Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.06 KB, 123 trang )

LUẬN VĂN:

Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
"Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu quyền lực đều là của dân, chính quyền
từ xã đến Chính phủ đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân
cử ra, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương do dân tổ chức ra. Nói tóm lại quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân" [47, tr. 698].
Luận điểm trên thể hiện những vấn đề căn bản nhất đó là: Nhà nước do dân thiết
lập và trao quyền lực, nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành quyền lực nhà nước. Quyền
lực đó thể hiện ý chí của nhân dân được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy
nhà nước, trong đó có độc quyền bộ máy cưỡng chế, trấn áp và hệ thống quy phạm pháp
luật.
Được sự ủy quyền của toàn thể nhân dân, nhà nước trở thành một bộ máy có
quyền lực rất lớn, độc lập với xã hội. Trong xã hội có giai cấp khi quyền lực nhà nước
không được kiểm soát, nhà nước sẽ là cơ quan đứng trên xã hội, xa lạ với xã hội, trở
thành một lực lượng ăn bám xã hội, trong nhiều thời kỳ nhà nước trở thành lực lượng cản
trở sự phát triển của xã hội.
ở nước ta hiện nay, ở nơi này, nơi khác đã xuất hiện nguy cơ Đảng và Nhà nước
không còn là của dân, với những biểu hiện là một số cán bộ công chức nắm quyền lực
được nhân dân ủy thác lại xa dân, xa cấp dưới, xa cơ sở, không chủ động phục vụ nhân
dân vô điều kiện mà chỉ lo làm ăn phát tài, lo thăng quan tiến chức, đánh mất bản chất
cách mạng chân chính của mình.
Một số tài sản quốc gia và của nhân dân bị bọn tham nhũng những kẻ vô trách
nhiệm phần lớn là nắm quyền lực chiếm đoạt và làm thất thoát. Có những vụ ăn cắp tài
sản quốc gia hàng ngàn tỷ đồng, một số không ít nắm quyền lực nhà nước đã và đang tiếp


tục làm giàu bất chính, gây hậu quả xấu cho xã hội, làm suy yếu mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân.


Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng ấy là do quyền lực nhà nước
mà biểu hiện cụ thể là một số kẻ có chức, có quyền đã lạm dụng quyền lực nhà nước để
mưu cầu lợi ích riêng. Nói cách khác là quyền lực nhà nước không được kiểm soát đầy
đủ.
Bên cạnh đó, khi bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) thì tổ chức và hoạt động của bộ máy quyền lực nhà nước nói chung, các thể chế
kiểm soát (kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tài phán, giám sát) quyền lực nhà nước nói riêng
từ Trung ương đến cơ sở có nhiều điểm bất cập như sự chồng chéo, trùng lặp về chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể và cá nhân chưa được chế định chặt chẽ.
Xảy ra tình trạng tập trung quá mức ở Trung ương, vừa phân tán, cục bộ ở các cấp, các
ngành.
Như vậy, quyền lực nhà nước ở nước ta có biểu hiện là không được kiểm soát tốt
cả từ trên xuống và từ dưới lên, từ bên trong các tổ chức nhà nước và từ bên ngoài xã hội.
Do đó, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta đã trở thành yêu cầu cấp
bách, đòi hỏi phải được giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đồng thời đề ra các giải
pháp tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, góp phần vào việc chống tha
hóa quyền lực, đẩy mạnh thực hành dân chủ trong xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân lao động, của nhà nước trong chế độ chính trị XHCN của chúng ta. Vì
vậy tôi chọn: "Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay" làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói, vấn đề kiểm soát quyền lực trong chính trị học thế giới, mà đặc biệt là
chính trị học phương Tây là vấn đề rõ ràng về lý thuyết và thực tế. Những nghiên cứu cụ
thể chỉ nhằm tìm hiểu những phương thức kiểm soát cụ thể khác nhau. ở nước ta thì đây
lại là vấn đề rất mới mẻ, còn chưa có nhận thức thống nhất. Vì vậy cho đến nay, các
nghiên cứu chuyên sâu về kiểm soát quyền lực ở nước ta không nhiều. Phần lớn lại được

"tổng kết" từ các hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND), các hoạt
động thanh tra nhà nước, kiểm tra Đảng v.v...


Đã có một số đề tài cử nhân chính trị, thạc sĩ khoa học đề cập đến từng lĩnh vực
cụ thể của công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát đối với hoạt động của bộ máy
nhà nước ta ở cả cấp Trung ương và tỉnh, thành. Một số công trình như "Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa" của Bộ Tư pháp, "Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội
nước ta hiện nay" của Khoa Nhà nước và Pháp luật (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh) cũng đã đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực.
Các nghiên cứu này xuất phát từ cách tiếp cận và phương pháp luật học (khoa
học pháp lý) đã phân tích từng hoạt động cụ thể của việc thực hiện các chức năng như
giám sát của Quốc hội và HĐND, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), thanh
tra, kiểm tra của Chính phủ... Những công trình này đã đưa ra được các đánh giá khái
quát, các giải pháp mang tính định hướng chung của việc kiểm soát quyền lực, nhưng
chưa đi sâu luận chứng hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta.
Đề tài mà tác giả chọn tập trung đi sâu vào hệ thống tổ chức và hoạt động kiểm
soát quyền lực nhà nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát quyền lực nhà
nước ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa một cách khái quát các quan điểm, lý thuyết, các khái niệm, phạm
trù và thành tựu khoa học trong và ngoài nước về kiểm soát quyền lực nhà nước.
Về mặt lý luận, làm rõ tính tất yếu khách quan, những yêu cầu thực tế và khả
năng thực hiện việc kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay.
- Làm rõ thực trạng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay.

