Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.53 KB, 99 trang )

LUẬN VĂN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị
với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận
chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới; tư tưởng của Người là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, là ngọn cờ
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hơn 76 năm chiến đấu và xây dựng dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân giành
được những thắng lợi vĩ đại.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng đã
được rèn luyện và trưởng thành; đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng trước những
bước ngoặt của cách mạng.
Phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có. Đó
là quá trình tự rèn luyện của bản thân đồng thời gắn liền với công tác giáo dục của Đảng;
trong đó có công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng - một bộ phận của công tác xây
dựng Đảng về tư tưởng.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề giáo dục lý luận chính trị. Trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Người thường xuyên quan tâm tới công tác giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Những quan điểm của Người về giáo dục lý luận
chính trị mãi mãi soi sáng công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng... Hồ Chí Minh
chỉ rõ: "Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý
luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền
phong" [36, tr.259]. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải làm theo chủ nghĩa ấy" [36, tr.268]. Người xác định "Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách


mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" [36, tr.268]; vì vậy, "Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa
Mã Khắc Tư và Lênin" [36, tr.280].
Người đỏi hỏi: Đảng phải chống các thói xem nhẹ học tập lý luận, phải kiên quyết
chống các thói xem nhẹ tư tưởng, "vì vậy, học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý
luận,... là những việc cần kíp của Đảng" [4O, tr.167].


Thực tế đã chỉ ra rằng, công tác tư tưởng nói chung, công tác giáo dục lý luận chính
trị nói riêng đã tham gia vào tất cả các mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, nó không
chỉ là nguồn lực của xã hội mà còn là yếu tố cấu thành các thành tựu đạt được và những yếu
kém, khuyết điểm trong các lĩnh vực.
Ngày nay, trong quá trình đổi mới của đất nước, Đảng ta đã liên tục tự đổi mới,
tự chỉnh đốn. Những kết quả bước đầu của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đã thể hiện
được bản chất của một Đảng cách mạng chân chính, kiên định mục tiêu, lý tưởng - con
đường đã lựa chọn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tinh thần nghiêm túc và
kiên quyết khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể và đấu tranh không khoan nhượng với những tiêu cực, tệ nạn xã hội. Đó cũng là
kết quả của việc Đảng ta đặc biệt quan tâm giáo dục lý luận chính trị, đẩy mạnh công tác
tư tưởng của Đảng ta trong suốt 20 năm qua.
Mặt khác, do hạn chế của công tác giáo dục lý luận chính trị và thiếu tu dưỡng,
rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên vừa qua đã gây ảnh hưởng xấu đến uy tín
của Đảng trong xã hội; làm xói mòn những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống; tạo ra
điều kiện làm phát triển tư tưởng thực dụng, lối sống hưởng lạc, chạy theo đồng tiền,
sống thủ đoạn, suy thoái đạo đức, coi thường kỷ cương pháp luật; làm xói mòn mục tiêu,
lý tưởng trong cán bộ, đảng viên và mờ nhạt hình ảnh cao đẹp của người cộng sản trong
lòng quần chúng nhân dân.
Các thế lực thù địch ra sức thực hiện âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chiến lược Diễn biến
hòa bình, tấn công trên mặt trận tư tưởng - văn hóa được coi là mũi đột phá, các thế lực

thù địch đang công kích chống phá một cách có hệ thống trên tất cả các luận điểm và nội
dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hòng làm tan rã niềm
tin, tạo sự hỗn loạn về lý luận và tư tưởng; gây ra sự dao động, hoài nghi về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, tạo ra khoảng trống trong nhận thức tư tưởng, nhằm đi tới xóa bỏ hệ
tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh cho rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Công việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [39, tr.269-273].


Trong đội ngũ cán bộ của Đảng, cán bộ cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là
lực lượng mà theo Hồ Chí Minh: "là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách cho đúng" [39, tr.269].
Sau hơn 10 năm tái lập tỉnh (từ 1992-2005), dù còn nhiều khó khăn thiếu thốn
nhưng dưới sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, Trường Chính trị
tỉnh Sóc Trăng đã mở nhiều lớp đào tạo trung cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ khác cho cán bộ chủ chốt cơ sở.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cả về số lượng và chất lượng, cả
về trình độ lý luận chính trị và năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
Thực tiễn trên đặt ra là phải nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc
biệt là giáo dục lý luận chính trị, nghĩa là truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực
hoạt động thực tiễn, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống.
Vì thế, việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính
trị và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho cán
bộ, công chức nói chung và đào tạo trung cấp lý luận chính trị nói riêng là một việc rất
quan trọng và cần thiết.
Với những lý do trên và qua quá trình học tập, nghiên cứu Chương trình cao học

chuyên ngành Hồ Chí Minh học, tôi đã chọn đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở
Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học chính trị,
chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ
rõ: “Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường
xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn”
[14, tr.140-141]. Quy định số 54 - QĐ/TW ngày 12 tháng 5 năm 1999 của Bộ Chính trị khóa


