Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Vai trò, các phương pháp, mô hình và công cụ được sử dụng trong công tác kế toán quản trị chi phí hiện nay trong các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.29 KB, 35 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA KẾ TOÁN – TÀI CHÍNH

  

ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH CHÍNH
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ, CÁC PHƯƠNG PHÁP, MÔ HÌNH VÀ CÔNG CỤ ĐƯỢC SỬ
DỤNG TRONG CÔNG TÁC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ HIỆN
NAY TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

Giáo viên hướng dẫn :
Ths. Nguyễn Ngọc Thủy
Lớp : K43 B2 Kế Toán Doanh Nghiệp


HUẾ, 07/2011.

MỤC LỤC

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................................2
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU...........................................................................3
1. Khái niệm, nội dung chi phí, kế toan quản trị chi phí...............................................3
1.1. Khái niệm chi phí......................................................................................................3
1.2. Khái niệm, nội dung kế toán quản trị chi phí..........................................................4
2. Vai trò của công tác tổ chức kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp..............8
3. Các phương pháp doanh nghiệp sử dụng trong công tác kế toán quản trị chi phí
......................................................................................................................................... 10
3.1. Quản trị chi phí trong môi trường kinh doanh hiện nay......................................10
3.2. Các phương pháp sử dụng trong công tác kế toán quản trị chi phí....................13
3.2.1. Kế toán chi phí theo phương pháp truyền thống...............................................13


3.2.2. Kế toán chi phí theo hoạt động (ABC)................................................................15
3.2.3. Kế toán chi phí theo phương pháp “Chi phí mục tiêu”.....................................24
4. Một số mô hình phân bổ chi phí sản xuất chung ở các doanh nghiệp ...................28
4.1. Mô hình sử dụng một tiêu chuẩn phân bổ duy nhất.............................................28
4.2. Mô hình phân bổ chi phí sản xuất chung theo bộ phận........................................29
4.3. Phân bổ chi phí sản xuất chung theo mô hình ABC ............................................30
PHẦN III. KẾT LUẬN .................................................................................................33

2


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay trong xu hướng hội nhập, mở cửa đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất hay
kinh doanh dịch vụ phải tiến hành tổ chức sản xuất, quản lý sản xuất kinh doanh sao cho
có hiệu quả giúp doanh nghiệp đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Một
trong những vấn đề mà doanh nghiệp cần quan tâm và coi trọng là tiết kiệm chi phí nhằm
tối đa hóa lợi nhuận.
Kinh doanh thực sự là một vấn đề rất phức tạp. Chỉ một sai lầm nhỏ cũng khiến cho
chúng ta mất thời gian và tiền bạc đầu tư. Đó là lý do tại sao chúng ta phải thực hiện tính
toán chi phí và kế toán quản trị chi phí
Quản trị chi phí là một việc làm thiết yếu của bất cứ doanh nghiệp nào. Bất kỳ doanh
nghiệp nào muốn tìm kiếm lợi nhuận cũng đều cố gắng cắt giảm và quản lý chi phí đúng
cách.Vì vậy, vai trò của kế toán quản trị ngày càng được khẳng định và nó được xem như
là một trong những công cụ phục vụ hữu hiệu nhất cho quản lý nội bộ doanh nghiệp.
Xét từ phương diện kế toán, thông tin chủ yếu nhất mà kế toán quản trị xử lý và
cung cấp cho các nhà quản trị là thông tin về chi phí. Trong quá trình kinh doanh của các
doanh nghiệp, chi phí thường xuyên phát sinh, gắn liền với mọi hoạt động và có ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được. Đối với những người quản lý thì chi phí là mối
quan tâm hàng đầu, bởi vì lợi nhuận thu được nhiều hay ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của
những chi phí đã chi ra. Do đó vấn đề được đặt ra là làm sao kiểm soát được các khoản

chi phí. Nhận diện, phân tích các hoạt động sinh ra chi phí là điều mấu chốt để có thể
quản lý chi phí, từ đó có những quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Điều này cho thấy kế toán quản trị chi phí có vai trò quan trọng trong việc đề ra
quyết định, lập kế hoạch và kiểm soát hoạt động của tổ chức. Đề tài này sẽ trình bày các
vấn đề sau:
Vai trò của công tác kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp;
3


Các phương pháp, mô hình, công cụ được sử dụng trong công tác kế toán quản trị
chi phí hiện nay trong các doanh nghiệp.

PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khái niệm, nội dung chi phí, kế toan quản trị chi phí
1.1. Khái niệm chi phí.
Để hiểu rõ nội dung của công tác kế toán quản trị chi phí thì cần phải hiểu rõ các
khái niệm như chi phí, quản trị chi phí.
Có nhiều khái niệm khác nhau về chi phí, dưới đây là một số định nghĩa về chi phí:
 Theo Từ điển kinh tế phổ thông, Hamburg 1990, cột 56 người ta đã định
nghĩa: “mọi sự tiêu phí tính bằng tiền của một doanh nghiệp được gọi là chi phí”
 Theo Những lời khuyên về tính chi phí kinh doanh và kết quả, xuất bản lần
thứ 2. Koln Bergisch Gladbach 988, trang 25 cho rằng “chi phí là một khái niệm của kế
toán, có chi phí giới hạn trong xí nghiệp, gắn với các mục tiêu của xí nghiệp và chi phí
ngoài xí nghiệp, có cơ sở ở các hoạt động khác hoặc các nguyên nhân khác”.
 Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Chi phí là một khái niệm cơ bản
nhất của bộ môn kế toán, của việc kinh doanh và trong kinh tế học, là các hao phí về
nguồn lực để doanh nghiệp đạt được một hoặc những mục tiêu cụ thể. Nói một cách khác,
hay theo phân loại kế toán tài chính thì đó là số tiền phải trả để thực hiện các hoạt động
kinh tế như sản xuất, giao dịch, v.v… nhằm mua được các loại hàng hóa, dịch vụ cần thiết

cho quá trình sản xuất, kinh doanh.
 Theo TS Trịnh Văn Sơn (chủ biên) – CN Phan Thị Hải Hà . Giáo trình Kế
toán chi phí. Nhà xuất bản Đại học Huế (2009). Chi phí được định nghĩa theo nhiều
phương diện khác nhau.
Theo kế toán tài chính, “chi phí có thể hiểu một cách trừu tượng là biểu hiện bằng
tiền những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ nhất định”.

4


Các nhân viên kế toán thường định nghĩa “chi phí như là một nguồn lực hi sinh
hoặc mất đi để đạt được một mục đích cụ thể”. Hầu hết mọi người đều xem chi phí là hao
phí nguồn lực tính bằng tiền để đổi lấy hàng hóa và dịch vụ.
Hoặc “ chi phí là những khoản làm giảm vốn chủ sở hữu” (định nghĩa của kế toán
Mỹ).
Theo kế toán quản trị, khái niệm chi phí được hiểu theo nhiều hướng, nhiều cách
khác nhau, tùy thuộc vào việc sử dụng chúng cho các mục đích và nhu cầu khác nhau của
nhà quản lý. Chi phí có thể là “dòng phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động hàng ngày khi
tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định”, chi phí cũng có thể hiểu là “dòng phí tổn ước
tính để thực hiện dự án, những phí tổn mất đi do lựa chọn phương án, hy sinh cơ hội kinh
doanh”
Những nhận thức về chi phí có thể khác nhau về quan điểm, hình thức thể hiện chi
phí nhưng tất cả đều thừa nhận một vấn đề chung là “chi phí là phí tổn tài nguyên, vật
chất, lao động và phải phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh”.
Vậy quản trị chi phí là gì?
1.2. Khái niệm, nội dung kế toán quản trị chi phí
 Theo doanhnhan360.com trong bài viết “Quản lý chi phí trong doanh
nghiệp”: Quản lý chi phí là một phần của các chiến lược tăng trưởng kinh doanh nhằm
không những cắt giảm chi phí mà còn tạo ra các ưu thế cạnh tranh rõ rệt trên thị trường.