4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu


- Quá trình tổ chức, thực thi và kiểm soát quyền lực của các cơ quan nhà nước ở
nước ta: bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, chính quyền địa phương.
-Tổ chức và hoạt động của Đảng, các đoàn thể nhân dân trong quá trình thực hiện
dân chủ và tham gia kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước.
- Nhà nước vừa là người thực thi quyền lực, vừa là người kiểm soát và là đối tượng
chịu sự kiểm soát. Luận văn sẽ nghiên cứu hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước
với tư cách chủ thể kiểm soát và cả đối tượng bị kiểm soát.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và thực thi quyền lực nhà nước, về công tác kiểm
tra, kiểm soát.
- Vận dụng lý luận về kiểm soát quyền lực của các nhà tư tưởng chính trị trên thế
giới, đặc biệt là các tư tưởng thời đại khai sáng về tổ chức quyền lực nhà nước và kiểm
soát quyền lực nhà nước.
- Các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử, lôgic, phân tích, thống kê, tổng
hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn và một số phương pháp chuyên ngành và liên ngành
khác.
6. Cái mới và ý nghĩa của luận văn
Đưa ra kiến giải bước đầu về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. từ cơ
chế, hoàn thiện cơ chế; phương thức hoạt động, đến việc xác định khâu đột phá trong
việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
ý nghĩa của luận văn:
- Góp phần nâng cao nhận thức về tính tất yếu của việc kiểm soát quyền lực ở
nhà nước ta hiện nay.



- Bước đầu cung cấp những kiến giải có tính học thuật về kiểm soát quyền lực
nhà nước.
- Trên cơ sở mô tả thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước, luận văn đưa ra
những dự báo và kiến nghị về nguy cơ quyền lực không được kiểm soát.
Nhờ vậy mà luận văn có ý nghĩa tham khảo cho các nhà hoạt động chính trị xã
hội trong thực tiễn đồng thời góp phần nâng cao văn hóa chính trị cho người đọc.
Những giải pháp mà luận văn đưa ra có thể được áp dụng trong thực tiễn góp
phần hạn chế tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước, đẩy mạnh thực thi dân chủ trong
xã hội chúng ta nhằm làm cho quyền lực nhà nước được thực hiện khoa học, hiệu lực,
hiệu quả, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.


Chương 1
Kiểm soát quyền lực nhà nước
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

1.1. Kiểm soát quyền lực là yêu cầu tất yếu khách quan
1.1.1. Khái niệm quyền lực nhà nước - kiểm soát quyền lực nhà nước
- Quyền lực Nhà nước:
Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, xuất hiện từ khi xã hội loài người
bị phân chia thành những giai cấp đối kháng.
Quyền lực nhà nước là biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị và là trung
tâm của quyền lực chính trị, được hình thành thông qua cuộc đấu tranh chính trị, nhằm
giành quyền tổ chức nhà nước và thực hiện chức năng thống trị xã hội.
Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, trong đó có việc tổ chức và việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp. Đồng thời còn được bảo đảm bằng các phương tiện độc quyền như luật pháp, và bộ
máy cưỡng chế chuyên nghiệp quân đội, cảnh sát, nhà tù...
ở đây cần thấy rằng, quyền lực nhà nước mang tính chính trị, nhưng không phải
mọi quyền lực chính trị đều là quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị rộng hơn, đa
dạng hơn về phương thức thực hiện cũng như hình thức thể hiện, có nhiều cấp độ hơn về
cơ cấu của chủ thể quyền lực.
Sự thay đổi vai trò vị trí của các giai cấp trong đời sống sản xuất xã hội sẽ dẫn tới
việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác, dẫn tới thay
đổi căn bản tính chất của quyền lực nhà nước, phương thức cầm quyền, các quan hệ
chính trị, các thể chế chính trị và hệ thống chính trị. Các cơ quan nhà nước thực chất là
các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, được các giai cấp và lực lượng xã hội (còn gọi
là nhân dân) trao quyền cho mà thôi. Tuy nhiên, do những hình thức ủy quyền và kiểm
soát quyền lực nhà nước khác nhau, nên nhiều lúc quan hệ giữa người có chủ quyền và
người được ủy quyền bị tha hóa, xuyên tạc.


Quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội (CNXH) có những điểm khác biệt so
với quyền lực nhà nước trong các xã hội trước đó ở chỗ nhà nước XHCN là nhà nước
chuyên chính của giai cấp công nhân. Nhưng lợi ích căn bản của giai cấp công nhân là
thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Nên quyền lực nhà nước dưới
CNXH đã có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội, giữa tính chính trị với tính
công quyền. Trong các kiểu nhà nước khác, đặc biệt là nhà nước quân chủ chuyên chế,
giữa chức năng giai cấp đối lập với chức năng xã hội, lợi ích của giai cấp thống trị đối lập
với lợi ích quảng đại quần chúng.
Trong nền dân chủ XHCN, chức năng giai cấp và chức năng xã hội tạo thành một
thể thống nhất, trở thành điều kiện và tiền đề hoàn thiện cho nhau.
ở Việt Nam, các bản hiến pháp đều nhất quán khẳng định quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
Tại Điều 1 Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định rõ:
"Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi

giống, gái trai, giàu nghèo giai cấp, tôn giáo". Tư tưởng nhất quán này đều được thể hiện
qua Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Tại Điều 2 và Điều 6 Hiến
pháp 1992 thì "Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức", "nhân dân sử dụng quyền
lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân".
Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy,
với những con người cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực thi quyền lực cụ thể phụ
thuộc vào phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và con người trong bộ máy ấy. Nếu như
người cầm quyền được trao quyền, không biết thực thi quyền lực cho đúng, hoặc sử dụng
quyền lực vì mục đích vụ lợi thì sức mạnh của quyền lực nhà nước sẽ gây nguy hiểm cho
xã hội. Vì thế muốn có một xã hội tốt đẹp, quyền tự do con người được đề cao, xã hội
không phải gánh chịu những lộng hành sai phạm vô ý thức hoặc có ý thức của nhà nước


thì phải có cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát hoạt động của
công chức, viên chức nhà nước. Đây là một yêu cầu tất yếu trong tổ chức và hoạt động
của một nhà nước dân chủ, kể cả trong nền dân chủ XHCN của chúng ta.
- Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước: là hoạt động có chủ đích của nhà
nước và xã hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các hình
thức hoạt động như giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, kiểm toán, tài phán nhằm hạn
chế nguy cơ sai phạm cũng như những hành vi lộng quyền, chuyên quyền, độc đoán của
cơ quan quyền lực nhà nước và của công chức nhà nước. Đảm bảo cho quyền lực nhà
nước được thực hiện đúng mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc kiểm soát quyền lực nhà nước
- Mục đích của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho quyền lực nhà
nước không bị lạm dụng, ngăn chặn các hiện tượng, xu hướng, quan liêu, độc tài, chuyên
quyền, độc đoán trong bộ máy nhà nước, không bị sử dụng trái với ý chí của nhân dân.

Khi quyền lực càng tập trung, thì khả năng kiểm soát nó càng khó. Nếu không có sự kiểm
soát tốt nó trở thành bức rào cản của tự do và dân chủ, kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Xã hội
càng phát triển, quyền lực của nhà nước càng lớn thì yêu cầu của kiểm soát quyền lực nhà
nước tăng lên. Hiện nay trên thế giới đang tồn tại các hệ thống kiểm soát quyền lực khác
nhau đó là:
Hệ thống kiểm soát quyền lực của nhà nước với tư cách là một kết cấu phân cấp,
phân quyền quyền lực công.
Hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức, thiết chế chính trị xã
hội.
Hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước của các cá nhân công dân thành viên xã
hội.
Mỗi hệ thống trên có nhiều bộ phận khác nhau với những phương thức thực hiện
khác nhau.
- Quyền lực nhà nước có thể được kiểm soát thông qua hai yếu tố: Quá trình tổ
chức bộ máy nhà nước sao cho các bộ phận của nhà nước có khả năng kiểm soát lẫn nhau


và hoạt động của các hệ thống kiểm soát quyền lực từ bên trong và bên ngoài bộ máy nhà
nước.
Tổ chức là cách thức tạo lập và xây dựng hệ thống quyền lực, các bộ phận cấu
thành quyền lực, giới hạn chức năng của từng bộ phận, mối quan hệ qua lại giữa các bộ
phận quyền lực, trình tự, thủ tục thực hiện quyền lực. Hệ thống kiểm soát quyền lực là hệ
thống kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện quyền lực. Các hình thức phản biện từ phía
các chủ thể khác nhau của hệ thống chính trị, các biện pháp xử lý nhằm đảm bảo tính đúng
đắn trong việc sử dụng quyền lực nhà nước. Xét một cách tổng quát yếu tố tổ chức có ý
nghĩa quan trọng nhất, bởi vì đây là khởi điểm cho việc sử dụng cũng như kiểm soát
quyền lực.
Trong các xã hội bóc lột trước đây, nhà nước xuất hiện từ xã hội, trở thành lực
lượng tách rời xã hội, đứng trên xã hội, do đó nó có nguy cơ thoát ly khỏi sự kiểm soát
của của nhân dân. Mặc dù, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Như thế trong xã