VIII Về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng ghi rõ: "Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ
chốt ở cơ sở phải học xong chương trình trung học chính trị tại các trường chính trị tỉnh, thành
phố" [15, tr.2].
Trong những năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu, bài viết của các
tác giả dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này như:
- Các công trình nghiên cứu và bài viết:
+ Đào Duy Tùng (1985), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb Sách giáo
khoa Mác - Lênin, Hà Nội. Sách gồm những bài nghiên cứu của tác giả về công tác tư
tưởng của Đảng; trong đó, có nhiều nội dung về giáo dục lý luận chính trị của Đảng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Đức Bình (1999), "Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị", Tạp chí
Cộng sản, (5). Tác giả đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với cách mạng Việt Nam, nêu lên những chỗ mạnh cơ bản cũng như phân tích 4 nguy cơ.
Đặc biệt những hiện tượng đáng suy nghĩ về mặt tư tưởng như: hiện tượng phai nhạt lý
tưởng, cũng tức là phai nhạt chủ nghĩa, phai nhạt mục tiêu cuối cùng; tư tưởng mang mầu
sắc chiết trung, thực chất cũng là giảm sút niềm tin, xa rời lập trường mácxít và có biểu
hiện cho một khuynh hướng cơ hội chính trị. Từ đó tác giả nêu lên những vấn đề cần tập
trung trong công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng hiện nay.
+ Các tác giả: Nguyễn Phú Trọng (1999), "Tạo bước chuyển biến mới trong việc

học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên", Tạp chí Cộng sản, (11) và Nguyễn Khoa
Điềm (2004), "Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính
trị trong tình hình mới", Tạp chí thông tin công tác tư tưởng lý luận, (1), Ban Tư tưởng
Văn hóa Trung ương đã nêu tầm quan trọng của việc học tập của cán bộ, đảng viên, trong
đó học tập lý luận chính trị có vị trí cực kỳ quan trọng; những nội dung của công tác giáo
dục lý luận chính trị; đồng thời nêu ra một số giải pháp nhằm đảm bảo yêu cầu và nhiệm
vụ của công tác giáo dục lý luận trong tình hình hiện nay.
+ Các tác giả: Cao Duy Hạ, "Về giảng viên lý luận chính trị", Báo Nhân dân ngày
05/5/2005 và Nguyễn Văn Sáu, "Hội thi giảng viên dạy giỏi – hoạt động góp phần đẩy
mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị", Báo Nhân dân ngày
20/11/2005 đã đánh giá vai trò của đội ngũ giảng viên các trường chính trị tỉnh, thành


phố qua đó nêu lên những vấn đề cần đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy
và học, bổ sung quy chế, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên …
- Các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ:
+ Nguyễn Đình Trãi, "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy Mác Lênin ở các Trường Chính trị tỉnh", Luận án tiến sĩ năm 2001. Tác giả nghiên cứu đề xuất một số
phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh; trên cơ sở làm sáng tỏ phạm trù năng
lực tư duy lý luận và vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với công tác giảng dạy lý luận chính trị
ở trường Chính trị tỉnh.
+ Nguyễn Thị Hồng Lê, "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ
Triết học năm 2004. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ
lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở; trên cơ sở làm rõ bản
chất, đặc trưng, tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở và từ thực trạng trình độ lý luận chính trị cũng như
công tác đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ này.
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo và ra sách kỷ
yếu: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận", Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, năm 2002.
Hội thảo đã đề cập nhiều nội dung quan trọng; đáng chú ý có các bài của các tác
giả như: PGS.TS Nguyễn Khánh Bật với bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng
lý luận; PGS.TS Hoàng Trang với bài Mấy suy nghĩ về công tác tư tưởng, lý luận ở Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong tình hình mới dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ
Chí Minh; PGS.TS Lê Văn Tích với bài Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống - khâu
trọng yếu ở công tác tư tưởng, lý luận hiện nay, TS Phạm Ngọc Anh với bài Quan niệm
của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận.
Nội dung chủ yếu tập trung vào các vấn đề như sau:
+ Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lý luận.
Khẳng định Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề tư tưởng, lý luận. Người quan tâm
giải quyết từ vị trí, vai trò đến nội dung công tác tư tưởng, lý luận; từ nguyên tắc, phương


châm, phương pháp giáo dục lý luận đến xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng,
lý luận.
+Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng, lý luận.
Nêu những đóng góp của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin.
+ Công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Từ quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục tư tưởng lý luận, nhìn lại công tác
giáo dục lý luận chính trị đã qua, xây dựng, chấn chỉnh công tác nâng cao chất lượng giáo
dục lý luận chính trị.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu gắn liền tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận
chính trị tại trường Chính trị nói chung, Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Trong
quá trình nghiên cứu tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả nghiên cứu của
các công trình có liên quan đến luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích

Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị, từ đó
nhìn lại công tác giáo dục, bồi dưỡng đã qua của Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng và đề
xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập lý luận chính trị của
Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng trong thời kỳ hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận
chính trị.
- Làm rõ vai trò của giáo dục lý luận chính trị đối với cán bộ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng của giáo dục trung cấp lý luận chính trị, (giảng
dạy và học tập) ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng (1995-2005).
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trung cấp
lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng


- Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị.
- Nghiên cứu việc thực hiện giáo dục trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính
trị tỉnh Sóc Trăng 13 năm qua (1992-2005).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo
dục lý luận chính trị và việc giáo dục trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở của tỉnh Sóc Trăng từ khi được tái lập (1992-2005) dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm của Đảng về công tác tư tưởng, công tác giáo dục lý luận chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp phân tích - tổng hợp, điều
tra khảo sát thực tiễn... để thực hiện mục đích của đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của giáo dục lý luận chính trị theo tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với cán bộ nói chung, cụ thể là cán bộ chủ chốt ở cơ sở, đặc biệt trong tình
hình hiện nay.
Đánh giá thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở
Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng qua 13 năm qua dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đề xuất một số giải pháp để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục trung cấp lý
luận chính trị của Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 2
chương, 6 tiết.