Nếu không có kiến thức cơ bản về quản lý chi phí thì không thể nào nhận biết được
tình hình thực tế của những dự án đầu tư, các kế hoạch kinh doanh cũng như thực trạng
hoạt động của công ty.
Việc tìm giải pháp tài chính tối ưu cho chiến lược phát triển bền vững trong thời kỳ
hội nhập luôn là vấn đề nan giải nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay. Vì
vậy theo các chuyên gia, một trong những nước cờ mà doanh nghiệp nào cũng phải tính
đến là việc quản lý và tiết kiệm chi phí ngày một hiệu quả hơn để sản phẩm, dịch vụ của
mình ngày càng có chất lượng, giá cả phù hợp hơn với khách hàng.
 Theo Th.S Nguyễn Thị Phương Loan – Giáo trình Quản trị chi phí – Trường
đại học Mở TP.HCM: Quản trị chi phí là phân tích các thông tin cần thiết cho công việc
quản trị của một doanh nghiệp. Các thông tin này bao gồm các thông tin tài chính (chi phí
5


và doanh thu) lẫn các thông tin phi tài chính (năng suất, chất lượng và các yếu tố khác của
doanh nghiệp)
Nhà quản trị chi phí không đơn giản là người ghi chép các thông tin về chi phí mà
còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các quyết định quản trị để có thể cung
cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt nhất với chi phí thấp nhất.
 Theo quantri.com.vn trong bài viết “Nghệ thuật quản lý chi phí”: Về mặt lý
thuyết, chi phí kinh doanh là tổng số tiền tương đương với toàn bộ hao phí về các nguồn
lực mà công ty đã bỏ ra trong một giai đoạn kinh doanh nhất định. Việc quản lý chi phí
kinh doanh không chỉ đơn thuần là quản lý số liệu phản ánh tổng hợp chi phí mà phải dựa
trên cả các yếu tố chi phí riêng biệt để phân tích toàn bộ chi phí sản xuất theo nơi phát
sinh chi phí. Dưới các góc độ xem xét khác nhau, theo những tiêu chí khác nhau thì chi
phí kinh doanh cũng được phân loại theo các cách khác nhau để đáp ứng yêu cầu thực tế
của quản lý và hạch toán.
Trên thực tế, hoạt động quản lý chi phí được tách rời đối với công tác kế toán
thống kê. Quản lý chi phí là tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về việc sử dụng các
nguồn vốn và chi phí, từ đó đưa ra những quyết định về các chi phí ngắn hạn cũng như

dài hạn của công ty.
Nhu cầu vốn và chi phí cho sản xuất kinh doanh của công ty luôn có những biến
động nhất định trong từng thời kỳ. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của
quản lý chi phí là xem xét, lựa chọn cơ cấu vốn và chi phí sao cho tiết kiệm, hiệu quả
nhất. Quản lý chi phí bao gồm:
- Tiến hành phân tích và đưa ra một cơ cấu chi phí và nguồn vốn huy động tối ưu
cho công ty trong từng thời kỳ.
- Thiết lập một chính sách phân chia chi phí cùng các mức lợi nhuận một cách hợp
lý đối với công ty, vừa bảo vệ được quyền lợi của chủ công ty và các cổ đông, vừa đảm
bảo được lợi ích hợp pháp, hợp lý cho người lao động; xác định phần lợi nhuận còn lại từ
sự phân phối này để đưa ra các quyết định về mở rộng sản xuất hoặc đầu tư vào những
lĩnh vực kinh doanh mới, tạo điều kiện cho công ty có mức độ tăng trưởng cao và bền
vững.

6


- Kiểm soát việc sử dụng cả các tài sản trong doanh nghiệp, tránh tình trạng sử
dụng lãng phí, sai mục đích.
 Theo tapchiketoan.com trong bài viết “Kế toán quản trị chi phí và các ứng
dụng của nó trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam” của Đào Thị Minh
Tâm: Kế toán quản trị chi phí là một bộ phận của kế toán quản trị chuyên thực hiện việc
xử lý và cung cấp các thông tin về chi phí nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức
năng của nhà quản trị như hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra và ra quyết định,
Theo định nghĩa của Luật kế toán (khoản 3, điều 4) “Kế toán quản trị là việc thu
thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”
Như vậy, để xác định nội dung của kế toán quản trị chi phí trước hết cần xác định
nội dung của kế toán quản trị. Theo hướng dẫn của Thông tư số 53/2006/TT-BTC ngày 12
tháng 6 năm 2006 của Bộ Tài chính: Kế toán quản trị nhằm cung cấp thông tin về hoạt
động nội bộ doanh nghiệp như: Chi phí từng bộ phận (trung tâm chi phí), từng công việc

sản phẩm; Phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch về doanh thu, chi phí, lợi
nhuận; quản lý tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ; Phân tích mối quan hệ giữa chi phí với
khối lượng và lợi nhuận; lựa chọn thông tin thích hợp cho các quyết định đầu tư ngắn hạn
và dài hạn; Lập dự toán ngân sách sản xuất kinh doanh,…v.v. Nhằm phục vụ cho việc
điều hành, kiểm tra và ra quyết định kinh tế.
Trên cơ sở nội dung công việc của kế toán quản trị nói chung có thể xác định nội
dung của kế toán quản trị chi phí như sau:
+ Lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh;
+ Xác định giá phí đơn vị sản phẩm;
+ Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chi phí bộ phận theo từng trung tâm chi
phí;
+ Phân tích mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng và lợi nhuận;
+ Phân tích thông tin chi phí để lựa chọn thông tin thích hợp cho các quyết định
kinh doanh.
Khi xem xét nội dung của kế toán quản trị chi phí cho thấy sự giao thoa giữa nội
dung của kế toán chi phí và kế toán quản trị chi phí, vậy giữa chúng có quan hệ với nhau

7


như thế nào. Thực chất kế toán quản trị chi phí được tách ra từ kế toán chi phí của các nhà
quản trị. Tuy nhiên giữa chúng có những có những điểm khác nhau cơ bản sau:
- Về đối tượng sử dụng thông tin: kế toán chi phí cung cấp cả thông tin kế toán tài
chính và kế toán quản trị vì đối tượng sử dụng thông tin kế toán chi phí bao gồm các cá
nhân, tổ chức bên ngoài và các nhà quản trị bên trong doanh nghiệp. Điều đó khẳng định
về mặt đối tượng sử dụng thông tin kế toán chi phí nói chung rộng hơn đối tượng sử dụng
thông tin kế toán quản trị chi phí.
- Về mặt nội dung: kế toán chi phí bao gồm hai bước cơ bản:
+ Tập hợp chi phí, tính giá thành, phân tích chênh lệch chi phí trong kỳ để cung
cấp thông tin kế toán quản trị và thông tin cho việc lập các báo cáo tài chính;

+ Cân đối chi phí, xử lý điều chỉnh chênh lệch chi phí và giá thành sản phẩm trong
kỳ về chi phí thực tế.
- Về tính bắt buộc: Thông tin kế toán chi phí cung cấp vừa mang tính linh hoạt
thường xuyên, mang tính chuẩn mực và định kỳ. Thông tin của kế toán quản trị chi phí
vừa mang tính linh hoạt, thường xuyên và hữu ích, không bắt buộc phải tuân theo những
chuẩn mực của chế độ kế toán hiện hành.
- Về đặc điểm của thông tin: Nếu như thông tin kế toán chi phí cung cấp là những
thông tin quá khứ được xử lý từ các tài liệu lịch sử, thông qua việc lập các báo cáo chi phí
và giá thành nhằm kiểm soát chi phí và hạ giá thành, thì thông tin kế toán quản trị chi phí
cung cấp bao gồm cả những thông tin quá khứ, và những thông tin dự báo thông qua việc
lập các kế hoạch và dự toán chi phí trên cơ sở các định mức chi phí(bao gồm cả các định
mức về số lượng và định mức về đơn giá) nhằm kiểm soát chi phí thực tế, đồng thời làm
căn cứ cho việc lựa chọn các quyết định về giá bán sản phẩm, quyết định ký kết các hợp
đồng, quyết định tiếp tục sản xuất hay thuê ngoài gia công…
Như vậy, kế toán quản trị chi phí nhấn mạnh đến tính dự báo của thông tin và trách
nhiệm của các nhà quản lý thuộc các cấp quản lý (trong đó tập trung vào cấp quản trị cấp
thấp như các tổ, đội, phân xưởng sản xuất hay bộ phận quản lý và phục vụ là nơi trực tiếp
phát sinh các chi phí) nhằm gắn trách nhiệm của các nhà quản trị với chi phí phát sinh
thông qua hình thức thông tin chi phí được cung cấp theo các trung tâm chi phí (nguồn
gây ra chi phí).
8