hội có giai cấp đối kháng, nhân dân có rất ít khả năng thực tế tham gia vào việc tổ chức
quyền lực nhà nước, để từ đó kiểm soát được quyền lực. Việc kiểm soát quyền lực này thực
tế phụ thuộc trước hết là vào cấu trúc quyền lực của nó. Một cấu trúc có thể cho phép tồn tại
sự kiểm soát, sau đó là năng lực kiểm soát của các chủ thể khác. Chế độ tập quyền chuyên
chế kéo dài suốt thời kỳ trung cổ thực sự là mảnh đất cho sự lộng hành, cản trở sự phát
triển xã hội. Để xóa bỏ rào cản đi đến tự do, dân chủ đã buộc các nhà tư tưởng phải tìm ra
các giải pháp cho sự tiến bộ xã hội, học thuyết phân quyền mà trường phái khai sáng đề
xướng đến nay vẫn là những chỉ dẫn cho việc kiểm soát quyền lực ở các quốc gia mà nhà
nước chưa thực sự là của dân, nhân dân chưa có đủ điều kiện để kiểm soát hữu hiệu
quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực từ tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền có
những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: Sự phân ra rành mạnh về chức năng và nhân sự, cùng với cơ chế kìm
chế, đối trọng vừa có tác dụng đề cao trách nhiệm cá nhân, tính độc lập sáng tạo của cá
nhân trong thực thi quyền lực nhà nước vừa hạn chế khả năng lạm quyền và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát giác sự lạm quyền.


Thứ hai: ở mức độ nhất định cơ chế phân quyền đảm bảo tính độc lập của cơ
quan xét xử.
Thứ ba: Cơ chế kìm chế đối trọng là một trong những đảm bảo (ở mức độ nhất
định) hiệu lực của hiến pháp.
Xuất phát từ ưu điểm trên đây, các nước tư bản hiện đại đã áp dụng học thuyết
phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước của mình và coi đó là một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất, có ý nghĩa cơ sở để đảm bảo dân chủ, tự do, bình
đẳng xã hội.
Tuy nhiên cũng cần nói rằng, mặt trái của phân quyền là tranh giành, chia rẽ
phân tán quyền lực nếu không được kiểm soát tốt. Vì vậy, phân quyền vừa có mục đích
kiểm soát quyền lực vừa phải kiểm soát cả sự phân quyền và thực thi quyền lực trong cơ
chế phân quyền.

- Dưới chế độ XHCN, về nguyên tắc nhân dân có toàn quyền quyết định đối với
quyền lực nhà nước, có toàn quyền kiểm soát quyền lực đó. Thế nhưng các nguyên tắc đó
chỉ có thể trở thành hiện thực khi có một cơ chế tổ chức và thực hiện khả thi quyền lực
nhà nước từ phía nhân dân. Nhân dân, với tư cách là người chủ của quyền lực, có quyền
và cần thiết phải thực hiện sự kiểm soát như vậy nhằm đảm bảo quyền lực được thiết lập
và thực hiện vì lợi ích của nhân dân và xã hội. ở đây sự kiểm soát quyền lực có sự khác
biệt về chất so với sự kiểm soát quyền lực của nhân dân trong xã hội tư sản. Nhân dân
kiểm soát quyền lực không chỉ nhằm đảm bảo quyền lực không bị lạm dụng, mà còn đảm
bảo khả năng nhân dân thay đổi quyền lực đó cả về nội dung, hình thức, phương thức
thực hiện nếu thấy cần thiết. Việc yêu cầu nhân dân kiểm soát một cách toàn diện và
ngày càng đầy đủ hơn quyền lực nhà nước, đòi hỏi nhà nước XHCN phải đảm bảo tổ
chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân thông qua
những người đại diện của mình có thể kiểm soát toàn bộ quyền lực nhà nước.
1.1.3. Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử tư tưởng
chính trị


Việc kiểm soát quyền lực có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau,
trong đó có ít nhất là hai xuất phát điểm cơ bản: từ lợi ích của những người nắm giữ
quyền lực và từ lợi ích của những người chịu tác động quyền lực. Thực tiễn lịch sử cho
thấy các chủ thể nắm quyền lực thường có xu hướng lạm quyền, sử dụng quyền lực được
trao để mưu tính lợi ích khu biệt, cá nhân. Ngay từ thời cổ đại cho đến ngày nay việc
nghiên cứu về kiểm soát quyền lực đã được đề cập đến ở các mức độ khác nhau trong
lịch sử tư tưởng chính trị cả phương Đông và phương Tây. Nhằm đưa ra những kiến giải
để kiểm soát quyền lực khi quyền lực được trao cho chủ thể nắm quyền.
1.1.3.1. Các nhà tư tưởng cổ đại
- Phương Đông
Tư tưởng về quyền lực chính trị và kiểm soát quyền lực cai trị đáng chú ý nhất
trong trường phái pháp trị Trung Hoa cổ đại, được biểu hiện trong tác phẩm của Hàn Phi
Tử, một "Tập đại thành" gói trọn kinh điển pháp gia. Trong xã hội phong kiến chuyên