Chương 1
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về
giáo dục lý luận chính trị

1.1. Khái niệm về giáo dục lý luận chính trị của Hồ Chí Minh
Trước khi Nguyễn ái Quốc (Hồ Chí Minh) mở các lớp lý luận chính trị ở Quảng
Châu-Trung Quốc, vào giữa những năm 1920, thì ở Việt Nam các phong trào yêu nước
chống thực dân Pháp đều không biết lý luận cách mạng là gì, họ chỉ giương cao hai chữ
“Đại nghĩa” và lao vào đấu tranh vũ trang. Ngay tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng ra đời
vào năm 1927 cũng không ai quan tâm tới lý luận trên dưới đều ù ù cạc cạc. Đó là một
nguyên nhân lớn dẫn đến thất bại không gượng dậy được của tổ chức yêu nước này.
Ngược lại, với Hồ Chí Minh cho rằng muốn đánh được thực dân đế quốc giành
lại độc lập tự do thì trước hết phải làm cho dân giác ngộ. Năm 1925, Hồ Chí Minh bắt
đầu mở các lớp giáo dục lý luận cách mạng cho những người yêu nước của Việt Nam là

việc mở đầu cho thực hiện vấn đề trước hết đó. Những bài giảng của Người tập hợp lại
được xuất bản thành cuốn “Đường Kách mệnh” do Hội Liên hiệp các dân tộc á Đông bị
áp bức ấn hành năm 1927. Ngay tờ bìa dưới tên sách Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh
đã trích câu của Lênin trong tác phẩm Làm gì? như một lời tựa: “Không có lý luận cách
mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong,
đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [36, tr.259]. Cùng thời
gian này, báo Thanh niên, là cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, ra số 95, 97 viết: “Lý luận mà không thực hành thì
không để làm gì. Thực hành mà không có lý luận thì thất bại. Trong một phần tư thế kỷ
qua, những người cách mạng Việt Nam xem rẽ lý luận, cứ trực tiếp dùng bạo lực mà
không cần biết trước kết quả của hành động mình, cho nên, trong thời gian đó, họ hy sinh
nhiều người, nhiều của mà không đi đến đâu cả”. Theo Người lý luận cách mạng chung
thì tìm trong chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận cách mạng trực tiếp thì tìm trong kinh nghiệm
lịch sử bản thân dân tộc mình. Làm cách mạng thì cần lý luận cho những người cầm lái con
thuyền cách mạng, cần có lý luận cho tất cả các chiến sĩ cách mạng, và cần có lý luận cho
nhân dân; nhân dân phải biết vì sao nổi dậy và nổi dậy bằng cách nào.


Như vậy, Hồ Chí Minh là người đầu tiên của nước ta quan tâm tới lý luận cách
mạng và thực hành kiên trì, bền bỉ việc giáo dục lý luận chính trị cho các thế hệ người
Việt Nam yêu nước. Người đã để lại cho cách mạng Việt Nam cả một di sản to lớn về
giáo dục lý luận chính trị. Đó là cả một hệ thống quan điểm của Người về khái niệm giáo
dục lý luận chính trị, về vị trí và mục đích của giáo dục lý luận chính trị, cũng như về nội
dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị.
Trong đào tạo - giáo dục các thé hệ cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đó là một trong
những vấn đề quán xuyến suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Tư duy nhất quán và nổi trội ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là sau khi tìm ra con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam, Người xác định: Cách mệnh trước hết phải có cái gì?.
Và câu trả lời của Người là: Trước hết phải có đảng cách mệnh. Theo Hồ Chí Minh, đảng

cách mệnh có sứ mệnh lịch sử là “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [36, tr.267-268] mà đưa cách mạng của
dân tộc đến thành công. Cách mạng muốn thành công, theo Hồ Chí Minh, là đảng phải vững
mạnh, đảng muốn vững mạnh phải có lý luận soi đường và tất cả cán bộ, đảng viên cần phải
hiểu và thực hành theo lý luận đó. Người viết: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [36, tr.268]. Như vậy,
đảng cách mạng trước hết phải được võ trang bởi một lý luận tiền phong. Và để “trong đảng
ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo” lý luận tiền phong ấy thì giáo dục lý luận chính trị là
nhân tố không thể thiếu được. Hồ Chí Minh đã làm công tác giáo dục lý luận chính trị này để
sinh ra Đảng. Và Người cùng với Đảng liên tục thực hành giáo dục cho các đối tượng người
Việt Nam yêu nước mà dẫn đến Cách mạng tháng Tám thành công, xây nên được Việt Nam
độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Từ thực tiễn nhiều thập niên cùng Đảng ta làm công tác giáo dục lý luận chính trị
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hồ Chí Minh đề ra: “Đảng ta tổ chức trường học lý
luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta, đặng giải quyết sự đòi hỏi