- Về nội dung cung cấp thông tin: Kế toán chi phí quan tâm đến các chi phí thực tế
phát sinh theo loại chi phí, tổng mức chi phí và chi tiết theo từng mặt hàng. Như vậy, kế
toán quản trị chi phí trả lời câu hỏi chi phí sẽ là bao nhiêu, thay đổi như thế nào khi có sự
thay đổi về sản lượng sản xuất, ai phải chịu trách nhiệm giải thích về những thay đổi bất
lợi của chi phí và giải pháp cần đưa ra để điều chỉnh, thì kế toán chi phí trả lời câu hỏi chi
phí thực tế đã phát sinh là bao nhiêu, những chi phí nào được tính vào giá thành sản
phẩm, giá thành thực tế của từng đơn vị sản phẩm.

Như vậy chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của quản trị chi phí trong doanh
nghiệp. Vậy quản trị chi phí có những vai trò gì?
2. Vai trò của công tác tổ chức kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp
 Theo quantri.com.vn trong bài viết “Nghệ thuật quản lý chi phí” thì vai trò
của quản trị chi phí là: Quản lý chi phí giúp giám đốc hoạch định chiến lược chi tiêu ngắn
và dài hạn của doanh nghiệp dựa trên sự đánh giá tổng quát cũng như từng khía cạnh cụ
thể các yếu tố chi phí có ảnh hưởng quan trọng tới sự tồn tại của doanh nghiệp, bao gồm:
tham gia vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán; xác định chiến
lược tài chính cho các chương trình, các dự án của doanh nghiệp là mở rộng hay thu hẹp
sản xuất…
Yếu tố quan trọng nhất để hoạt động quản lý chi phí đạt hiệu quả cao chính là sự
cân đối hài hòa giữa tiết kiệm chi phí với các yếu tố tăng trưởng kinh doanh, đảm bảo
việc cắt giảm chi phí đóng một vai trò thích hợp và rõ ràng trong lịch trình tăng trưởng
kinh doanh của công ty. Trong đó cần chú trọng cơ chế quản lý nguồn vốn của công ty
theo hướng điều chỉnh cơ cấu thu chi phù hợp với việc cắt giảm các chi phí. Bên cạnh đó,
hoạt động quản lý chi phí hướng tới việc chi tiêu hợp lý, hiệu quả, đảm bảo kiểm soát
được vội chi, tiến tới cân bằng vốn và doanh thu.
Có thể nói, trong kinh doanh ngày nay, các khoản chi phí luôn phát sinh hàng ngày,
thị trường vốn biến động liên tục và luôn đòi hỏi một kế hoạch quản lý chi phí hiệu quả
nhất. Thêm nữa, tình hình tài chính kinh doanh lành mạnh là một trong những điều kiện
tiên quyết đảm bảo mọi hoạt động của công ty diễn ra một cách nhịp nhàng, đồng bộ, đạt
hiệu quả cao. Và sự lành mạnh đó có được hay không phụ thuộc phần lớn vào khả năng
quản lý chi phí của công ty.
9


 Theo Th.S Nguyễn Thị Phương Loan – Giáo trình Quản trị chi phí – Trường
đại học Mở TP.HCM quản trị chi phí có các vai trò:
- Quản trị chi phí giúp các doanh nghiệp tập trung năng lực của mình vào các điểm
mạnh, tìm ra cơ hội hoặc các vấn đề quan trọng trong sản xuất kinh doanh.

- Quản trị chi phí giúp doanh nghiệp có thể cải thiện chất lượng sản phẩm hay dịch
vụ của mình mà không làm thay đổi chi phí.
- Quản trị chi phí giúp người ra quyết định nhận diện được các nguồn lực có chi
phí thấp nhất trong việc sản xuất và cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ.
Khi bắt tay vào xây dựng các chiến lược sản xuất kinh doanh có một điều vô cùng
quan trọng mà không một doanh nghiệp nào được phép bỏ qua là phải tính đến việc các
chi phí sẽ được quản lý và sử dụng như thế nào, xem các đồng vốn bỏ ra hiệu quả đến
đâu, có đem lại lợi nhuận và hiệu quả như mong muốn ban đầu hay không? Có thể nói, tri
thức quản lý chi phí là một yếu tố thiết yếu trong đầu tư và kinh doanh. Nếu không có
kiến thức cơ bản về quản lý chi phí, thì chúng ta không thể nào nhận biết được tình hình
thực tế của những dự án đầu tư, các kế hoạch kinh doanh cũng như thực trạng hoạt động
của doanh nghiệp.
Rõ ràng yếu tố chi phí luôn đóng vai trò quan trọng trong bất cứ kế hoạch mở rộng
và tăng trưởng kinh doanh nào. Các công ty muốn tăng trưởng và đẩy mạnh lợi nhuận cần
không ngừng tìm kiếm những phương thức quản lý và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn
vốn, chi phí kinh doanh, đồng thời phải tái đầu tư các khoản tiền đó cho những cơ hội
tăng trưởng triển vọng nhất.
 Theo Trần Nhật Thiện – Giáo trình kế toán quản trị – Đại học Đà Lạt (2002)
vai trò của kế toán quản trị: Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
phải lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp mình. Từ kế hoạch chung của
doanh nghiệp, các bộ phận triển khai thành các mục tiêu thực hiên và kiểm tra kết quả
thực hiện các mục tiêu này. Đó chính là kiểm tra quản lý – kiểm tra hướng hoạt động của
doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện các mục tiêu đề ra cần phải quản lý các quy trình
cụ thể, chi tiết.
Kế toán quản trị là công cụ đánh giá việc thực hiện những mục tiêu thông qua việc
phân tích các chi phí, là công cụ kiểm tra quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh
10


doanh theo kế hoạch đã đề ra từ đó có những quyết định hợp lý để hoạt động ngày càng

đạt hiệu quả cao hơn. Do đó kế toán quản trị là công cụ chủ yếu để điều hành quản lý, là
một bộ phận quan trọng trong tiếp thị để quyết định sản xuất kinh doanh.
Trong kinh doanh, có hai cách để tối đa hóa lợi nhuận: tăng doanh thu và giảm chi
phí. Kế toán quản trị chiến lược tập trung vào các chức năng sau trong quá trình tối đa hóa
lợi nhuận. Các công ty cố gắng để giảm thiểu chi phí kinh doanh phát sinh khi sản xuất
hàng hoá, dịch vụ để đạt được thị phần cao nhất trong môi trường kinh doanh. Chức năng
kinh doanh chủ yếu của kế toán quản trị chiến lược bao gồm phân bổ chi phí thích hợp,
một quá trình đánh giá liên tục liên quan đến chi phí sản xuất kinh doanh và xác định khả
năng thương lượng của các nhà cung cấp.
Để thực hiện các công việc trong quá trình quản lý hoạt động của tổ chức, các nhà
quản lý cần thông tin.Thông tin mà các nhà quản lý cần để thực hiện công việc được cung
cấp từ nhiều nguồn khác nhau: các nhà kinh tế, các chuyên gia tài chính, các chuyên viên
tiếp thị, sản xuất và các nhân viên kế toán quản trị của tổ chức. Hệ thống thông tin kế toán
quản trị trong tổ chức có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho các nhà quản lý để thực hiện
các hoạt động quản lý. Kế toán quản trị có bốn mục tiêu chủ yếu như sau:
- Cung cấp thông tin cho nhà quản lý để lập kế hoạch và ra quyết định;
- Trợ giúp nhà quản lý trong việc điều hành và kiểm soát hoạt động của tổ chức;
- Thúc đẩy các nhà quản lý đạt được các mục tiêu của tổ chức;
- Đo lường hiệu quả hoạt động của các nhà quản lý và các bộ phận, đơn vị trực

