao
giờ cũng phức tạp hơn so với HĐTD không có bảo đảm bằng tài sản vì ngoài những
điều khoản thông dụng khác của HĐTD,các bên phải thỏa thuận thêm về điều
khoản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay. Thực tế cho thấy, việc ký kết hợp đồng bảo
đảm càng chặt chẽ bao nhiêu thì mức độ an toàn về phương diện pháp lý của các
bên càng cao bấy nhiêu.

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập

7

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

HĐTD có đảm bảo bằng tài sản áp dụng đối với những khách hàng uy tín
không cao đối với ngân hàng. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có
thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất (nguồn thu từ hiệu
quả dự án, phương án đầu tư sản xuất kinh doanh mang lại) thiếu chắc chắn.
 HĐTD không có bảo đảm bằng tài sản
Mặc dù sự bảo đảm bằng tài sản cho các khoản vay của TCTD trên thực tế là

cần thiết nhưng không phải mọi khoản vay ở TCTD đều cần có sự bảo đảm bằng tài
sản. Đôi khi những khoản cho vay kinh doanh hoặc cho vay tiêu dùng được cung
cấp bởi một TCTD lại dựa trên cơ sở không cần đảm bảo.
HĐTD không có bảo đảm bằng tài sản là sự thoả thuận bằng văn bản giữa
TCTD với khách hàng vay, theo đó, TCTD cho khách hàng vay vốn không kèm
theo điều kiện bên vay phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc được bảo lãnh của
người thứ ba. Ngân hàng chỉ cho vay dựa vào uy tín của bản thân khách hàng để
xem xét cho vay. Loại cho vay này chỉ áp dụng đối với các khách hàng có uy tín.
Khách hàng có uy tín là khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài
chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả, có tín nhiệm với ngân hàng cho vay trong sử
dụng vốn vay, khả năng hoàn trả nợ (gốc và lãi) chắc chắn.
Theo khoản 4 Điều 52 Luật các TCTD (đã được sửa đổi): “Tổ chức tín dụng
nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ. Tổn thất do
nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được Chính phủ xử lý”.
Điều 19 Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay (gọi tắt là NĐ 178)
quy định “Tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo
đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự
án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối
với khách hàng vay theo quy định tại Điều 20 và Điều 21 Nghị định này”.
Điều 20 NĐ 178 quy định điều kiện đối với khách hàng vay không có bảo
đảm bằng tài sản bao gồm:
“1. Khách hàng vay phải có đủ các điều kiện sau đây:
A) Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và
trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi;
B) Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi,
có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù
hợp với quy định của pháp luật;
C) Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ;
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48



Chuyên đề thực tập

8

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

D) Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ
chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng;
cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng
tài sản quy định tại điểm này.
2. Đối với khách hàng vay là doanh nghiệp, ngoài các điều kiện quy định tại
khoản 1 Điều này còn phải có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong hai năm liền
kế với thời điểm xem xét cho vay.”
b, Căn cứ vào thời hạn tín dụng, HĐTD được chia thành các loại như sau:
- HĐTD ngắn hạn là HĐTD mà có thời hạn cho vay đến 12 tháng, thường
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp hoặc
phụ vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình trong thời gian ngắn.
- HĐTD trung hạn là HĐTD mà có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60
tháng, được sử dụng chủ yếu để cải tiến và đổi mới trang thiết bị, đầu tư mua sắm
tài sản cố định, mở rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ. HĐTD này có
thời hạn thu hồi vốn nhanh, là nguồn quan trọng hình thành vốn lưu động thường
xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp mới thành lập.
- HĐTD dài hạn là HĐTD mà có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở nên, đáp
ứng cho như cầu đầu tư dài hạn như xây dựng cơ bản (dây chuyền sản xuất, nhà
xưởng...), xây dựng cơ sở hạ tầng (cảng biển, sân bay, đường xá …), cải tiến và mở
rộng sản xuất quy mô lớn. HĐTD dài hạn thường áp dụng hình thức giải ngân nhiều
lần theo tiến độ dự án do thời hạn đầu tư thường kéo dài. Nhìn chung, HĐTD dài
hạn thường chịu rủi ro rất lớn do thời hạn càng dài thì những biến động không dự
tính được có thể xảy ra càng lớn.

c) Căn cứ vào chủ thể ký kết, HĐTD được chia thành hai loại cơ bản sau:
- HĐTD được ký kết giữa TCTD với tổ chức kinh tế là pháp nhân;
- HĐTD được ký kết giữa TCTD với cá nhân.
2. Những quy định của pháp luật về giao kết HĐTD
2.1 Chủ thể của HĐTD
Chủ thể ký kết HĐTD trong giao dịch tín dụng bao gồm bên cho vay là các
TCTD và bên đi vay là các tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật quy định.
Khi tham gia giao dịch HĐTD, các chủ thể này cần phải thỏa mãn điều kiện nhất
định theo dự liệu của pháp luật. Việc quy định các điều kiện chủ thể đối với cả bên
vay lẫn bên cho vay vừa tạo cơ sở pháp lý cho sự đánh giá hiệu lực của HĐTD, vừa