chế phương Đông, vua thâu tóm mọi quyền lực nhà nước cả quyền hành pháp, lập pháp
và tư pháp, tức vận mệnh của đất nước đặt cược vào trong tay một con người. Việc kiểm
soát quyền lực từ trên xuống của nhà vua là khá chặt chẽ, để chống lại sự phản kháng của
dân chúng và sự mưu lợi ích riêng của đội ngũ quan lại, nhằm mục đích bảo vệ chế độ
chính trị quân chủ chuyên chế, đem lợi ích cho vua và giai cấp thống trị. Thực hiện mục
tiêu đó, các nhà pháp trị đặc biệt là Hàn Phi Tử đã không ngừng tìm tòi, khám phá kế
thừa và phát triển những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng pháp trị, để hình thành những
quan điểm và nguyên tắc pháp lý tương đối hoàn chỉnh thông qua hệ thống pháp luật
nhằm kiểm soát việc thực thi quyền lực của đội ngũ quan lại trong hệ thống chính quyền
nhà nước chuyên chế.
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử là một hệ thống quan điểm về pháp - thế thuật, lấy pháp làm nội dung cai trị gồm những đặc trưng cơ bản: 1- Pháp là pháp luật
thành văn của quốc gia, gồm những điều luật, luật lệ, quy định mang tính nguyên tắc
được biên soạn rõ ràng minh bạch như khuôn mẫu, được chép trong đồ thư và bày ra ở
nơi quan phủ, ban bố rộng rãi cho dân chúng biết việc gì làm được và việc gì không làm
được. 2- Nội dung và các hình thức thưởng phạt. 3- Mục đích thức hiện pháp là:


Để chữa cái loạn của dân chúng, trừ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho
kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già
được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị
xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau, lại không mắc
phải cái lo bị giết chóc hay bị giặc bắt cầm tù, đó cũng là cái công hết sức lớn
[55, tr. 130].
Như vậy, pháp luật được Hàn Phi xem là tiêu chuẩn để phân biệt đúng - sai,
chính tà, là phương tiện của người cầm quyền dùng để điều khiển đất nước. Theo Hàn
Phi chỉ có pháp luật mới làm cho nước trị: "Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra
loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được
nữa" [55, tr. 500].
Điều này cho thấy, pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu quan trọng nhất trong
của bình ổn xã hội kể cả đối với đội ngũ quan lại không thể dùng quyền lực nhà nước do

vua trao mà mưu lợi ích riêng được. Đây cũng là điểm rất quan trọng mà từ xưa đến nay
nhân loại vẫn chưa giải quyết được một cách thỏa đáng; mâu thuẫn công và tư, trung với
hiếu, danh và thực trong đời sống con người. Cho nên trị nước phải coi trọng pháp luật,
thưởng phạt phải nghiêm minh, pháp luật là công cụ của các đế vương khi thực thi quyền
lực, để cai trị đất nước và nó đã đáp ứng được yêu cầu xây dựng một nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền mạnh.
- Các nhà tư tưởng cổ đại phương Tây
Không chỉ có trong các nhà nước đương đại mà đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại,
ở Aten vào năm 461 TCN dưới chính quyền Pericles, Hội nghị nhân dân - cơ quan có
chức năng tương tự như cơ quan lập pháp ngày nay, mỗi năm phải họp ít nhất 10 lần và
trong hội nghị, theo thủ tục bao giờ dân chúng cũng được mời biểu quyết chấp thuận hay
khiển trách các viên chức của họ. Nếu khiển trách thì tiếp theo sẽ có cuộc truy tố trước
tòa án; tương tự như một thủ tục bãi nhiệm; khi đến cuối năm mỗi viên chức phải tường
trình trước một ủy ban đặc biệt về tiền công quỹ mà họ là người thu, người giữ, hay
người chi tiêu. Đây là hình thức ban đầu sơ khai của sự kiểm soát của nhân dân đối với


việc thực hiện quyền lực nhà nước, sự kiểm soát của cơ quan lập pháp đối với các nhân
viên nhà nước.
- Bước chuyển sang chế độ phong kiến cũng đồng thời đánh dấu sự thay đổi cơ
bản trong tổ chức quyền lực xã hội. Toàn bộ quyền lực từ quyền lập pháp, hành pháp đến
quyền tư pháp đều tập trung vào một người là nhà vua. Do không có cơ chế kiểm soát,
quyền lực xã hội phong kiến chìm đắm trong sự độc đoán chuyên quyền, còn gọi là "đêm
dài trung cổ".
- Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền lực nhà nước (quyền hành
pháp, quyền lập pháp, quyền tư pháp) đều nằm trong tay một nhà quân chủ. Nhà nước
quân chủ chuyên chế - quyền lực của nhà vua là vô hạn. Cách tổ chức quyền lực chuyên
chế dẫn đến sự lạm quyền, và tùy tiện.
Trong điều kiện đó, hệ tư tưởng giải phóng để phát triển của cuộc cách mạng tư
sản mà cốt lõi là học thuyết về quyền tự nhiên, chủ nghĩa lập hiến và chế độ đại nghị....