thuộc trong tổ chức.
Các nhà quản lý sản xuất thường vạch kế hoạch và ra quyết định về các phương án
và lịch trình sản xuất, các nhà quản lý tiếp thị thì ra các quyết định về quảng cáo, khuyến
mãi và định giá sản phẩm, và các nhà quản trị tài chính thường ra các quyết định về huy
động vốn và đầu tư. Tất cả các nhà quản lý này đều cần thông tin cho các quyết định của
họ. Chính thông tin của kế toán quản trị sẽ cung cấp các thông tin hữu ích cho các nhà
quản lý các cấp trong tổ chức.
Nói tóm lại kế toán quản trị chi phí có một vai trò rất quan trọng đối với các nhà

quản lý. Các nhà quản lý dựa vào thông tin kế toán quản trị để thực hiện việc điều hành,

hoạch định, kiểm soát hoạt động của tổ chức và ra quyết định.
11


3. Các phương pháp doanh nghiệp sử dụng trong công tác kế toán quản trị chi phí
3.1. Quản trị chi phí trong môi trường kinh doanh hiện nay
Môi trường kinh doanh hiện nay đã có rất nhiều thay đổi, và đã làm biến đổi thực
tế quản trị chi phí của doanh nghiệp
- Môi trường kinh doanh toàn cầu: Hiện nay, môi trường kinh doanh đã mở rộng
đến thị trường thế giới, làm cho các doanh nghiệp phải chịu sức ép cạnh tranh trên quy
mô toàn cầu. Vì vậy, doanh nghiệp cần nhiều thông tin về quản trị chi phí hơn để có thể
xây dựng chiến lược cạnh tranh và kinh doanh có hiệu quả.
- Công nghệ sản xuất: Để cạnh tranh có hiệu quả, các doanh nghiệp phải chấp nhận
thay đổi công nghệ sản xuất. Điều này không những giúp cho doanh nghiệp có thể kiểm
soát được các dòng chi phí vào (chi phí nguyên vật liệu, lao động, chi phí khác) mà còn
có thể xây dựng các quyết định cho đầu ra sản xuất (giá bán, sản lượng, doanh thu, lợi
nhuận, tồn kho).
- Định hướng khách hàng: Một thay đổi quan trọng của môi trường kinh doanh
hiện nay là sự thay đổi liên tục thị hiếu của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ. Họ
thích sản phẩm có chất lượng cao, có nhiều tính năng mới, mẫu mã đa dạng, các dịch vụ
kèm theo phải phong phú. Vì vậy, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là phải thỏa
mãn các yêu cầu này với chi phí thấp nhất. Vai trò của quản trị chi phí, vì thế, trở nên rất
quan trọng vì nếu không quản lý và phân tích tốt, sản phẩm tuy có chất lượng cao nhưng
giá cũng sẽ cao, khách hàng sẽ không thích nữa.
- Tổ chức quản trị: Do mục tiêu là nhắm đến thỏa mãn thị hiếu của khách hàng nên
các hoạt động sản xuất và kinh doanh cũng chuyển dịch theo hướng khách hàng. Vì thế, tổ
chức của doanh nghiệp cũng thay đổi và hình thành các nhóm hoạt động hoặc bộ phận
chức năng (nghiên cứu phát triển, tổ chức sản xuất, giao hàng, bảo hành, sữa chữa). Theo
đó, thực tế việc quản trị chi phí cũng sẽ có những thay đổi cho phù hợp. Từng bộ phận sẽ
có các chi phí hoạt động của mình. Các báo cáo về chi phí sẽ phản ánh hoạt động của các

bộ phận đã hợp lý hay chưa hợp lý.
Hiện nay, để giảm chi phí, tăng năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm, gia tăng
tính năng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp đã sử dụng một
hoặc tất cả các công cụ sau:
12


- Hệ thống Just-in-time (JIT): sản xuất theo đơn hàng, không dư không thiếu,
như thế sẽ giảm chi phí, giảm tồn kho, giao hàng đúng hẹn đưa đến tăng doanh thu, tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
 Theo tapchiketoan.com trong bài viết “Hệ thống quản lý chi phí” của tác giả
Quang Khải: Để tối thiểu hóa chi phí không gia tăng giá trị, nhiều công ty áp dụng hệ
thống JIT, hệ thống trong đó công ty mua nguyên vật liệu và sản xuất cho các bộ phận cấu
thành sản phẩm ngay khi chu trình sản xuất cần tới chúng, nhằm giảm tồn kho tới mức
thấp nhất có thể vì chi phí kho hàng là chi phí không gia tăng giá trị rất lớn. Thông qua
JIT, công ty có thể chống lãng phí và cải thiện chất lượng.
Các công ty áp dụng JIT đều mang định hướng khách hàng vì các đơn đặt hàng tạo
ra chu trình sản xuất. Thay cho việc nhập kho các thành phẩm và đợi đơn đặt hàng, hệ
thống JIT sản xuất các sản phẩm trực tiếp theo các đơn đặt hàng nhận được. JIT thành
công nhờ một số yếu tố then chốt:
+ Tập trung vào chất lượng: JIT luôn đi đôi với hệ thống quản lý chất lượng tổng
hợp (TQC) và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công nhân tay nghề cao với độ sai sót bằng
không sẽ giảm được các chi phí không gia tăng giá trị như kiểm soát viên hay sữa chữa
sản phẩm.
+ Chu kỳ sản xuất ngắn: chu kỳ sản xuất ngắn giúp tăng tốc độ đáp ứng đơn đặt
hàng tức thời và giảm mức độ tồn kho.
+ Chu kỳ sản xuất trôi chảy: JIT đơn giản hóa chu trình sản xuất để giảm độ trễ,
phát triển mối quan hệ với nhà cung cấp để có được nguyên vật liệu ngay khi cần với chất
lượng đảm bảo. JIT duy trì tay nghề đều đặn theo nhóm để tránh chi phí ngắt quãng và chi
phí chuyển giao bán thành phẩm bằng cách phân bố máy móc cùng một nhóm công việc

càng gần nhau càng tốt, công nhân được huấn luyện để sử dụng được toàn bộ các máy
móc cùng nhóm. Đây là hình thức sản xuất theo ô. Mỗi ô có thể được coi như một nhà
máy thu nhỏ với các nhóm máy thường được sắp xếp theo hình chữ “U”.
+ Vận hành sản xuất linh hoạt: máy móc cần linh hoạt trong khả năng tạo ra các
linh kiện và sản phẩm để tăng thêm sản lượng nếu sản phẩm có mức cầu vượt bậc hoặc
tránh cho việc đình trệ sản xuất vì một máy móc nào đó bị hỏng. Thời gian cài đặt và thay

13


đổi hệ thống máy móc cũng phải đủ ngắn. Nhân viên cũng cần được đào tạo đa năng
nhằm thế chỗ và kiêm nhiệm, giảm được chi phí lao động bất thường.
- Hệ thống sản xuất linh hoạt FMS (Klexible Manufacturing System): giảm thất
thoát, lãng phí trong sản xuất. Muốn xây dựng hệ thống này thì yêu cầu đầu tư ban đầu
khá lớn nhưng hiệu quả thì vô cùng lớn lao.
3.2. Các phương pháp doanh nghiệp sử dụng trong công tác kế toán quản trị chi phí
3.2.1. Kế toán chi phí theo phương pháp truyền thống
 Theo Th.S Nguyễn Thị Phương Loan: Tính toán chi phí truyền thống là một
phương pháp được sử dụng khi chi phí cho lao động chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản
phẩm. Phần chi phí sản xuất chung (các chi phí không thể xác định một cách trực tiếp
trong từng sản phẩm) chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Do đó, chúng sẽ được tính toán và phân bổ
vào chi phí sản phẩm dựa trên cơ sở sản lượng được sản xuất hoặc một tác nhân nào đó
như số giờ máy, số giờ lao động trực tiếp. Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, tính
toán dễ dàng.
- Những hạn chế của phương pháp tính toán truyền thống:
+ Không phản ánh được những hoạt động cần thiết cho việc sản xuất sản phẩm.
+ Trong chi phí sản xuất chung (tất cả là chi phí gián tiếp) có các chi phí như khấu
hao, bảo trì, bảo hiểm, lương cho lao động gián tiếp…được phân bổ bình quân vào mỗi
sản phẩm. Kết quả là làm sai lệch chi phí sản phẩm do mỗi khối lượng sản phẩm được sản
xuất có sản lượng, quy mô, độ phức tạp khác nhau.