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập

9

GVHD: Ths Nguyễn Anh Tú

góp phần nâng cao kỹ năng giao kết hợp đồng cũng như giúp củng cố kỷ luật hợp
đồng đối với các chủ thể tham gia giao dịch tín dụng.
 Bên cho vay:
Bên cho vay trong HĐTD thường là các TCTD có đầy đủ các điều kiện do
pháp luật quy định. Ngoài ra, nếu được NHNN cho phép thực hiện hoạt động tín
dụng thì các tổ chức khác không phải là TCTD cũng có thể là bên cho vay trong
HĐTD và đương nhiên các tổ chức này cũng phải thỏa mãn các điều kiện về chủ thể
giống như đối với bên cho vay là TCTD.
Một TCTD, theo quy định pháp luật hiện hành, muốn trở thành chủ thể cho
vay trong HĐTD phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây:

- Có giấy phép thành lập và hoạt động do NHNN cấp;
- Có điều lệ do NHNN chuẩn y;
- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp;
- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết HĐTD với khách
hàng.
Riêng đối với các tổ chức không phải là TCTD, nếu muốn trở thành chủ thể
cho vay trong HĐTD thì cần phải thỏa mãn một số điều kiện như: có giấy phép hoạt
động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có người đại diện hợp
pháp. Trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy phép hoạt động ngân
hàng của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động ngân hàng
được phép thực hiện.
Khoản 2 điều 22 Luật các TCTD quy định: “Các điều kiện để được cấp giấy
phép hoạt động ngân hàng đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng gồm có:
A) Hoạt động ngân hàng là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động
chính;
B) Có đủ vốn, điều kiện vật chất phù hợp với yêu cầu của hoạt động ngân
hàng;
C) Có đội ngũ cán bộ am hiểu hoạt động ngân hàng;
D) Có phương án kinh doanh khả thi về hoạt động ngân hàng.”
Việc pháp luật quy định những điều kiện này đối với bên cho vay ngoài việc
góp phần loại trừ, hạn chế những TCTD không đủ tiêu chuẩn kinh doanh trên
thương trường, nhờ đó giúp góp phần lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, đây còn là căn cứ để các thẩm phán, luật gia

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập



10

GVHD: Ths Nguyễn Anh

hay trọng tài viên tiến hành thẩm định và đánh giá một cách khách quan vấn đề hiệu
lực pháp lý của HĐTD.
 Bên vay:
Bên vay trong HĐTD là các tổ chức hoặc cá nhân thỏa mãn những điều kiện
vay vốn do pháp luật quy định và những điều kiện cho vay khác do các bên thỏa
thuận.
Những điều kiện chung thông thường sẽ do pháp luật quy định và được áp
dụng cho mọi khách hàng vay trong mọi trường hợp, không phân biệt họ là tổ chức
hay cá nhân, họ cho vay tiền để kinh doanh hay tiêu dùng. Còn lại những điều kiện
riêng sẽ do các bên tự thỏa thuận với nhau trong HĐTD, bên vay chỉ bắt buộc phải
thỏa mãn những điều kiện này khi chúng được ghi rõ trong HĐTD như là một điều
kiện để giao kết HĐTD.
- Các điều kiện chung: đây là những điều kiện có tính chất bắt buộc chung
đối với mọi chủ thể cho vay trong mọi HĐTD.
Điều kiện thứ nhất là bên vay phải có năng lực pháp luật - khả năng của cá
nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự (theo khoản 1 điều 14 BLDS) và năng lực
hành vi dân sự - khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự (điều 17 BLDS) . Riêng đối với các tổ chức (bao gồm pháp
nhân hay tổ chức không phải là pháp nhân như: hộ gia đình, tổ hợp tác, công ty hợp
danh…) còn phải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại
diện cho tổ chức đó khi ký kết HĐTD. Các bên không nhất thiết phải ghi rõ điều
kiện này trong HĐTD. Nếu không ghi điều kiện này trong HĐTD thì có thể coi như
là các bên mặc nhiên thừa nhận nó theo quy định của pháp luật. Theo quy trình
nghiệp vụ tín dụng, bên cho vay phải kiểm tra, xác minh điều kiện này khi tiếp nhận
hồ sơ vay vốn của khách hàng, trên cơ sở các giấy tờ, tài liệu làm bằng chứng do
khách hàng cung cấp như quyết định thành lập tổ chức, giấy chứng nhận đăng ký

kinh doanh, điều lệ của tổ chức, quyết định bổ nhiệm người đứng đầu tổ chức (đối
với người vay là tổ chức) hoặc chứng minh nhân dân, lý lịch tư pháp, hộ khẩu, giấy
chứng nhận về hộ tịch do cơ quan có thẩm quyền cấp (đối với người vay là cá
nhân).
Khoản 1 điều 7 QĐ 1627 quy định cụ thể vấn đề này như sau:
“1. Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật:
a) Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


11

GVHD: Ths Nguyễn Anh

- Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;
- Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự;
- Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự;
- Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự;
- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự;
b) Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của
nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật

nước ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc
tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.”
- Điều kiện thứ hai là có mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng phải hợp
pháp – theo khoản 2 điều 7 Quyết định 1627. Theo quy định này thì khách hàng
không được vay vốn để sử dụng cho các mục đích mà pháp luật cấm như: để mua
sắm, chi phí hình thành tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển đổi, chuyển
nhượng; đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật cấm; thanh
toán chi phí cho việc thực hiện giao dịch mà pháp luật cấm. Đây cũng là điều kiện
bắt buộc phải thỏa mãn đối với mọi chủ thể vay trong mọi HĐTD, các bên bắt buộc
phải ghi rõ điều kiện này trong hợp đồng như một điều kiện có hiệu lực của HĐTD.
- Các điều kiện riêng:
Bên cạnh những điều kiện chung có tính chất bắt buộc phải thỏa mãn đối với
bên vay như là năng lực chủ thể, mục đích sử dụng vốn vay…, người vay còn có thể
phải thỏa mãn những điều kiện riêng khác nữa do TCTD yêu cầu trong từng HĐTD
cụ thể. Chỉ khi những điều kiện này được các bên thỏa thuận rõ trong HĐTD như là
những điều kiện có hiệu lực của HĐTD thì chúng mới có tính chất bắt buộc thỏa
mãn đối với bên vay. Theo quy định tại khoản 3, 4, 5 điều 7 QĐ 1627, các điều kiện
này bao gồm:
“ 3. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;”
Khả năng tài chính của khách hàng được thể hiện thông qua mức độ vốn chủ
sở hữu của khách hàng tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