đánh dấu bước tiến mới trên con đường giành dân chủ.
Các Mác có một nhận xét rất xác đáng về chế độ đó rằng: Sự tùy tiện là quyền
lực của vua, hay quyền lực của vua là sự tùy tiện.
Để chống lại chế độ chuyên quyền, độc đoán đó ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện
tư tưởng phân quyền. ở những mức độ khác nhau. Đại biểu của những tư tưởng ấy là
Platôn (427 - 347 TCN) và Arixtôt (384 - 322 TCN).
Aristôt quan niệm hình thức nhà nước phụ thuộc vào cách tổ chức quyền lực chính
trị. Nhà nước là một thể thống nhất được tạo bởi ba bộ phận độc lập. Cơ quan nghị luận
(làm luật), cơ quan chấp hành (hành chính), cơ quan xét xử, trong đó cơ quan làm luật
giữ vị trí vai trò chủ đạo, bởi lẽ ông quan niệm luật thống trị tất cả, các cơ quan hành
chính không có quyền đó mà chỉ cụ thể hóa luật và thực thi pháp luật.
Như vậy, tư tưởng phân quyền thời cổ đại chỉ là phân công lao động, phân công
chức năng, thẩm quyền giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước. Việc thực hiện nhiệm vụ nhà
nước theo chức năng, tự nó đã có sự giám sát quyền lực.


Platôn cho rằng, nguyên tắc cơ bản của xã hội lý tưởng là chính trị phân giải
thành pháp lý, hành chính, tư pháp và ngoại giao. Song tất cả các yếu tố đó phải được
thống nhất bởi chính trị. Tức là phân công lao động trong bộ máy nhà nước là cần thiết,
hoạt động của nhà nước như lập pháp, hành pháp, tư pháp cùng nhằm vào một đối tượng,
nhưng đồng thời chúng có khác nhau.
Một nhà nước lý tưởng, nhà nước đó phải được cầm quyền bởi sự thông thái; có
sự phân công lao động giữa các tầng lớp người khác nhau. Nhà nước đó gồm ba tầng lớp
(giai cấp) cơ bản:
Tầng lớp các pháp quan là những người có lý trí, có vai trò cai trị thành bang.
Tầng lớp chiến binh là những người có sức mạnh bảo vệ thành bang.
Tầng lớp nông dân, thợ thủ công là những người nặng về đời sống nhục cảm, có
trách nhiệm cung cấp đồ ăn, vật dụng cho thành bang.
1.1.3.2. Các nhà tư tưởng thời cận đại
Các nhà tư tưởng thời cận đại đã kế thừa tư tưởng phân quyền về kiểm soát

quyền lực thời cổ đại, phát triển thành học thuyết "phân chia quyền lực" vào thời kỳ cách
mạng tư sản thế kỷ XVI - XVIII đại diện là Jon Lock và đỉnh cao là Mongtecxkiơ.
Theo Jon Lock (1632 - 1704), trong tác phẩm sự luận giải về chính quyền, thì để bảo
đảm quyền lực thực thi đúng quĩ đạo của nó; quyền lực nhà nước phải được hạn chế theo
nguyên tắc phân chia quyền lực; tách hành pháp ra khỏi lập pháp và nhà làm luật cũng
phải lệ thuộc vào luật, tuân theo luật, chia quyền lực nhà nước thành: lập pháp, hành
pháp, và quyền lực liên bang. Quyền lập pháp do nghị viện, cơ quan đại diện nhân dân
thực hiện. Quyền hành pháp và quyền liên bang cần trao cho một nhân vật - nhà quân
chủ, nhưng người đó không được lạm quyền. Còn quyền tư pháp chỉ là một bộ phận của
quyền hành pháp, nhưng khi xét xử phải có sự tham gia của nhân dân.
Jon Lock muốn trao từng bộ phận quyền lực cho những lực lượng chính trị xã hội
khác nhau là tư sản và phong kiến.


Trong cơ cấu quyền lực, quyền lập pháp có vai trò chủ đạo, nhưng không tuyệt đối
vì quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Là người có thể giải tán hay thay đổi thành lập cơ
quan lập pháp khi hoạt động không còn đủ tín nhiệm với nhân dân...
- Mongtexkiơ (1689 - 1775): Là nhà tư tưởng chính trị xuất sắc của pháp, người
đề xướng học thuyết phân quyền; tư tưởng của ông được phản ánh trong tác phẩm "Tinh
thần pháp luật" và "Những bức thư thành Ba Tư".
Nghiên cứu lịch sử của chế độ chuyên chế, quyền lực nằm trong tay một người,
hay một tổ chức tất yếu dẫn đến lạm quyền và sử dụng quyền lực để mưu lợi ích riêng.
Tác giả cho rằng, để loại trừ khả năng lạm quyền thì cần phải thiết lập một trật tự trong đó
- quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập, trở thành lực lượng kiềm chế nhau.
Quyền lập pháp được chia giữa tư sản và phong kiến. Nghị viện có hai viện, Thượng viện đại
diện cho quý tộc; Hạ viện đại diện cho dân. Quyền hành pháp thuộc quý tộc, và thành lập
chính phủ của nhà vua nhưng chịu trách nhiệm trước nhân dân, tức là trước giai cấp tư sản.
Mongtecxkiơ giải thích như sau: "Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại
trong tay một người hay một viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta
sợ rằng chính ông ta hay Viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài" [50, tr.