+ Sự sai lệch trong chi phí sản phẩm có thể là nguyên nhân đưa đến những quyết
định không chính xác như: sai lầm trong quyết định sản lượng sản xuất, ấn định giá sản
phẩm, hoặc phân bổ các nguồn lực sản xuất không hiệu quả.
 Theo tapchiketoan.com trong bài viết “Bàn thêm về phương pháp kế toán chi
phí theo hoạt động” của tác giả Trần Đức Nam: cho thấy thêm những bất cập trong
phương pháp kế toán chi phí truyền thống là:
Theo phương pháp kế toán chi phí truyền thống, giá thành sản phẩm chỉ bao gồm
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, và chi phí sản xuất chung.
Trong đó, chi phí sản xuất chung thường được phân bổ cho từng sản phẩm dựa trên một
tiêu thức phân bổ cố định (ví dụ: phân bổ theo tỷ lệ chi phí nhân công trực tiếp). Việc
14


phân bổ toàn bộ chi phí chung theo một tiêu thức phân bổ cố định như vậy là không phù
hợp bởi chi phí chung bao gồm nhiều khoản mục có bản chất khác nhau, có vai trò và
tham gia với mức độ khác nhau vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ: chi
phí khấu hao máy móc, chi phí khởi động dây chuyền sản xuất, chi phí nghiên cứu phát
triển sản phẩm không tỷ lệ thuận với chi phí nhân công trực tiếp. Vì vậy, áp dụng một tiêu
thức phân bổ cố định cho toàn bộ chi phí chung khiến cho giá thành thực tế của sản phẩm
bị phản ánh sai lệch.
Vấn đề thứ hai đối với phương pháp kế toán chi phí truyền thống là khái niệm giá
thành sản phẩm chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là “giá thành sản xuất”, theo đó các chi phí
gián tiếp như chi phí quản lý, chi phí bán hàng không được tính vào giá thành sản phẩm.
Trên thực tế các doanh nghiệp khi tính “giá thành toàn bộ” có phân bổ các chi phí quản lý
và chi phí bán hàng vào giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, tiêu thức phân bổ thường dựa
trên sản lượng tiêu thụ, tức là cũng không phù hợp như phân tích ở trên. Ngoài ra, trong
các phân tích có sử dụng thông tin về giá thành sản phẩm thì các doanh nghiệp thường sử
dụng giá thành sản xuất chứ không sử dụng giá thành toàn bộ.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá và dịch vụ, của kinh tế thị trường,
phương pháp kế toán chi phí truyền thống với hai đặc điểm nêu trên đã tỏ ra không còn

phù hợp, làm giảm giá trị của thông tin kế toán đối với công tác quản lý kinh doanh.
Trong nền kinh tế còn kém phát triển, chi phí trực tiếp cấu thành phần lớn giá trị sản
phẩm. Do đó, việc phân bổ chi phí gián tiếp dù không hợp lý, thậm chí bỏ qua không
phân bổ vào giá thành sản phẩm các chi phí bán hàng, chi phí quản lý cũng không ảnh
hưởng lớn đến giá thành sản phẩm. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thị
trường, sự ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, chi phí gián tiếp này
càng đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Ví dụ: chi phí nghiên cứu phát triển của các công ty dược, chi phí
quảng cáo của các công ty nước giải khát, các nhà sản xuất phim. Do mức độ trọng yếu
của các chi phí gián tiếp này, việc không phân bổ hay phân bổ không hợp lý sẽ khiến cho
giá thành sản phẩm bị phản ánh sai lệch, cản trở việc ra quyết định tối ưu của các nhà
quản lý.

15


Thứ hai, trong một nền kinh tế chưa phát triển, cạnh tranh chưa gay gắt, các doanh
nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp có sản phẩm đặc thù) có thể chủ động trong việc xác
định giá bán cao hơn nhiều so với giá thành sản phẩm. Mức lợi nhuận cao đó khiến cho
thiệt hại do những quyết định kinh doanh không tối ưu trở nên khó nhận biết hơn. Ví dụ,
do xác định giá thành không chính xác nên một doanh nghiệp có thể định giá bán thấp
hơn giá thành thực tế cho một sản phẩm. Tuy nhiên mức lỗ do định giá sai đó sẽ được bù
đắp bởi mức lãi cao của các sản phẩm khác. Kết quả là thiệt hại được giảm đi đáng kể.
Ngược lại, trong một nền kinh tế thị trường phát triển, mức độ cạnh tranh khốc liệt khiến
cho các doanh nghiệp không thể tự do xác định giá bán sản phẩm (trừ một số ít doanh
nghiệp độc quyền). Thay vào đó, thị trường sẽ quyết định mức giá bán. Trong điều kiện
đó, những sai sót trong việc xác định giá thành sản phẩm có thể khiến cho các doanh
nghiệp phải trả giá đắt.
Kế toán chi phí theo phương pháp truyền thống dựa trên các tiêu thức phân bổ gián
tiếp trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có thể dẫn đến kết quả

là giá thành của các sản phẩm không chính xác. Vì vậy, hiện nay các công ty của các nước
tư bản phát triển đã bỏ qua các phương pháp kế toán chi phí truyền thống, vận dụng các
phương pháp kế toán chi phí hiện đại như kế toán chi phí dựa trên hoạt động (Activity
Based Costing – ABC), kế toán chi phí theo phương pháp “chi phí mục tiêu” (target cost).
3.2.2. Kế toán chi phí theo hoạt động (ABC)
ABC là phương pháp tính toán để ấn định chi phí đến sản phẩm, dịch vụ dựa trên
mức sử dụng hay tiêu thụ các nguồn lực của các hoạt động để sản xuất ra sản phẩm đó.
Phương pháp ABC được hình thành do chi phí sản xuất chung chỉ liên quan một
cách gián tiếp đến sản phẩm cuối cùng. Vì vây, khi phân bổ chúng cho sản phẩm phải dựa
trên một cơ sở hợp lý. Cơ sở đó là các hoạt động được thực hiện cho sản phẩm đó.
Phương pháp ABC có thể được trình bày như sau:
Hoạt động

Chi phí của hoạt
động

Sản phẩm, dịch vụ

Theo Th.S Nguyễn Thị Phương Loan:
Các bước thực hiện của phương pháp ABC:
- Bước 1: Xác định các chi phí nguồn lực và phân tích các hoạt động.
16


+ Hầu hết chi phí nguồn lực đều được ghi chép trong sổ cái kế toán như mua NVL,
xử lý NVL, chi phí nhà xưởng, máy móc thiết bị, lương nhân viên…
+ Phân tích các hoạt động: là xác định và mô tả những việc phải làm trong đơn vị
để sản xuất ra sản phẩm. Công việc này bao gồm: thu thập dữ liệu, điều tra, quan sát,
phỏng vấn và liệt kê các công việc được thực hiện để có được những thông tin cần thiết
cho việc phân tích.