12


GVHD: Ths Nguyễn Anh

sống; tình hình tài chính lành mạnh, kinh doanh có lãi; cam kết của khách hàng về
việc phải mua bảo hiểm đối với tài sản là đối tượng vay vốn mà theo pháp luật quy
định phải mua bảo hiểm (tài sản hình thành sau khi vay). Trong trường hợp pháp
luật không quy định bắt buộc mua bảo hiểm nhưng xét thấy cần thiết phải đảm bảo
an toàn vốn vay, các ngân hàng có thể xem xét quyết định khách hàng vẫn phải cam
kết mua bảo hiểm đối với đối tượng vay vốn mà pháp luật không bắt buộc mua bảo
hiểm. Nếu khách hàng không thực hiện đúng cam kết mua bảo hiểm theo hợp đồng
thì ngân hàng cho vay có quyền được chấm dứt cho vay, thu hồi nợ hoặc chuyển nợ
quá hạn.
“4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và
hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp
với quy định của pháp luật.
5. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ
và hướng dẫn của ngân hàng nhà nước Việt Nam.”
Ngoài ra, điều 19, điều 20 QĐ 1627 còn quy định những trường hợp không
được cho vay hay cho vay hạn chế, bao gồm các trường hợp sau:
- Điều 19: Các trường hợp không được cho vay
“1. Tổ chức tín dụng không được cho vay đối với khách hàng trong các
trường hợp sau đây:
a) Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc),
Phó Tổng giám đốc (phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng;
b) Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm
định, quyết định cho vay;
c) Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát,
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc).
2. Các quy định tại Khoản 1 Điều này không áp dụng đối với các tổ chức tín
dụng hợp tác.”
- Điều 20: Cho vay hạn chế

“Tổ chức tín dụng không được cho vay không có bảo đảm, cho vay với
những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với những đôi tượng sau
đây:
1. Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức
tín dụng cho vay; Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng
cho vay; Kế toán trưởng của tổ chức tín dụng cho vay;
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


13

GVHD: Ths Nguyễn Anh

2. Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng;
3. Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điểu 77
của Luật Các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó.”
Việc pháp luật quy định cụ thể các điều kiện chủ thể đối với bên cho vay và
bên đi vay trong HĐTD, ngoài mục đích muốn thiết lập trật tự, kỉ cương trong hoạt
động tín dụng còn có ý nghĩa là giải pháp nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động
kinh doanh của TCTD.
2.2 Hình thức của HĐTD
Hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể
đã xác định. Tùy thuộc vào nội dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy
thuộc vào mức độ tin cậy lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất
định trong việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Khác với hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được

giao kết bằng một hình thức nhất định, HĐTD phải được lập thành văn bản thì mới
có giá trị pháp lý (theo quy định tại điều 51 Luật các TCTD). Pháp luật quy định
như vậy là vì việc ký kết hợp đồng bằng văn bản có rất nhiều ưu điểm, giúp đảm
bảo sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia. Những ưu điểm đó là:
- Thứ nhất, HĐTD được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng pháp
lý cụ thể cho việc thực hiện hơp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD.
- Thứ hai, việc ký kết HĐTD bằng văn bản thực chất là một sự công bố công
khai và chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để người thứ
ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong
những trường hợp cần thiết.
- Thứ ba, việc ký kết HĐTD bằng văn bản mới có thể giúp cho các cơ quan
có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn. Chẳng hạn như việc
kiểm tra, thanh tra tài chính, thu thuế, lệ phí, kiểm soát hoạt động thương mại của
các chủ thể kinh doanh trên thương trường.
Theo quy định hiện hành, văn bản HĐTD được hiểu bao gồm văn bản viết và
văn bản điện tử. HĐTD được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản (khoản 1 điều 124 BLDS
2005), được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng
cứ trong quá trình giao dịch.
2.3 Nội dung của HĐTD
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


14

GVHD: Ths Nguyễn Anh


Nội dung của HĐTD là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách
chủ thể cam kết với nhau một cách bình đẳng, tự nguyện và phù hợp với pháp luật.
Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên tham gia, đồng thời cũng làm
phát sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia HĐTD.
Nội dung của HĐTD (các điều khoản của hợp đồng) về lý thuyết phải do các
bên tự định đoạt trên nguyên tắc đồng thuận ý chí, phù hợp với pháp luật và đạo đức
xã hội. Điều 51 Luật các TCTD năm 1997 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004)
quy định: “Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng
tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá
trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả
thuận.” Như vậy, nội dung của HĐTD bao gồm các điều khoản sau đây:
- Điều khoản về điều kiện vay vốn. Các bên cần ghi rõ những tiêu chuẩn cụ
thể mà bên vay phải thỏa mãn trong HĐTD khi thỏa thuận điều khoản này thì hợp
đồng này mới có hiệu lực. Chẳng hạn như bên vay phải có năng lực chủ thể, có tình
hình tài chính lành mạnh, có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc phải có người bảo lãnh
của người thứ ba…
- Điều khoản về đối tượng của hợp đồng. Trong điều khản này, các bên phải
thỏa thuận cụ thể về hình thức vay, số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải
trả khi HĐTD đáo hạn.
- Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản rất
quan trọng bởi nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các
bên phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được trả toàn bộ một lần khi hợp đồng
vay đáo hạn hay là hoàn trả dần hàng tháng (trả góp). Nếu khoản vay được thỏa
thuận thanh toán theo từng thời kì hạn thì các bên cũng có thể dự liệu trước về khả
năng điều chỉnh kì hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi
trả nợ.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong HĐTD
về ngày, tháng, năm trả tiền; phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày hợp đồng được ký
kết. Các bên cũng có thể dự liệu trước về khả năng gia hạn hợp đồng trong HĐTD,
còn thời gian gia hạn cụ thể sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện

HĐTD.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Ở điều khoản này, các bên cần
ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì (ví dụ như, mua hàng hóa để tiêu
dùng hay mua vật tư hàng hóa để kinh doanh …). Việc thỏa thuận điều khoản này
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


15

GVHD: Ths Nguyễn Anh

trong được xem như là một giải pháp nhằm đảm bảo sự an toàn về vốn cho người
đầu tư là các TCTD, tránh các trường hợp bên vay sử dụng vốn vay một cách tùy
tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, pháp luật cũng cho phép trong
thời gian sử dụng vốn vay, các bên có quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng
vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn vay đã thay đổi nhằm
đảm bảo lợi ích của cả hai bên và cũng để đảm bảo sử dụng vốn đầu tư được sử
dụng hiệu quả.
- Điều khoản về tranh chấp HĐTD. Trong điều khoản này, các bên sẽ thỏa
thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp khi có tranh chấp phát sinh. Các bên có thể
lựa chọn biện pháp thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn biện pháp tài phán để giải
quyết tranh chấp. Nếu trong HĐTD không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên
không thỏa thuận thì khi đó việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp
phát sinh từ HĐTD sẽ đựợc thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu HĐTD được giao kết có điều kiện về đảm bảo bằng tài sản như
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, tín chấp thì các bên có thể thỏa thuận điều khoản này
như một điều khoản riêng rẽ nằm trong HĐTD (hợp đồng chính) hoặc lập thành một

hợp đồng phụ đính kèm theo hợp đồng chính.
Trên thực tế, các bên thường lựa chọn ký kết một hợp đồng phụ như hợp
đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh theo thể thức luật định nhằm
thể hiện ý chí của mình trong việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Hiệu lực của các hợp
đồng phụ này phụ thuộc hoàn toàn vào hiệu lực của hợp đồng chính là HĐTD.
2.4 Nguyên tắc giao kết HĐTD
HĐTD giữa ngân hàng và khách hàng về bản chất là một hợp đồng dân sự có
tính cách đặc biệt, nhằm xác định quan hệ pháp lý giữa hai bên trong quan hệ tín
dụng, do đó nguyên tắc giao kết HĐTD cũng sẽ tuân thủ nguyên tắc giao kết hợp
đồng dân sự. Điều 389 BLDS 2005 quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự
như sau:
“Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội;
2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.”
Ngoài ra, điều 6 QĐ 1627 quy định nguyên tắc vay vốn như sau:
“1. Khách hàng vay của tổ chức tín dụng phải bảo đảm sử dụng vốn vay
đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng”.
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


16

GVHD: Ths Nguyễn Anh

Nguyên tắc này đòi hỏi khách hàng vay phải tuân thủ đúng cam kết của mình
trong HĐTD để sử dụng vốn vay đúng mục đích. Vi phạm nguyên tắc này thì bị

xem là vi phạm hợp đồng và sẽ phải chịu phạt vi phạm hợp đồng theo quy định của
pháp luật. Đây là nguyên tắc cơ bản, vì chỉ khi sử dụng vốn đúng mục đích thì
khách hàng mới có thể thực hiện được dự án, phương án sản xuất kinh doanh theo
dự kiến, do vậy mới có thể thu hồi được vốn để hoàn trả nợ cho ngân hàng. Nguyên
tắc này giúp hạn chế rủi ro đạo đức và hạn chế khả năng khách hàng dùng vốn vay
để thực hiện các hành vi mà pháp luật cấm.
“2. Khách hàng vay vốn phải hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn
đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng”.
Đây là nghĩa vụ tất yếu của khách hàng vay khi vay vốn của TCTD. Mặc dù
vậy pháp luật vẫn quy định nó như là một nguyên tắc để giao kết hợp đồng để nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay trong hoạt động tín
dụng, đồng thời cũng nêu lên sự khác biệt giữa quan hệ HĐTD với các quan hệ hợp
đồng khác. Nguyên tắc này đảm bảo phương châm hoạt động của ngân hàng là “đi
vay để cho vay” và thực hiện nguyên tắc trong hoạch toán kinh doanh lấy thu bù chi
và có lãi.
Đây là những nguyên tắc cơ bản nhất mà các bên sẽ phải tuân thủ khi quan
hệ tín dụng được xác lập. Nguyên tắc cho vay có hiệu quả là điều kiện và biện pháp
hàng đầu bảo đảm cho ngân hàng duy trì sự tồn tại và phát triển ổn định.
2.5 Trình tự giao kết HĐTD
Giao kết HĐTD là một quá trình mang tính chất kĩ thuật nghiệp vụ - pháp lý
do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết HĐTD bao gồm các
giai đoạn chính sau:
- Đề nghị giao kết HĐTD;
- Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD;
- Đàm phán các điều khoản của HĐTD.
 Đề nghị giao kết HĐTD
Đề nghị giao kết HĐTD là hành vi pháp lý do một bên thực hiện gửi cho bên
kia dưới hình thức văn bản chính thức, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn
được giao kết HĐTD.
Thông thường, bên đề nghị giao kết HĐTD là cá nhân, tổ chức có nhu cầu

vay vốn và văn bản đề nghị ở đây chính là đơn xin vay vốn và các giấy tờ được gửi
kèm theo để chứng minh tư cách chủ thể bao gồm năng lực pháp lý và năng lực
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