100]. Cũng tương tự như vậy, "nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ
độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân" [50, tr. 100] và "nếu quyền tư pháp
nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp" [50, tr. 101]
và "nếu một người hay một tổ chức của quan chức hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng
nắm luôn cả ba thứ quyền nói trên thì tất cả sẽ mất hết" [50, tr. 101].
Ông còn cho rằng, quyền tư pháp phải độc lập, không trao cho cơ quan thường
trực nào, mà trao cho nhân dân bầu theo định kỳ.
Mongtecxkiơ chỉ ra rằng: "Cơ quan đại biểu cho dân chỉ nên làm ra luật và xem
xét người ta thực hiện luật như thế nào" [50 tr. 101] và không có "chức năng ngăn cản"
tức là "quyền làm cho quyết định của người khác trở thành vô hiệu" [50, tr. 101].
Thuyết phân chia quyền lực ra đời trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư sản
tập hợp quần chúng chống chế độ phong kiến. Khi giai cấp tư sản giành được chính
quyền, học thuyết này đã trở thành nguyên tắc căn bản về tổ chức và hoạt động của nhà


nước tư sản. ý nghĩa lịch sử của học thuyết phân quyền là ở chỗ thấy được sức mạnh của
quyền lực nhà nước (với tư cách là quyền lực của nhân dân ủy quyền). Vì thế nó không
được trao cho một ai hoàn toàn, mặt khác nó cho thấy sự nguy hiểm nếu quyền lực nhà
nước không được kiểm soát để rơi vào tay quý tộc hay tư sản. Cũng cần thấy rằng, nguồn
gốc sâu xa của lý thuyết phân quyền là: ở chỗ nó đã thích ứng với tính không thuần nhất
về lợi ích giữa các bộ phận khác nhau trong nội bộ giai cấp tư sản, thích ứng với tình
trạng tranh giành quyền lực diễn ra liên tục giữa các bộ phận đó.
Như vậy, về phương tiện chính trị trước đây phân quyền là cái cớ để giai cấp tư
sản đòi chia quyền thống trị với giai cấp phong kiến, thì hiện giờ là giải pháp tổ chức
quyền lực thích ứng với mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản. Tuy nhiên bản thân học
thuyết phân quyền ngoài việc phản ánh hiện tượng khách quan của xã hội tư sản là có
mong muốn một xã hội tốt đẹp, trong đó quyền tự do con người được đề cao, xã hội
không phải gánh chịu những lộng hành của nhà nước, họ đã kỳ vọng chủ yếu vào sự kiểm
soát quyền lực nhà nước ngay trong hệ thống tổ chức quyền lực.
1.1.3.3. Quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít về kiểm tra - kiểm soát

quyền lực nhà nước
* Quan điểm của Mác - Ăngghen
Qua di sản lý luận mà Mác - Ăngghen để lại, hầu như hai ông không đi sâu bàn tới
việc kiểm soát quyền lực một cách trực tiếp, mà bàn tới công tác kiểm tra, kiểm soát của
Đảng và Nhà nước. Mặc dầu vậy chúng ta cũng có thể thấy rõ quan điểm của các ông về
kiểm soát quyền lực. Vì vậy, khi nghiên cứu Mác - Ăngghen chúng ta cần có cách tiếp
cận rộng hơn các hình thức giám sát quyền lực. Trong bộ Tư bản, Mác đã đề cập đến công
tác kiểm tra nói chung - kiểm tra là một phương thức hành động để thực hiện mục đích.
Nó như là quy luật. Như vậy theo quan điểm của Mác - Ăngghen thì kiểm tra là một tất
yếu khách quan đối với hoạt động của con người và tổ chức. Có hoạt động thì phải có kiểm
tra. Các Mác khẳng định rằng:
Vào một thời kỳ ở một nước mà thế lực vua chúa, giai cấp quý tộc và
giai cấp tư sản tranh giành quyền thống trị, mà do đó quyền thống trị bị phân
chia thì học thuyết phân quyền tỏ ra là tư tưởng thống trị, nó được người ta coi


là quy luật vĩnh viễn... mỗi điều khoản của hiến pháp đều chứa sẵn trong bản
thân nó cái phản đề của bản thân nó, cái thượng viện và hạ viện của nó tự do
trong câu nói chung chung, và xóa bỏ cái tự do trong điều khoản kèm theo...
Hiến pháp đã được thảo ra sao cho nghị viện có thể gạt bỏ được tổng thống
bằng con đường lập hiến, nhưng Tổng thống lại có thể gạt bỏ nghị viện bằng
con đường không hợp hiến, bằng cách thủ tiêu luôn cả hiến pháp. Như thế là ở
đây, bản thân hiến pháp lại đi thách thức thủ tiêu mình bằng bạo lực. Chẳng
những nó thần thánh hóa chế độ phân quyền giống như Hiến chương 1830, mà
nó còn mở rộng chế độ phân quyền đến chỗ mâu thuẫn không sao chịu nổi...
Nếu hiến pháp giao cho tổng thống quyền thực tế thì nó lại cố gắng bảo đảm
cho nghị viện quyền tinh thần... [41, tr. 236].
Khi xem xét mối liên hệ giữa Thuyết phân quyền với sự phân công lao động
trong bộ máy nhà nước Ph. Ăngghen đã viết "Phân quyền được xem như là nguyên tắc
thiêng liêng và không thể xâm phạm được trên thực tế, về thực chất nó không có gì khác