- Bước 2: Ấn định chi phí nguồn lực đến các hoạt động
Khi thực hiện các hoạt động sẽ phải sử dụng các nguồn lực, việc này tạo ra chi phí.
Nếu thực hiện nhiều hoạt động sẽ phải sử dụng nhiều nguồn lực, chi phí tăng lên. Đây là
mối quan hệ nhân quả và là cơ sở cho tính toán theo ABC. Chi phí nguồn lực được ấn
định vào các hoạt động một cách trực tiếp hoặc ước tính.
+ Trực tiếp: yêu cầu phải đo lường thực tế mức sử dụng các nguồn lực của hoạt
động đó. Ví dụ: cần bao nhiêu chi phí cho điện để vận hành máy trong dây chuyền sản
xuất sản phẩm A.
+ Ước tính: nếu không có sẵn các đo lường trực tiếp, nhà quản trị phải ước tính
mức tiêu thụ của từng hoạt động trong các hoạt động đã phân tích. Ví dụ: ước tính số giờ
máy hoạt động cần thiết cho việc lắp ráp một xe hơi.
- Bước 3: Ấn định chi phí hoạt động đến đối tượng nhận chi phí
Một khi đã biết chi phí các hoạt động, cần phải đo lường mức độ tiêu thụ các hoạt
động đó trên mỗi sản phẩm được sản xuất. Chúng ta gọi đó là tác nhân tạo chi phí dạng
hoạt động (ví dụ: số giờ máy hoạt động, số máy móc sử dụng, số NVL được kiểm tra và
xử lý). Hoạt động nào tiêu thụ nhiều thì sẽ có chi phí cao và ngược lại.
Như vậy có thể nói rằng, phương pháp ABC có thể biến một chi phí gián tiếp thành
một chi phí trực tiếp với một đối tượng tạo lập chi phí xác định. Việc lựa chọn các hoạt
động và tiêu chuẩn phân bổ chi phí hợp lý giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có được
những báo cáo về giá thành sản phẩm, dịch vụ với độ tin cậy cao hơn nhiều so với
phương pháp truyền thống.
 Theo tapchiketoan.com trong bài viết “Bàn thêm về phương pháp kế toán chi
phí theo hoạt động” của tác giả Trần Đức Nam thì phương pháp ABC có những ưu điểm:

17


Phương pháp ABC được giới thiệu đầu tiên vào giữa thập kỷ 80, bởi Robert
Kaplan và Robin Cooper, trước hết nhằm giải quyết hai nhược điểm của phương pháp kế
toán chi phí truyền thống nêu trên. Theo phương pháp ABC, giá thành sản phẩm không

chỉ bao gồm chi phí sản xuất mà là toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh, bao gồm cả các
chi phí gián tiếp như chi phí bán hàng, chi phí quản lý. Như trình bày ở trên, do tỷ trọng
chi phí gián tiếp ngày càng lớn, việc không phân bổ các chi phí này vào giá thành sản
phẩm có thể dẫn tới những ngộ nhận về mức lợi tức sản phẩm và do đó sai lầm trong ra
quyết định kinh doanh. Ví dụ, một sản phẩm mới có thể có giá thành công xưởng nhỏ hơn
các sản phẩm hiện tại, nhưng đòi hỏi một khoản chi phí marketing lớn để đưa ra thị
trường. Nếu chỉ căn cứ vào giá thành công xưởng thì có thể thấy sản xuất sản phẩm đó sẽ
mang lại lợi nhuận cao hơn, nhưng nếu phân bổ đủ cả chi phí marketing tăng thêm thì có
thể sản phẩm đó sẽ bị lỗ.
Cùng với việc phân bổ toàn bộ các chi phí vào giá thành sản phẩm, phương pháp
ABC sử dụng một hệ thống các tiêu thức phân bổ được xây dựng trên cơ sở phân tích chi
tiết mối quan hệ nhân quả giữa chi phí phát sinh cho từng hoạt động và mức độ tham gia
của từng hoạt động vào quá trình sản xuất và kinh doanh sản phẩm, thay vì chỉ sử dụng
một tiêu thức phân bổ (ví dụ chi phí nhân công trực tiếp) như phương pháp truyền thống.
Các tiêu thức phân bổ do đó phản ánh chính xác hơn mức độ tiêu hao nguồn lực thực tế
của từng sản phẩm. Theo đó, ABC sẽ giúp các nhà quản lý tránh được những quyết định
sai lầm do sử dụng thông tin không chính xác về giá thành. Ngoài ra, bên cạnh việc cung
cấp thông tin chính xác về giá thành, ABC còn cung cấp thông tin chi tiết về cơ cấu chi
phí của từng sản phẩm, giúp cho nhà quản lý có thể linh hoạt hơn trong việc lập kế hoạch
ngân sách cũng như điều chỉnh các chính sách, chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp
trong điều kiện thị trường luôn biến động.
Như vậy, có thể thấy phương pháp ABC cung cấp thông tin giá thành chính xác và
hợp lý hơn so với phương pháp kế toán chi phí truyền thống. Tuy nhiên, đó chỉ là một
trong những mục tiêu của ABC. Việc áp dụng ABC còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả
công tác quản lý doanh nghiệp thông qua các ứng dụng sau.
Để xây dựng được hệ thống các tiêu thức phân bổ chi phí, yêu cầu đầu tiên là phải
xác định được toàn bộ các hoạt động diễn ra trong doanh nghiệp trong một chu kỳ sản
18



xuất kinh doanh. Bước thứ hai, doanh nghiệp cần xác định mức chi phí cho mỗi hoạt động
trong từng kỳ. Cuối cùng, mức đóng góp của từng hoạt động vào từng sản phẩm được xác
định. Với những thông tin chi tiết như vậy, các nhà quản lý có thể dễ dàng phân loại các
hoạt động trong doanh nghiệp theo các nhóm: các hoạt động có mức đóng góp cao vào
giá trị sản phẩm (high value adding activities), các hoạt động có mức đóng góp thấp (low
value adding activities), và các hoạt động không đóng góp, thậm chí là nhân tố cản trở
quả trình sản xuất kinh doanh (non-value adding activities/constraints). Trên cơ sở hiểu rõ
tầm quan trọng của các hoạt động, nhà quản lý có thể đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp bằng cách loại bỏ những hoạt động không có đóng góp
vào giá trị sản phẩm, tổ chức lại các hoạt động có mức đóng góp thấp nhằm nâng cao hơn
mức đóng góp của các hoạt động này. Ngay đối với các hoạt động có mức đóng góp cao,
ABC cũng cung cấp thông tin về quá trình phát sinh chi phí, nguyên nhân phát sinh chi
phí cho các hoạt động, qua đó tạo cơ hội cắt giảm chi phí kinh doanh. Cần lưu ý việc cắt
giảm chi phí kinh doanh ở đây được xét trên phạm vi tổng thể. Tức là nhà quản lý có thể
tăng chí phí cho một hoạt động cụ thể nào đó nhằm nâng cao mức đóng góp của hoạt
động đó vào quá trình sản xuất kinh doanh, qua đó giảm giá thành sản phẩm.
Ngày nay, trong một nền kinh tế thị trường phát triển, một xu hướng khá phổ biến
là việc các doanh nghiệp không còn tự mình thực hiện toàn bộ các hoạt động sản xuất
kinh doanh nữa mà chỉ tập trung vào một số khâu có hiệu quả nhất. Các công đoạn khác
sẽ được thuê ngoài (outsource). Ví dụ, năm 2005 hãng sản xuất máy bay Airbus công bố
outsource 70% các công đoạn trong quá trình sản xuất máy bay. Để ra quyết định
outsource, các doanh nghiệp cần có các thông tin chi tiết về toàn bộ các hoạt động của
mình, chi phí cho từng hoạt động, vai trò của từng hoạt động trong toàn bộ quá trình sản
xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó các nhà quản lý có thể xác định được các hoạt động nào
không thể thuê ngoài vì lý do bảo mật công nghệ hoặc vì đó là các hoạt động có tính chất
sống còn nên doanh nghiệp phải luôn chủ động kiểm soát, các hoạt động doanh nghiệp có
lợi thế so sánh nên tự thực hiện sẽ hiệu quả hơn thuê ngoài, và các hoạt động thuê ngoài
sẽ hiệu quả hơn. Có thể thấy rằng phương pháp ABC cung cấp toàn bộ các thông tin này
với mức độ tin cậy cao hơn nhiều so với phương pháp truyền thống.