17

GVHD: Ths Nguyễn Anh

hành vi, phương án sử dụng và hoàn trả vốn vay, khả năng tài chính của mình,...Các
tài liệu này do bên vay gửi cho TCTD để xem xét, thẩm định và sẽ được coi là một
bằng chứng cho đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, thực tiễn giao kết HĐTD ở
Việt Nam gần đây cho thấy nhiều trường hợp bên chủ động đề nghị giao kết hợp
đồng không phải là khách hàng mà lại chính là các TCTD. Các TCTD chủ động
thực hiện phương thức này nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng thị
trường tín dụng của mình. Các ngân hàng cổ phần, các ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam chính là những TCTD đã đi tiên phong
trong việc lựa chọ phương thức này. Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là thư
chào mời được TCTD gửi cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn thường xuyên,
có khả năng tài chính lành mạnh và có uy tín trên thương trường (hay còn gọi là
những khách hàng tiềm năng) mà TCTD lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào
mời, TCTD thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo
những điều khoản cụ thể để bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, nếu bên tiếp
nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó thì
không vì thế mà HĐTD được coi là đã hình thành, bởi lẽ, một thư chào mời không
nhất thiết phải là một bản dự thảo hợp đồng nhằm tránh rủi ro pháp lý cho phía gửi
thư chào mời.

 Thẩm định hồ sơ và chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD.
- Thẩm định hồ sơ tín dụng
Sau khi tiếp nhận hồ sơ tín dụng của khách hàng là bên vay vốn, TCTD sẽ
thực hiện thẩm định hồ sơ tín dụng. Thẩm định hồ sơ tín dụng là tất cả những hành
vi mang tính nghiệp vụ - pháp lý do TCTD thực hiện nhằm mục đích xác định các
điều kiện vay vốn đối với bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định có cho vay hay
không cho vay. Như vậy, mục đích của thẩm định hồ sơ tín dụng không chỉ để kiểm
tra tính chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng, mà
còn nhằm mục đích tìm kiếm những tình huống xấu có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho
ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát những rủi ro đó và dự kiến các biện pháp
phòng ngừa và hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra. Vì thế, thẩm định hồ sơ tín
dụng thường bao gồm nhiều khâu, được thực hiện theo một trình tự chặt chẽ, quyết
định đến chất lượng của tín dụng.
Theo khoản 2 điều 15 QĐ 1627, ngoài việc thẩm định tư cách pháp lý của
khách hàng vay vốn thì nội dung thẩm định bao gồm các vấn đề sau:

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


18

GVHD: Ths Nguyễn Anh

“ 2- Tổ chức tín dụng xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu
tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ
đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng để quyết định cho vay.”
Trong thực tế giao dịch ngân hàng, việc thẩm định hồ sơ tín dụng thường do

các nhân viên chuyên trách của TCTD thực hiện và được kết thúc bằng việc lập báo
cáo thẩm định hồ sơ tín dụng. Báo cáo này sẽ được trình lên người quản lý có thẩm
quyền của TCTD quyết định về việc có cho vay hay không.
Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, dựa vào kết quả thẩm
định, phân tích và điều tra tín dụng đối với khách hàng, bên cho vay có toàn quyền
quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp từ chối cho vay,
TCTD phải thông báo cho khách hàng biết bằng văn bản và phải nêu rõ lý do từ
chối cho vay. Điều này đã được quy định cụ thể trong QĐ 1627 tại khoản 3 điều 15:
“3- Tổ chức tín dụng quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa
phải thông báo quyết định cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng, kể từ
khi nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn và thông tin cần thiết của khách hàng. Trường
hợp quyết định không cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng
bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay.”
Nếu việc từ chối cho vay là không có căn cứ xác đáng, khách hàng có thể
thực hiện hành vi đối kháng với TCTD theo quy định của pháp luật.
- Chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD
Chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị,
thông thường là TCTD, thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho
bên gửi đề nghị hợp đồng với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết HĐTD. Hành vi
chấp nhận giao kết đề nghị giao kết HĐTD chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng
ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng chính thức
giữa các bên. Việc giao kết HĐTD chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã
trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng và
người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào văn bản HĐTD.
 Đàm phán các điều khoản của HĐTD và ký kết HĐTD
Đây là giai đoạn cuối cùng và cũng là giai đoạn quan trọng nhất của quá
trình giao kết HĐTD. Trong giai đoạn này, các bên trực tiếp gặp nhau để thỏa thuận
các điều khoản của HĐTD. Giai đoạn này kết thúc bằng việc các bên cùng chính
thức ký tên vào bản hợp đồng.


Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


19

GVHD: Ths Nguyễn Anh

Sau khi HĐTD được ký kết, các bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Đây là
quá trình làm cho cam kết trong HĐTD trở thành hiện thực thông qua hành vi của
các bên. Sau khi giải ngân, TCTD phải thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình
sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng để bảo đảm cho tiền vay được sử dụng
đúng mục đích đã cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng và hạn chế tối đa thiệt hại.
2.6 Hiệu lực của HĐTD
 Các điều kiện có hiệu lực của HĐTD:
Dựa trên các quy định có tính nguyên tắc tại điều 122 của BLDS 2005 về
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, một HĐTD với tư cách là một loại hình
giao dịch dân sự đặc thù, chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Chủ thể tham gia HĐTD phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự.
Đối với chủ thể của HĐTD là cá nhân thì bản thân cá nhân ấy phải có đủ cả
năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự, còn đối với chủ thể là tổ chức
thì người đại diện cho tổ chức đó cũng phải có năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự. Ngoài vấn đề năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân
sự, chủ thể tham gia HĐTD có thể còn phải thỏa mãn các điều kiện khác nữa thì
HĐTD mới có hiệu lực pháp luật. Thông thường, các điều kiện này do chính các
bên thỏa thuận và được ghi rõ trong HĐTD như là những điều kiện có hiệu lực của
HĐTD. Chẳng hạn như điều kiện bên vay phải có tình hình tài chính lành mạnh; có

phương án sử dụng vốn khả thi; có uy tín đối với TCTD; có tài sản bảo đảm cho
nghĩa vụ trả nợ tiền vay…
- Mục đích và nội dung của HĐTD không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội.
Tính hợp pháp về mục đích của HĐTD thể hiện ở chỗ, mục đích cho vay và
mục đích đi vay của các bên giao kết hợp đồng nhất thiết phải được thể hiện rõ ràng
trong nội dung của hợp đồng và các mục đích này không được trái pháp luật và trái
đạo đức xã hội. Còn tính hợp pháp về nội dung của HĐTD cũng được thể hiện ở
chỗ các điều khoản trong HĐTD không vi phạm điều cấm của pháp luật cũng như
không trái đạo đức xã hội.
- Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc bình đẳng, tự
nguyện và tự do ý chí.
Một HĐTD được coi là có sự đồng thuận ý chí khi sự thỏa thuận đó giữa các
bên không bị các khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, sự lừa dối, ép buộc hoặc lừa gạt
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


20

GVHD: Ths Nguyễn Anh

khi giao kết hợp đồng. Trên nguyên tắc, các khiếm khuyết này phải có ảnh hưởng
mang tính quyết định đến ý chí giao kết hợp đồng của các bên thì mới được coi là
sự kiện pháp lý làm cho HĐTD bị vô hiệu.
- Hình thức của HĐTD phải phù hợp với các quy định của pháp luật ngân
hàng. Đối với HĐTD, pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của HĐTD phải được
xem như là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bởi tính chất rủi ro

cao cho quyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng này. Điều này
được quy định tại điều 51 Luật các TCTD.
Tính hợp pháp về hình thức của HĐTD thể hiện ở chỗ, HĐTD phải được ký
kết bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch hợp thức và có giá trị chứng cứ chứng minh
nội dung mà các bên đã cam kết.
 Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD:
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ lúc
đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Trên
thực tế, pháp luật của các nước, tùy quan điểm của nhà làm luật coi HĐTD là hợp
đồng thực tế hay hợp đồng ưng thuận mà có những quy định rất khác nhau về thời
điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD.
Ví dụ như ở Cộng hòa Pháp thì thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD
chính là thời điểm bên cho vay chuyển giao số tiền vay cho bên cho vay, bởi lẽ các
nhà làm luật ở đây quan niệm HĐTD là loại hợp đồng thực tế. Còn ở Việt Nam, do
nhà làm luật quan niệm HĐTD thuộc loại hợp đồng ưng thuận nên pháp luật Việt
Nam quy định thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD chính là thời điểm các bên
thỏa thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên, đóng dấu
(nếu có) vào văn bản HĐTD. Theo quy định này, việc chuyển giao tiền vay (hay
còn gọi là giải ngân) là một nghĩa vụ hợp đồng của bên cho vay. Nếu bên cho vay
không thực hiện đúng nghĩa vụ này mà lại gây thiệt hại tính được thành tiền cho bên
vay thì họ không những sẽ phải chịu trách nhiệm nộp phạt vi phạm hợp đồng mà
còn phải chịu cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
3. Những quy định của pháp luật về thực hiện HĐTD
3.1 Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong HĐTD
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD được hiểu là tất cả
những hành vi pháp lý được các bên lập ra để cho chính mình thực hiện, thông qua
sự kiện ký kết HĐTD. Việc tạo lập quyền và nghĩa vụ pháp lý này không chỉ là mục
đích khi giao kết HĐTD của các bên, mà còn là hậu quả pháp lý tất yếu của việc
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48