của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn
công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình” [42, tr.492].
Giáo dục lý luận chính trị, theo Hồ Chí Minh:
Là quá trình tác động vào đối tượng bằng cách trình bày, giải thích một cách
khoa học những khái niệm, những quy luật, những quan điểm v.v. nhằm làm cho
cán bộ, đảng viên và quần chúng nắm được những kiến thức về chủ nghĩa Mác Lênin, về đường lối, chính sách của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng
lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận động những hiểu biết ấy vào cuộc
sống [68, tr.169].
Như vậy, với Hồ Chí Minh, công tác giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận
quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng; là hoạt động có chủ đích của Đảng Cộng
sản nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập trường của giai cấp

công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngày nay, công tác giáo dục lý luận chính trị có thể hiểu theo nghĩa là công tác
truyền bá những tri thức lý luận chính trị, những thông tin cần thiết về công tác xây dựng
chính đảng của giai cấp; cụ thể hiện nay là: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; định hướng các lĩnh vực khoa học và công nghệ,
kinh tế, các thành tựu khoa học xã hội và nhân văn, các thông tin chính trị, xã hội và văn
hoá.
Bên cạnh đó, công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần quan trọng vào việc
nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng nhân dân, khơi dậy tinh thần kiên cường bất
khuất, dũng cảm hy sinh chống áp bức, bóc lột giành độc lập tự do; là động lực thúc đẩy
cán bộ, đảng viên và quần chúng hăng hái thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị cụ
thể được Đảng và Nhà nước giao cho tiến tới giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người.
Ngoài ra, công tác giáo dục lý luận chính trị tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình
cảm, đạo đức và khả năng thực hành công việc của mỗi người trong thực tiễn cuộc sống,
giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, nâng cao trình độ chính trị, tinh thần tự giác và
tính tích cực trong quá trình xây dựng xã hội mới.


Không những thế giáo dục lý luận chính trị còn nhằm góp phần xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi
dưỡng các giá trị văn hoá như: lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ đạo đức và bản
lĩnh văn hoá con người Việt Nam.
Hơn nữa, công tác giáo dục lý luận chính trị không phải là một việc làm trừu
tượng, một sự thuyết pháp, rao giảng chung chung mà là một công việc xuất phát từ thực
tiễn cuộc đấu tranh giai cấp mang tính chiến đấu, tính tư tưởng, tính khoa học, tính giáo
dục; nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể, nhất định.
Do vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị phải được trình bày một cách khoa học, tâm

lý, nghệ thuật, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuyết phục, dễ phổ biến.
Từ nhận thức cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là tiền vốn của Đoàn thể, Hồ
Chí Minh quan niệm “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [39, tr.269]. Người
luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đông về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đủ sức
đảm bảo sứ mệnh lịch sử trong mọi giai đoạn cách mạng; vì vậy, cần xây dựng chiến
lược đào tạo, bồi dưỡng và huấn luyện cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, “Phải huấn và luyện.
Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa cho sạch những vết xấu xa trong đầu óc” [40, tr.49];
bao gồm: huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hoá và huấn
luyện lý luận. Trong đó, huấn luyện lý luận được Người đặt trên nền tảng của trình độ
học vấn, trình độ chính trị và trình độ nghề nghiệp nhất định; đây là một điều kiện cần và
đủ, vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc trong công tác giáo dục lý luận chính trị.
Chính vì thế, Người kết luận:
- Ban Tuyên giáo Trung ương cần căn cứ vào trình độ khác nhau của đảng
viên mà soạn ra các chương trình học tập, bảo đảm cho đảng viên ở cơ sở có thể
thường xuyên học tập.
- Các cấp uỷ phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng viên. Từ nay
trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương
trình công tác của cấp uỷ. Phải bồi dưỡng giảng viên lý luận cho các chi bộ.


- Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và
chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình [46, tr.95].
Với Hồ Chí Minh, cách mạng trước hết phải giáo dục lý luận chính trị và đạo đức
cách mạng thật tốt cho cán bộ, đảng viên. “Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có
đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì
làm mới chóng” [36, tr.261].
1.2. Vị trí và mục đích của giáo dục lý luận chính trị
1.2.1. Vị trí của giáo dục lý luận chính trị
Giáo dục lý luận chính trị có vị trí rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động của
Đảng. Tầm quan trọng đó bắt nguồn từ vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình

phát triển của xã hội với tư cách là khoa học cách mạng của giai cấp công nhân và là hệ tư
tưởng của toàn xã hội trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Các nhà mácxít đã chỉ rõ, cũng như thực tiễn cách mạng thế giới và Việt Nam đã
chứng minh: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn thoát khỏi ách áp bức và
bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân thì không thể tiến hành cách mạng một
cách tự phát mà phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng tiền phong được vũ trang bằng
chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính đảng vô sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân, hoặc có nơi, như ở nước ta, còn có sự kết hợp với phong
trào yêu nước. “Phong trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở vật chất và chủ
nghĩa Mác - Lênin, là cơ sở tinh thần cho sự ra đời của đảng cộng sản. Không có sự
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân thì không có cơ sở tinh thần
cho sự ra đời của đảng cộng sản” [68, tr.172]. Sự truyền bá rộng rãi chủ nghĩa Mác Lênin làm cho giai cấp công nhân hiểu rõ được địa vị và sứ mệnh lịch sử của mình,
chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác. Các lực lượng cách mạng chỉ có thể hoạt động tự
giác khi họ hiểu được quy luật phát triển của xã hội và có đường lối chiến lược và
phương pháp cách mạng đúng đắn hướng dẫn. Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là cơ sở để
các đảng cộng sản đề ra đường lối, chính sách của mình. Sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác Lênin, biểu hiện ở năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng cộng sản. Lênin đã
khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”,


“Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai
trò chiến sĩ tiền phong” [31, tr.30-32]. Lý luận tiền phong đó là chủ nghĩa Mác- Lênin.
Để có được một đội ngũ cán bộ tốt, ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng, thì cán bộ phải luôn luôn học tập về mọi mặt để nâng cao trình độ. Cán bộ phải là
những người tiên tiến, nếu bị tụt hậu thì không thể xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã dạy: “Làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng cũng phải
học. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách mạng
thì họ không làm tròn được nhiệm vụ” [46, tr.224]. Làm cách mạng cũng là một nghề,
hơn nữa đây là một nghề đặc biệt - nghề lãnh đạo, quản lý, nghề phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân, hướng dẫn nhân dân làm cách mạng, xây dựng xã hội mới thì càng
phải học, càng phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản và có hệ thống những kiến

thức liên quan đến lĩnh vực công tác của cán bộ. Cán bộ, đảng viên không được đào tạo,
bồi dưỡng đúng đắn thì khó có được đội ngũ cán bộ, đảng viên tốt, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ,
giỏi về lãnh đạo, quản lý, có năng lực trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn; do đó,
không thể đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và nhân dân đặt ra. Vì vậy, việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ đựơc Bác Hồ coi là công việc gốc của Đảng. Đây là trách nhiệm của
Đảng, trước hết là của cấp ủy đảng các cấp.
Do đó, công tác giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên nói chung, đặc biệt đối với
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay có những vai trò hết sức quan trọng như sau:
- Thứ nhất, giáo dục lý luận chính trị đóng vai trò định hướng cho hoạt động lãnh
đạo quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở
nói riêng; tạo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân
dân về mục tiêu con đường đi lên của đất nước. Đó là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa
xã hội, là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Không có lý luận
cách mạng và khoa học soi đường thì như người đi trong đêm tối không biết đường ra.
- Thứ hai, qua giáo dục lý luận chính trị giúp cho người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp có cơ sở kiên định trong cuộc đấu tranh tư tưởng của Đảng chống lại các quan
điểm sai trái, cơ hội, phản động, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,


chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; giữ vững và tăng cường trận
địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm thất bại âm mưu Diễn biến hoà bình trên lĩnh vực tư
tưởng - văn hoá của kẻ thù.
- Thứ ba, việc giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở
còn xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của chính bản thân đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện
nay; nhằm củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường cách mạng và lý
tưởng mà Bác Hồ, Đảng ta và dân tộc ta đã lựa chọn.
- Thứ tư, việc giáo dục nâng cao lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở còn là nhân tố tác động tích cực đến công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đấu tranh chống tình trạng suy

thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ,
chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và các tệ nạn, những tiêu cực xã hội hiện nay.
- Thứ năm, lý luận chính trị giúp cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở xác định
niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Quá trình giáo dục lý luận chính trị cho các thế hệ cán bộ, đảng viên Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã để lại cho chúng ta những quan điểm về phương châm, phương pháp giáo
dục lý luận chính trị mang tính nguyên lý, có giá trị lâu dài.
Mục đích, nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị cho cán
bộ, đảng viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một thể thống nhất biện chứng. Muốn hiểu
phương châm, phương pháp không thể không nắm vững mục đích, nội dung giáo dục lý
luận chính trị.
1.2.2. Mục đích của giáo dục lý luận chính trị
Mục đích của giáo dục lý luận chính trị là nhằm:
Xây dựng thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn, nhân sinh
quan cộng sản cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, giúp họ khắc phục những tư
tưởng lạc hậu, những tàn tích của hệ tư tưởng cũ; nâng cao trình độ chính trị, nhiệt
tình cách mạng, tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới [52, tr.39].


Củng cố niềm tin vào lý tưởng và ý chí cách mạng để thực hiện thắng lợi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của giáo dục lý luận chính trị phải nhằm:
“đào tạo những chiến sĩ tiên tiến phấn đấu cho sự nghiệp của giai cấp vô sản” [42,
tr.496], suốt đời đấu tranh cho Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và nhân dân lao
động lên trên lợi ích cá nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh mục đích học tập lý luận nhằm “để vận dụng chứ không phải
học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả

với Đảng. Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch” [42,
tr.497].
Mục đích của giáo dục lý luận chính trị theo Hồ Chí Minh cần được cụ thể hoá là
nhằm:
Thứ nhất, để sửa chữa tư tưởng
Hồ Chí Minh cho rằng trong Đảng ta trình độ lý luận còn thấp. Không ai có thể
tự xưng là mình giỏi lý luận, do vậy, “Hăng hái theo cách mạng, điều đó rất hay. Nhưng
tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế cần phải học tập để sửa chữa cho
đúng. Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm trọn nhiệm vụ cách
mạng được” [40, tr.50].
Hồ Chí Minh yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và
phê bình đấu tranh với những tư tưởng phi vô sản. Người học phải tự nguyện, tự giác và
xem việc học tập là một nhiệm vụ mà người cách mạng phải làm thường xuyên, “do đó
mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng,
không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập” [42, tr.499].
Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải chống lại cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì
không học tập lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu
tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là mù chính trị, thậm chí hủ hoá, xa rời cách mạng.
Phải “khiêm tốn, thật thà. Đào sâu suy nghĩ khi nghiên cứu các tác phẩm của Mác Lênin, các bài giảng của các đồng chí giáo sư bạn, khiêm tốn học tập các đồng chí giáo
sư bạn, cái gì biết thì nói biết, không biết thì nói không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là
kẻ thù số một của học tập” [42, tr.499].