19


Một ưu điểm nữa của phương pháp ABC so với phương pháp truyền thống là trong
khi phương pháp truyền thống chỉ cung cấp thông tin về mức chi phí thì phương pháp
ABC còn cung cấp thông tin về quá trình và nguyên nhân phát sinh chi phí. Việc hiểu rõ
quá trình và nguyên nhân phát sinh chi phí không chỉ giúp tìm ra biện pháp thích hợp để
cắt giảm chi phí mà còn giúp cho nhà quản lý có thể xây dựng được một cơ chế đánh giá
và khuyến khích nhân viên phù hợp, góp phần quan trọng nâng cao hiệu suất làm việc của
nhân viên, qua đó cải thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể, các
thông tin do ABC cung cấp cho phép nhà quản lý có thể thấy rõ mối liên hệ giữa ba yếu
tố: chi phí phát sinh - mức độ hoạt động - mức độ đóng góp vào sản phẩm. Việc hiểu rõ
mối liên hệ này sẽ làm thay đổi tư duy quản lý từ chỗ tìm cáchcắt giảm chi phí sang nâng
cao giá trị doanh nghiệp. Theo đó, một sự tăng chi phí sẽ không phải là không tốt nếu như
lợi ích tăng thêm (incremental benefit) cao hơn chi phí tăng thêm (incremental cost), và
do đó tạo ra giá trị tăng thêm (incremental value). Theo phương pháp kế toán truyền
thống, mối liên hệ này là không rõ ràng, theo đó các doanh nghiệp có xu hướng xây dựng
cơ chế khuyến khích gắn với việc giảm chi phí, gián tiếp hạn chế các cơ hội làm tăng giá
trị doanh nghiệp do nhân viên chỉ trú trọng tiết kiệm chi phí thay vì tìm cách tạo ra giá trị
gia tăng. Việc áp dụng phương pháp ABC sẽ cho phép doanh nghiệp có thể xây dựng một
cơ chế đánh giá và khuyến khích nhân viên dựa trên mức độ tạo ra giá trị gia tăng thay vì
dựa trên chí phí, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp.
Cuối cùng, việc áp dụng phương pháp ABC còn góp phần hỗ trợ hoạt động
marketing trong việc xác định cơ cấu sản phẩm cũng như chính sách giá. Đặc biệt trong
trường hợp doanh nghiệp có nhiều mặt hàng thì việc đàm phán với khách hàng hay xử lý
đơn hàng một cách nhanh chóng đòi hỏi phải có thông tin chi tiết về giá thành cũng như
cơ cấu chi phí của từng sản phẩm, qua đó có thể xác định các mức giá tối ưu cho các đơn
hàng khác nhau với cơ cấu sản phẩm khác nhau. Nắm được các thông tin chi tiết và chính
xác về chi phí cho các sản phẩm còn giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc cải tiến
(customization) sản phẩm của mình nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường bằng

cách đưa thêm vào sản phẩm những giá trị gia tăng trong điều kiện chi phí còn cho phép.
Đồng thời, doanh nghiệp cũng có thể chủ động xây dựng chiến lược marketing để định

20


hướng nhu cầu khách hàng vào các mặt hàng có lợi nhuận cao, thay thế cho các mặt hàng
mà doanh nghiệp không có lợi thế.
Tóm lại, tính ưu việt của ABC so với phương pháp truyền thống không chỉ ở việc
cung cấp thông tin về giá thành sản phẩm chính xác hơn, mà hơn thế nữa ABC còn cung
cấp thông tin hữu ích cho công tác quản lý doanh nghiệp. Cụ thể, các thông tin do ABC
cung cấp giúp doanh nghiệp có thể quản lý tốt hơn chi phí sản xuất kinh doanh, ra quyết
định outsource, xây dựng hệ thống đánh giá và quản lý nhân sự phù hợp, hỗ trợ xây dựng
chính sách giá, xác định cơ cấu sản phẩm, chiến lượng marketing. Do việc áp dụng ABC
trong thực tế khá phức tạp và tốn kém, kinh nghiệm từ các nước phát triển cho thấy ABC
thường được áp dụng thành công bởi các doanh nghiệp quy mô lớn nhờ khả năng tài
chính dồi dào và những lợi ích tăng thêm do áp dụng ABC trong các doanh nghiệp lớn,
phức tạp thường lớn hơn so với trong các doanh nghiệp nhỏ, đơn giản.
 Theo Th.S Nguyễn Thị Phương Loan phương pháp ABC có những lợi ích và
giới hạn sau:
- Lợi ích:
• ABC cung cấp cho nhà quản trị các thông tin chi phí sản phẩm chính xác.
Điều này đưa đến việc nhận diện rõ lợi nhuận, có quyết định tốt hơn về giá sản phẩm,
chủng loại sản phẩm, và các chi tiêu khác.
• ABC giúp đo lường các chi phí hoạt động chính xác hơn, từ đó nhà quản trị
có thể cải thiện sản phẩm, quy trình sản xuất, gia tăng giá trị cung ứng cho khách hàng
với chi phí thấp nhất.
• ABC giúp cho nhà quản trị đánh giá dễ dàng các chi phí liên quan khi xây
dựng quyết định sản xuất kinh doanh.
- Giới hạn:

• Bỏ sót chi phí: trong ABC, các chi phí như quảng cáo, tiếp thị, R&D, bảo
hành… không được xem là chi phí sản phẩm mà là chi phí thời kỳ. Nhưng thực tế, đây lại
là các chi phí bổ sung cho từng sản phẩm riêng biệt.
• Tăng chi tiêu và tốn thời gian: để phát triển và thực hiện hệ thống ABC
thường làm tăng thêm một khoản chi tiêu cho doanh nghiệp và mất nhiều thời gian. Theo

21


các doanh nghiệp đã thành công trong việc sử dụng hệ thống này, họ mất khoảng hơn một
năm để chuẩn bị thực hiện chúng.
* Ví dụ minh họa cách tính toán của hai phương pháp:
Công ty Z sản xuất và bán hai loại máy in: máy loại tốt và loại thường. Trong quý
2/2005, bộ phận kế toán báo cáo các thông tin về hai loại sản phẩm như sau:
Khoản mục
Sản lượng (máy)
Giá bán (ngàn đồng)
Chi phí NVL và LĐTT (ng.đ)
Số giờ lao động trực tiếp (giờ)

Máy in loại tốt
5.000
400
200
25.000

Máy in loại thường
15.000
200
80

75.000

Ban Giám Đốc (BGĐ) công ty rất hài lòng với mức bán và lợi nhuận được báo cáo.
Họ quyết định trong 6 tháng cuối năm sẽ tập trung nguồn lực nhiều hơn cho loại máy tốt
do nhận định đây là sản phẩm có lợi nhuận cao. Tuy nhiên, bộ phận quản trị chi phí cho
rằng quyết định này chưa chính xác. Qua khảo sát họ đã ghi nhận được các hoạt động,
nhóm chi phí và tác nhân hoạt động dự tính cho cả năm như sau:
Hoạt động
Nhóm chi phí
Tác nhân hoạt động
Điều hành quản lý
125.000 Số giờ điều hành (giờ)
Xử lý nguyên vật liệu
300.000 Số lượng NVL xử lý (kg)
Vận hành máy móc
1.500.000 Số giờ máy (giờ)
Đóng gói
75.000 Số lệnh đóng gói (lệnh)
Tổng cộng
2.000.000
Và sau đây là mức tiêu thụ các tác nhân hoạt động trong quý 2/2005:
Tác nhân hoạt động
Số giờ điều hành (giờ)
Số lượng NVL xử lý (kg)
Số giờ máy (giờ)
Số lệnh đóng gói (lệnh)