Chuyên đề thực tập


21

GVHD: Ths Nguyễn Anh

giao kết HĐTD, một khi hợp đồng đó đã có hiệu lực pháp lý. Quyền và nghĩa vụ
của các bên, về lý thuyết sẽ phát sinh kể từ thời điểm HĐTD bắt đầu có hiệu lực, và
được các bên thực hiện dần dần trong quá trình sử dụng tiền vay cho đến khi khoản
tiền vay đã được hoàn trả cả gốc lẫn lãi (kể cả tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại,
nếu có).
Do mỗi bên tham gia HĐTD có tư cách pháp lý khác nhau nên các chủ thể
này sẽ có quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau, các quyền và nghĩa vụ này hoặc
phát sinh từ nội dung đã được thỏa thuận trong HĐTD, hoặc phát sinh từ các điều
khoản đã được dự liệu sẵn của các nhà lập pháp và chúng đều có giá trị pháp lý ràng
buộc đối với các bên giao kết HĐTD. Cụ thể như sau:
 Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay (TCTD):
Với tư cách là bên cấp tín dụng, đồng thời là chủ nợ trong quan hệ tín dụng,
bên cho vay có những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản sau đây:
- Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt,
tiền bồi thường thiệt hại (nếu có).
Quyền năng này mặc dù phát sinh trên cơ sở các thỏa thuận trong HĐTD
nhưng thường được pháp luật bảo đảm thực hiện bằng nhiều phương cách, vì khi
thực hiện quyền này, TCTD (bên cho vay) có tư cách là một chủ nợ có vị trí đặc
biệt quan trọng. Bên cho vay với tư cách là chủ nợ sẽ thực hiện quyền yêu cầu đối
với bên vay (người mắc nợ) bằng các cách mà pháp luật cho phép như khiếu nại đòi
tiền; thương lượng hòa giải hoặc khởi kiện bên vay trước cơ quan tài phán có thẩm
quyền để yêu cầu giải quyết…

- Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng thời hạn và địa điểm cho
khách hàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).
Nghĩa vụ này phát sinh do bên cho vay đã cam kết cho khách hàng vay được
phép sử dụng số tiền của mình trong một khoảng thời gian nhất định, với điều kiện
có hoàn trả. Thực tế cho thấy người vay chỉ có thể thực hiện được quyền sử dụng
vốn vay và cũng chỉ có nghĩa vụ hoàn trả tiền vay khi nào có bằng chứng chứng
minh rằng họ đã nhận được tiền vay do bên vay chuyển giao đúng thời hạn đã thỏa
thuận. Nếu bên cho vay vi phạm nghĩa vụ này như không giải ngân, giải ngân chậm
hoặc không giải ngân theo đúng thỏa thuận trong HĐTD thì trong trường hợp này,
bên cho vay bị coi là đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, vì thế bên cho vay có trách
nhiệm phải bồi thường các thiệt hại vật chất đã xảy ra cho bên vay. Không những

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


22

GVHD: Ths Nguyễn Anh

thế, bên cho vay còn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình như đã cam kết, trừ
trường hợp cả hai bên cùng thỏa thuận chấm dứt HĐTD trước thời hạn.
- Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng.
Trước khi Luật các TCTD năm 1997 được sửa đổi, bổ sung năm 2004, việc
kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn chỉ được xem như là một quyền của TCTD và
khả năng pháp lý này của bên cho vay hoàn toàn phát sinh trên cơ sở các bên thỏa
thuận chứ không phải do pháp luật quy định trước. Tuy nhiên, để đề cao trách
nhiệm pháp lý của bên cho vay trong quá trình cấp tín dụng, khoản 3 điều 53 Luật

các TCTD đã quy định việc kiểm tra, giám sát quá trình cho vay, sử dụng vốn vay
và trả nợ của khách hàng không còn là một quyền năng pháp lý nữa mà là một nghĩa
vụ pháp lý của TCTD:
“3. Tổ chức tín dụng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra, giám sát quá
trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng”.
Với quy định này, bên cho vay có trách nhiệm và có quyền kiểm tra, giám sát
quá trình sử dụng vốn và hoàn trả vốn vay của khách hàng nhằm nâng cao chất
lượng quản trị các khoản tín dụng. Còn đối với khách hàng vay, khách hàng vay
buộc phải chấp nhận sự kiểm tra, giám sát này từ phía bên cho vay nhằm tạo điều
kiện thuận lợi để bên vay tiến hành các biện pháp quản trị tín dụng hiệu quả.
Điều 25 QĐ 1627 đã quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của TCTD như sau:
“1. Tổ chức tín dụng có quyền:
a) Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương
án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống
khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định
cho vay;
b) Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay
vốn, dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp với
quy định của Pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ nguồn vốn để cho vay.
c) Kiểm tra, giám sát quả trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của
khách hàng;
d) Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng
cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng;
đ) Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc người bảo lãnh
theo quy định của pháp luật.

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập



23

GVHD: Ths Nguyễn Anh

e) Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có
thoả thuận khác, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm vốn vay theo
sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu
cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp khách hàng
được bỏ lãnh vay vốn;
g) Miễn, giảm lãi vốn vay, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ thực hiện theo
quy định tại Quy chế này; mua bán nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và thực hiện việc đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ theo quy định của Chính phủ và
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ:
a) Thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;
b) Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.”
 Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
Với tư cách là người hưởng tín dụng, đồng thời là con nợ trong quan hệ tín
dụng, bên vay có những quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của TCTD khi ký kết, thực hiện và
thanh lý HĐTD.
Quyền năng này được pháp luật quy định giúp cho khách hàng vay vốn có
khả năng chống lại các yêu cầu không hợp lý của các TCTD mà các yêu cầu đó có
thể gây ra những bất lợi cho họ nếu buộc phải thỏa mãn. Chẳng hạn như, khách
hàng vay có quyền từ chối cung cấp các thông tin về hoạt động kinh doanh của
mình nếu nó không liên quan đến việc sử dụng vốn cũng như hoàn trả vốn vay cho
TCTD…
- Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các

vi phạm HĐTD của TCTD.
Pháp luật quy định đây là một quyền của khách hàng vay nhằm mục đích bảo
vệ lợi ích hợp pháp cho họ trước những hành vi không có căn cứ hợp pháp của
TCTD. Tuy nhiên, nếu pháp luật cho phép khách hàng vay được tự do đệ đơn khiếu
nại đối với TCTD nhận hồ sơ vay vốn, chỉ vì lý do họ đã từ chối vay không có căn
cứ thì rõ ràng cũng không hợp lý, bởi lẽ như vậy có nghĩa là pháp luật đã tước đi
quyền tự do kinh doanh của người kinh doanh, trong đó có quyền tự định đoạt việc
cho vay hay không đối với khách hàng - một quyền năng cơ bản nhất. Vì vậy, nếu
TCTD muốn từ chối cho vay đối với khách hàng thì họ bắt buộc phải đưa ra các căn
cứ hay lý do chính đáng để từ chối.
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập


24

GVHD: Ths Nguyễn Anh

- Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận
trong HĐTD.
Quyền này của bên vay cũng chính là nghĩa vụ của bên cho vay, phát sinh
trên cơ sở các điều khoản của HĐTD. Do có quyền này mà bên vay được yêu cầu
bên cho vay bồi thường thiệt hại đã xảy ra cho mình trong trường hợp do bên cho
vay không thực hiện đúng nghĩa vụ giải ngân theo thỏa thuận mà gây thiệt hại.
- Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong
HĐTD.
Nghĩa vụ này phát sinh do điều khoản về mục đích sử dụng vốn vay đã được
ghi trong HĐTD, nhằm đặt người vay vào trong tình trạng bị giám sát, kiểm tra

thường xuyên bởi người cho vay. Tuy nhiên, nghĩa vụ này không cản trở người vay
lựa chọn, áp dụng các biện pháp giúp đem lại hiệu quả cho phương án sử dụng vốn
của mình như được quyền lựa chọn lựa chọn loại vật tư, mô hình công nghệ thích
hợp nhất để đầu tư, lựa chọn nguyên liệu trong nước hay nhập khẩu để mua sắm
bằng nguồn vốn tín dụng được cấp…Nếu bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ
này thì họ sẽ bị bên cho vay đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc bị thu hồi vốn vay
trước thời hạn, sau khi đã được bên cho vay nhắc nhở bằng văn bản.
- Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm HĐTD và
tiền bồi thường thiệt hại cho bên vay (nếu có).
Nghĩa vụ này là một trong những nghĩa vụ chính của bên vay, phát sinh trên
cơ sở HĐTD hoặc trên cơ sở phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan tài
phán đã có thẩm quyền. Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi thông thường sẽ
phát sinh khi HĐTD bắt đầu có hiệu lực và phải được bên vay thực hiện khi thời
hạn sử dụng vốn vay đã hết. Nghĩa vụ trả tiền phạt vi phạm hợp đồng hay trả tiền
bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi xảy ra sự vi phạm hoặc gây ra sự thiệt hại mà
các bên đã thỏa thuận trong HĐTD, hoặc phát sinh do một phán quyết đã có hiệu
lực của tòa án hay trọng tài. Về nguyên tắc, các nghĩa vụ này của bên vay sẽ chấm
dứt khi chúng đã được bên vay thực hiện trên thực tế.
Quyền và nghĩa vụ của khách hàng vay được quy định cụ thể tại điều 24 QĐ
1627, theo đó:
“1. Khách hàng vay có quyền:
a) Từ chối các yêu cầu của tổ chức tín dụng không đúng với các thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng;

Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


Chuyên đề thực tập



25

GVHD: Ths Nguyễn Anh

b) Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của
pháp luật;
2. Khách hàng vay có nghĩa vụ:
a) Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay
vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin, tài liệu đã cung cấp;
b) Sử dụng vốn vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng và các cam kết khác;
c) Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;
d) Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả
thuận về việc trả nợ vay và thực hiện các nghia vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết
trong hợp đồng tín dụng.”
3.2 Các biện pháp đảm bảo thực hiện HĐTD
Hoạt động cho vay của ngân hàng luôn luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy để
đảm bảo an toàn hiệu quả trong hoạt động cho vay, tránh những rủi ro đổ vỡ có thể
xảy ra đối với từng ngân hàng và hệ thống các TCTD, pháp luật có các quy định
nhằm đảm bảo an toàn trong cho vay, trong đó chú trọng các vấn đề về nguyên tắc
cho vay có hiệu quả, các hạn chế để đảm bảo an toàn tín dụng, các biện pháp đảm
bảo trong cho vay, HĐTD, xét duyệt cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong hợp đồng tín dụng là một trong các biện
pháp để bảo đảm bên có nghĩa vụ, cụ thể là bên vay thực hiện đúng các nghĩa vụ
của mình đối với bên có quyền là bên cho vay.
Theo quy định của pháp luật, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản hoàn toàn là do các bên thoả thuận, bằng cách thiết kế một điều khoản
riêng nằm trong hợp đồng chính là HĐTD hoặc tách ra thành một hợp đồng phụ
đính kèm hợp đồng chính. Hợp đồng bảo đảm tiền vay này phải được lập thành văn
bản, có thể được giao kết trước, cùng lúc hoặc sau khi giao kết HĐTD. Việc giao

kết hợp đồng bảo đảm tiền vay phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp
luật về hình thức, nội dung của hợp đồng, các quy định về việc đăng ký, công chứng
hay chứng thực hợp đồng bảo đảm.
Những biện pháp chủ yếu để bảo đảm tiền vay trong HĐTD là:
 Cầm cố
“Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.” (điều 326 BLDS)
Nguyễn Thị Hương Ly - Luật kinh doanh K48


×