Thứ hai, để tu dưỡng đạo đức cách mạng
Hồ Chí minh dạy rằng: “Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách
mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn” [40, tr.50].
Thể hiện đạo đức cách mạng theo Người là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho
Đảng, cho cách mạng. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh
quên mình, gương mẫu trong công việc.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến mối quan hệ giữa giáo dục lý luận chính trị và

giáo dục đạo đức. Có giáo dục lý luận chính trị tốt mới củng cố được quan điểm lập
trường, quan điểm lập trường cách mạng được củng cố, nâng cao thì chí khí cách mạng
càng cao, tinh thần cách mạng càng triệt để. Nói cách khác, đạo đức cách mạng là để
phục vụ sự nghiệp cách mạng: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người; sự nghiệp chính trị đó mang lại giá trị đạo đức cao đẹp. ở Hồ Chí Minh, có sự nhất
quán giữa chính trị và đạo đức, biểu hiện giữa nói và làm đạo đức.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là kết quả của quá trình giáo dục và tự giáo dục. Trong
tập thơ Nhật ký trong tù, Người viết:
Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên [37, tr.383].
Thứ ba, để tin tưởng
Niềm tự hào và tin tưởng của con người về các giá trị chân chính luôn là động lực
tinh thần to lớn kích thích hoạt động thực tiễn của con người. Theo Hồ Chí Minh, việc
giáo dục ý thức tự hào và niềm tin để nhằm đào tạo những cán bộ biết: “làm việc, làm
người, làm cán bộ... để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”
[39; tr.684].
Bởi vậy theo quan điểm của Hồ Chí Minh mục đích của giáo dục lý luận chính trị
chính là để cho cán bộ, đảng viên:
Tin tưởng vào Đoàn thể.
Tin tưởng vào nhân dân.
Tin tưởng vào tương lai của dân tộc.


Tin tưởng vào tương lai cách mạng.
Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó
khăn mới kiên quyết, hy sinh [40, tr.50].
Thứ tư, để thực hành.
Theo Hồ Chí Minh,“Người cách mạng phải học suốt đời, học lý luận, học quần

chúng, học thực tế. Người không học thì như đi ban đêm không có đèn, không có gậy, dễ
vấp té” [72, tr.200]. “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp
dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận
suông” [39, tr.234-235]; lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị, có
thể làm những công việc thực tế, có thể trở thành người tổ chức và lãnh đạo và chỉ thực
hành mà không có lý luận “cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [39, tr.234].
Vì vậy, phải đảm bảo mục đích của công tác giáo dục lý luận chính trị là: “Học với
hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không
trôi chảy” [40, tr.50].
Mục đích này ngày nay vẫn soi sáng cho công tác giáo dục lý luận chính trị của
Đảng là phải bồi dưỡng, xây dựng được các lớp cán bộ tin tưởng tuyệt đối vào đường lối
đổi mới, kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái ngăn trở con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội; đồng thời họ phải là những người đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, được
nhân dân tin yêu và lãnh đạo nhân dân thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng.
1.3. Nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị
1.3.1. Nội dung giáo dục lý luận chính trị
Nội dung giáo dục lý luận chính trị bao giờ cũng phải phù hợp với mục đích và
bảo đảm cho giáo dục lý luận chính trị đạt mục đích.
Nội dung của giáo dục lý luận chính trị rất rộng, bao gồm hệ thống những nguyên
lý, luận điểm, đề cập đến nhiều mặt, quy luật khác nhau của đời sống xã hội; bao gồm
việc giáo dục những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin; đường lối, quan
điểm của Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng; công tác xây dựng
Đảng; đạo đức cách mạng; chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước; những kinh
nghiệm của các nước và tình hình thế giới. Đây là những nội dung lý luận chính trị cơ


bản mang tính bắt buộc mà mọi cán bộ, đảng viên của Đảng đều phải học, phải được đào
tạo, bồi dưỡng với những hình thức thích hợp.
Theo tư tưởng Hồ Chí minh giáo dục lý luận chính trị bao gồm các nội dung chủ
yếu sau:

Một là, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục những nguyên lý chủ nghĩa Mác Lênin trong quá trình giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. “Trước hết phải lấy
những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc” [40, tr.49].
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin có vị trí đặc biệt quan trọng vì trước hết
nó là cơ sở để Đảng xác định rõ mục tiêu cách mạng. Đảng muốn lãnh đạo có hiệu quả, đưa
cách mạng đến thành công phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng; phải coi trọng
công tác xây dựng, hoàn thiện Cương lĩnh chính trị, đường lối đúng đắn; từ mục tiêu chiến
lược lâu dài đến mục tiêu cụ thể trước mắt của từng chặng đường; xây dựng, tập hợp lực
lượng, lựa chọn hình thức, bước đi và phương pháp cách mạng thích hợp; giải quyết đúng
đắn các mối quan hệ cơ bản. Muốn có Cương lĩnh, đường lối đúng đắn, Đảng phải nắm vững
và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, nghĩa là phải có trí tuệ và trình độ cao về lý luận.
Từ trong bóng đêm nô lệ, trước cảnh nước mất nhà tan và khủng hoảng về con
đường cứu dân cứu nước; Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin cái cẩm
nang thần kỳ cần thiết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta, tìm thấy ánh
sáng con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam; điều đó tựa như là người đi đường đang
khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [43,
tr.314]. Từ đó, Người vừa nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời Người
ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; và vì thế, ngay từ khi ra đời Đảng
ta đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và vận dụng vào thực tiễn Việt
Nam. Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, trong mục III. Lệ vào Đảng
ghi: “Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh
đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một
bộ phận Đảng thời được vào Đảng” [37, tr.5]; trong Mục V, trách nhiệm của đảng viên, ở
điểm a ghi: “Tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và cổ động quần chúng theo Đảng” và điểm c


ghi: “Phải thực hành cho được chính sách và nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản” [37,
tr.6]. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một sự gặp gỡ tất yếu và tự nhiên
giữa chủ nghĩa yêu nước, phong trào yêu nước Việt Nam với phong trào công nhân quốc

tế và với học thuyết cách mạng của thời đại và Người là người Việt Nam đầu tiên truyền
bá chủ nghĩâ Mác - Lênnin vào Việt Nam.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
thành lập, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin
vào tình hình thực tế của nước ta, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Ngay trang mở đầu tác phẩm Đường Cách mệnh, một quyển sách mà Hồ Chí
Minh đã tập hợp những bài giảng cho những thanh niên yêu nước Việt Nam trong những
năm 1925-1927 tại Quảng Châu, Trung Quốc, Người đã trích câu nói nổi tiếng của V.I
Lênin trong tác phẩm Làm gì?: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận
động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm
cách mệnh tiền phong” [36, tr.259]. Theo Hồ Chí Minh:
Chủ nghĩa Mác - Lênin soi phương hướng, đường lối cho chúng ta đi.
Có phương hướng đúng thì làm việc mới đúng. Hết lòng hết sức phụng sự nhân
dân, phụng sự Tổ quốc; bất kỳ việc to việc nhỏ cũng nhằm mục đích ấy; đó là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự
kiêu, tự đại, tự tư tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ai đi nhầm
đường thì chúng ta giúp họ đi vào con đường chính [42, tr.138].
Vì vậy, Người luôn chỉ rõ Đảng phải luôn được tăng cường về mặt tư tưởng, kiện
toàn về mặt tổ chức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Đối với mọi
đảng viên “phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố lập trường giai cấp vô
sản, cố gắng nắm vững những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam; phải luôn
luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bồi
dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản” [44, tr.21].
Chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề để có lập trường giai cấp vững vàng. Hồ Chí
Minh viết: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường
giai cấp vững vàng” [46, tr.92].


Chủ nghĩa Mác - Lênin còn có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó vạch ra con đường
đúng đắn nhất cho cuộc đấu tranh của quần chúng chống áp bức bóc lột, giải phóng xã

hội, giải phóng con người; tư tưởng cách mạng của học thuyết là cách mạng triệt để, giải
phóng triệt để toàn xã hội khỏi mọi hình thức áp bức, xây dựng xã hội mới - xã hội cộng
sản; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đạt tới mục tiêu cao cả: cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết,
ấm no. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) đã khẳng định: Thay cho xã hội tư sản cũ, với
những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp trong đó sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là để phụng sự cho cách mạng, cho Tổ quốc và nhân
dân; bất kỳ việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích ấy. Nếu không hết lòng hết sức phụng sự
nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư, tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói về
tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh nói:
Theo Bác, hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin tức là cách mạng phân công cho
việc gì, là chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên
đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin
nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy
rác [79, tr.192].
Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý trí đồng thời còn là tình cảm nữa. “Hiểu chủ nghĩa
Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được” [46, tr.554].
Từ nhận thức:
Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh
đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó
chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính.
Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
công việc thực tế [39, tr.233].
Hay “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những
tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [42, tr,497].


Hồ Chí Minh đã đi đến định nghĩa khái quát về lý luận Mác - Lênin là “sự tổng

kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước. Nó là:
“Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của
quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả
các nước; khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản” [42, tr.497].
Hồ Chí Minh kết luận: “Chủ nghĩa Mác rất cao, rất rộng. Những người cách
mạng phải học tập chủ nghĩa Mác. Nhưng có thể nói một cách tóm tắt là chủ nghĩa Mác
dạy chúng ta phải tuyệt đối trung thành với Đảng, phải hết lòng hết sức phục vụ giai cấp
công nhân. Mác dạy chúng ta: "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại! Lênin người học trò
thiên tài của Mác bổ sung thêm: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại! Hai câu khẩu hiệu đó là những ngọn cờ vĩ đại dẫn giai cấp vô sản và dân tộc bị áp
bức đến thắng lợi hoàn toàn” [79, tr.173]. “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không
những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi
cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [44, tr.128].
Ngày nay, dù cục diện thế giới có đổi thay, các nước xã hội chủ nghĩa không còn
tồn tại như một hệ thống, Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa tan rã; nhưng
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên quyết bảo vệ giá trị bền vững những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin và sức sống mãnh liệt của học thuyết. Cương lĩnh Xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”,
“làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội” [11, tr.26-13]. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội VII nhấn mạnh:
Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với
Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích
hợp với điều kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng
tạo. Chúng ta phải đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận,



xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, từ phía những thế lực thù địch, những kẻ cơ hội
[10, tr.127].
Hai là, giáo dục đạo đức phẩm chất.
Đây là một nội dung quan trọng trong công tác giáo dục lý luận chính trị theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, với người cách mạng trước hết phải giác ngộ đạo đức
cách mạng, muốn giác ngộ cách mạng phải giác ngộ đạo đức cách mạng. Phải có cái đức
để đi đến cái trí; khi đã có cái trí, thì cái đức chính là cái để người cách mạng giữ vững
được chủ nghĩa mình theo, lý tưởng mình chọn, con đường mình đã đi theo.
Vì thế cách mạng trước hết phải giáo dục lý luận chính trị và đạo đức cách mạng
thật tốt cho cán bộ, đảng viên. “Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí
mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới
chóng” [36, tr.261].
Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của
người cách mạng.
Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì
muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to
tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu
xa thì còn làm nổi việc gì? [39, tr.252-253].
Hồ Chí Minh đã nhiều lần giáo dục đạo đức cách mạng cho những người Việt
Nam yêu nước, lần đầu tiên được thể hiện trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), lần cuối
cùng là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và trong Di chúc
của Người (1969); qua đó giáo dục cán bộ đảng viên phải suốt đời hy sinh phấn đấu cho chủ
nghĩa cộng sản, đấu tranh để xoá bỏ áp bức bóc lột, xây dựng một nước Việt Nam giàu
mạnh, văn minh, hạnh phúc.
Theo Hồ Chí Minh: Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, nó tiếp thu, kế thừa
truyền thống đạo đức cổ truyền, nhưng khác về bản chất với đạo đức cũ, đạo đức phong
kiến, tư sản; đạo đức mới là sự kết hợp giữa đạo đức của giai cấp công nhân với truyền



thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân loại. “Đạo đức cũ như người
đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [40, tr.320-321]. Đạo đức mới - Đạo đức cách mạng
là: “Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn
luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư”; “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [41,
tr.568]; là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” [43, tr.285]; “là vô luận trong
hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết” [43, tr.289];
“là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe
ý kiến của quần chúng” [43, tr.290]. “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác
nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao
thượng” [41, tr.568]. “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang” [43, tr.283]. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành
công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ,
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá” [43, tr.284].
Xây dựng đạo đức cách mạng thì phải chống chủ nghĩa cá nhân. Vì:
Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh,
bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân
của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn
danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không phải nghĩ đến lợi ích của giai
cấp, của nhân dân.
Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người
cách mạng phải tiêu diệt nó [43, tr.292].
Sự thờ ơ với đạo đức cách mạng dẫn đến mắc khuyết điểm sai lầm. Vì vậy, “Để
sửa chữa, cần phải học tập lý luận, trao dồi đạo đức, nhận rõ điều gì là phải, thì cố gắng
làm, điều gì trái thì hết sức tránh” [75, tr.53].

Đạo đức cách mạng không phải là những gì to tát, mà là những vấn đề hết sức
gần gũi thiết thân đối với mọi người, gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi người.


“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong” [43, tr.293].
Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng ta từ trên xuống dưới phải chú trọng và kiên trì việc
giáo dục đạo đức cách mạng; bởi, “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa
với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm
sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư
tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” [43, tr.448]. Nghĩa là phải ra
sức học tập lý luận Mác - Lênin, bởi “Có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được
đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới
làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình” [43, tr.292]; phải có ý thức thật thà tự
phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ; nghiêm khắc với
bản thân và khoan dung với mọi người; phải tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời.
Hồ Chí Minh đã giải thích rõ ràng, cụ thể, dùng những ví dụ sinh động dể hiểu về
những vấn đề đạo đức cách mạng, vừa bổ sung hoàn thiện cụ thể hơn các quan điểm về
đạo đức mới - đạo đức cách mạng, đạo đức xã hội chủ nghĩa; vừa phê phán những quan
điểm lệch lạc, những hành vi phi đạo đức; những vấn đề Bác nêu ra không chỉ có giá trị
lý luận - đặt nền móng cho các chuẩn mực đạo đức mới ở Việt Nam mà có ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện đảng cầm quyền.
Ba là, giáo dục đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, một nội dung quan trọng khác không thể thiếu trong công tác
giáo dục lý luận chính trị là phải giáo dục đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. “Những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh của Đoàn thể
và Chính phủ” [40, tr.50].
Đây là những nội dung không chỉ định tính trong nhận thức lý luận cho cán bộ,

đảng viên mà còn định hướng, định lượng cho cán bộ, đảng viên hành động; cũng chính
là một biểu hiện của nội dung gắn liền lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Người
viết: “Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, đạo
đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm


×