Máy tốt
5.000
200

50.000
5.000

Máy thường
7.500
100
100.000
10.000

Tổng cộng
12.500
300
150.000
15.000

Bộ phận quản trị chi phí đã tính toán và chứng minh cho Ban Giám Đốc thấy, nếu
sử dụng hai phương pháp tính sẽ cho hai mức chi phí sản phẩm khác nhau, từ đó sẽ có hai
mức lợi nhuận khác nhau. Sau đây là tính toán của bộ phận quản trị chi phí
Số liệu ở bảng trên đã thể hiện chi phí NVL và lao động trực tiếp. Chi phí sản xuất
chung của từng loại sản phẩm sẽ được tính như sau:
22


• Phương pháp tính toán truyền thống:
Chọn số giờ lao động trực tiếp làm cơ sở phân bổ chi phí sản xuất chung. Ta có
tổng số giờ lao động trực tiếp để sản xuất 2 loại máy là:
25.000 + 75.000 = 100.000 giờ
- Như vậy, tương ứng với mỗi giờ lao động trực tiếp, sẽ có một khoản chi phí sản
xuất chung được phân bổ là:
2.000.000/100.000 = 20 ngàn đồng

 Chi phí chung phân bổ cho sản xuất máy loại tốt
20 ng.đ x 25.000 = 500.000 ngàn đồng
- Chi phí sản xuất chung tính cho mỗi chiếc máy tốt
500.000/5.000 = 100 ngàn đồng
Phân tích lợi nhuận theo phương pháp tuyền thống
Khoản mục
Máy loại tốt
Máy loại thường
1. Giá bán một sản phẩm (ngàn đồng)
400
200
2. Chi phí một sản phẩm (ngàn đồng)
- NVL và lao động trực tiếp
200
80
- Chi phí SX chung
100
100
Tổng chi phí sản phẩm (ngàn đồng)
300
180
3. Lợi nhuận (ngàn đồng)
100
20
Như vậy, nếu tính theo phương pháp truyền thống là lựa chọn một tác nhân chi phí
để làm cơ sở phân bổ chi phí chung thì sản phẩm máy in loại tốt có lợi nhuận cao hơn
• Phương pháp ABC:
Trong phương pháp này, chúng ta phải tính giá trị của mỗi tác nhân hoạt động. Ta có bảng
sau:
Tác nhân hoạt động


Nhóm chi phí
Mức tiêu thụ các
dự trù (ng.đồng)
hoạt động

1
2
3
Số giờ điều hành (giờ)
125.000
12.500
Số lượng NVL xử lý (kg)
300.000
300
Số giờ máy (giờ)
1.500.000
150.000
Số lệnh đóng gói (lệnh)
75.000
15.000
Chi phí sản xuất chung phân bổ đến hai sản phẩm như sau:

Chi phí cho
một hoạt động
(ng.đồng)
4=2/3
10
1.000
10

5

23


Máy in loại tốt
Tác nhân hoạt động

CP/HĐ
(ng.đồng)

Mức HĐ

1
2
3
Số giờ điều hành (giờ)
10
5.000
Số lượng NVL xử lý (kg)
1.000
200
Số giờ máy (giờ)
10
50.000
Số lệnh đóng gói (lệnh)
5
5.000
Tổng chi phí sản xuất chung phân bổ đến mỗi máy in loại tốt


Tổng
CPHĐ
(ng.đồng)
4=2 x 3
50.000
200.000
500.000
25.000

CP/SP
(ng.đồng)
5
10
40
100
5
155

Máy in loại thường
Tổng
Tác nhân hoạt động
Mức HĐ
CPHĐ
(ng.đồng)
1
2
3
4=2 x 3
Số giờ điều hành (giờ)
10

7.500
75.000
Số lượng NVL xử lý (kg)
1.000
100
100.000
Số giờ máy (giờ)
10
100.000
1.000.000
Số lệnh đóng gói (lệnh)
5
10.000
50.000
Tổng chi phí sản xuất chung phân bổ đến mỗi máy in loại thường
Phân tích lợi nhuận theo phương pháp ABC:
CP/HĐ
(ng.đồng)

Khoản mục
Máy loại tốt
1. Giá bán một sản phẩm (ngàn đồng)
400
2. Chi phí một sản phẩm (ngàn đồng)
- NVL và lao động trực tiếp
200
- Chi phí SX chung
155
Tổng chi phí sản phẩm (ngàn đồng)
355

3. Lợi nhuận (ngàn đồng)
45
Sau khi tính xong, bộ phận quản lý chi phí đi đến kết luận:

CP/SP
(ng.đồng)
5
5
6,67
66,67
3,33
81,67

Máy loại thường
200
80
81,67
161,67
38,33

- Nếu sử dụng phương pháp truyền thống, các sản phẩm có sản lượng sản xuất cao
thường bị tình trạng đội chi phí trong khi sản phẩm có sản lượng thấp lại có chi phí nhỏ
hơn so với thực tế. Vì thế BGĐ đã nhận định không đúng về chi phí và lợi nhuận của hai
loại sản phẩm này.
- Theo phương pháp ABC, mỗi loại máy có mức tiêu thụ các hoạt động khác nhau
nên hình thành mức chi phí khác nhau theo quy luật nhân quả (xài nhiều trả nhiều).
24


- Mặc dù máy in loại tốt có lợi nhuận cao hơn, nhưng xét về suất sinh lời thì máy

in loại thường lại cao hơn. Cụ thể:
+ Máy tốt:
Suất sinh lời trên chi phí=Lợi nhuận /Tổng chi phí bỏ ra= 45/355=0,1268=12,68 %
+ Máy thường:
Suất sinh lời trên chi phí = 38,33/161,67 = 0,237 = 23,7%
Bây giờ thì BGĐ đã thấy được chi phí chính xác của hai loại máy. Các quyết định
phải được xem xét lại để tránh những sai lầm trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời BGĐ
cũng sẽ xem xét để có thể áp dụng các mức hoạt động trên cho những sản phẩm được sản
xuất trong 6 tháng cuối năm.
Trong môi trường kinh doanh có nhiều biến động, với các doanh nghiệp đang cạnh
tranh về giá cả thì ABC được xem là một công cụ quản trị chi phí hữu hiệu.
3.2.3. Kế toán chi phí theo phương pháp “Chi phí mục tiêu”
Phương pháp chi phí mục tiêu có nguồn gốc từ Nhật Bản. Phương pháp này đã
được áp dụng kể từ sau năm 1980 bởi các công ty lớn như Toyota, NEC, Sony và Nissan.
Một tổ chức quốc tế được thành lập do một số các tập đoàn công nghiệp lớn, gọi là
Consortium for Avanced Management-International (gọi tắt là CAM-I), để phát triển các
phương pháp kế toán quản trị hiện đại đã định nghĩa về chi phí mục tiêu như sau:
“Phương pháp chi phí mục tiêu là tổng thể các phương pháp, công cụ quản trị cho
phép đạt được mục tiêu chi phí và mục tiêu hoạt động ở giai đoạn thiết kế và kế hoạch
hóa sản phẩm mới. Phương pháp cũng cho phép cung cấp một cơ sở kiểm soát ở giai đoạn
sản xuất và bảo đảm các sản phẩm này đạt được mục tiêu lợi nhuận đã được xác định phù
hợp với chu kỳ sống của sản phẩm”
Chi phí mục tiêu liên quan đến khả năng lợi nhuận của sản phẩm gắn với chu kỳ
sống sản phẩm, một cách tiếp cận khác biệt với các phương pháp truyền thống.
Theo Takao Tanaka (1993), “phương pháp chi phí mục tiêu là các nổ lực được
thực hiện trong các giai đoạn kế hoạch hóa và sản xuất sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu
chi phí đã được xác lập... mục tiêu là cho phép sản xuất ra các sản phẩm với mục tiêu lợi
nhuận trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm”.

25



×