là sự phân công công việc lao động được áp dụng đối với bộ máy nhà nước nhằm đơn
giản hóa và để kiểm tra" [43, tr. 405]. Các ông cho rằng, Thuyết phân quyền ở đó Nghị
viện chỉ là nơi bàn cãi suông, tòa án chỉ độc lập giả dối, còn toàn bộ quyền lực tập trung
vào cơ quan hành pháp. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học thuyết
chính trị pháp lý, kể cả thuyết phân chia quyền lực. Đồng thời, tổng kết kinh nghiệm đấu
tranh giai cấp, Mác và Ăngghen đã cho ta thấy, trong xã hội có giai cấp đối kháng, quyền
lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ nhà nước đó bị đập tan thì
quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân, như chính cội nguồn ban đầu của nó, nhân dân là
gốc của quyền lực là chủ thể của quyền lực. Sự thay đổi về bản chất này cần có quan
điểm mới về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước khi
nhà nước của nhân dân lao động được thành lập dưới CNXH.
* Quan điểm của V.I. Lênin
Về công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm kê kiểm soát, V.I. Lênin bàn đến rất nhiều,
rất sâu (ở trong khoảng không dưới 150 tác phẩm). Nội dung quan điểm của V.I. Lênin
được thể hiện rõ ở 4 vấn đề chủ yếu sau:


+ Tính tất yếu phải kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát.
+ Những nội dung cơ bản của kiểm tra, kiểm soát.
+ Chủ thể kiểm tra, kiểm soát và đối tượng của nó.
+ Tổ chức, hình thức, phương pháp tiến hành kiểm tra, kiểm soát...
Theo Lênin, những nội dung chủ yếu của kiểm tra, kiểm soát bao gồm:
Một là, kiểm tra, kiểm soát việc sản xuất và phân phối những sản phẩm chủ yếu
nhất.
Hai là, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính và tiền tệ, nhất là hoạt động
của ngân hàng, lưu thông tiền tệ, thu nhập, chi tiêu và nộp thuế của các nhà giàu.
Ba là, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; việc thi hành các chức trách và chấp hành kỷ luật lao động.
Bốn là, kiểm tra, kiểm soát để phát hiện kịp thời và đấu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực.

Đây chính là những vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, tuy nhiên ở các quy
mô rất khác nhau.
Nói một cách khái quát, theo V.I.Lênin, nội dung công tác kiểm tra bao gồm: kiểm
tra việc và kiểm tra người. Nó bao trùm toàn bộ việc kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà
nước, chứ không chỉ là một quá trình của công tác lãnh đạo.
Khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị thì chủ thể kiểm tra, kiểm soát thuộc về
giai cấp tư sản. Còn đối tượng (khách thể) kiểm tra, kiểm soát là giai cấp vô sản và quần
chúng lao động.
Khi giai cấp vô sản giành quyền thống trị thì chủ thể kiểm tra, kiểm soát thuộc về
giai cấp công nhân và toàn thể dân cư tiến hành. Nhà nước chuyên chính vô sản dựa vào
quần chúng lao động, trước hết là công nhân và nông dân, để tiến hành kiểm tra, kiểm
soát. Đối tượng bị kiểm tra, kiểm soát lúc này bao gồm:
- Tất cả các đơn vị kinh tế, các ngành...


- Bọn ăn cắp, đầu cơ, làm ăn gian dối, nhận hối lộ, ăn bám, lưu manh, phá hoại
ngầm, bọn "con ông cháu cha".
- Các biểu hiện của tính tự phát vô chính phủ.
- Nhà nước và các tổ chức đảng vừa là chủ thể vừa là khách thể của công tác
kiểm tra, kiểm soát.
Tổ chức, hình thức, phương pháp tiến hành kiểm tra, kiểm soát
Công tác tổ chức là công tác có ích nhất và cần thiết nhất cho nhân dân. Nếu
quần chúng không có tổ chức thì không thể đảm bảo một sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm
chỉnh. Cần đề bạt những người có tài tổ chức xuất thân từ tất cả các tầng lớp dân cư, các
giai cấp vào cương vị then chốt trong bộ máy kiểm tra, kiểm soát. Vấn đề cấp thiết nhất
là tiến hành cải tiến bộ máy nhà nước Xô viết theo nguyên tắc "Thà ít mà tốt". Cơ quan
đầu tiên cần phải được cải tiến là Bộ dân ủy Thanh tra công nông. Phải chọn người đứng
đầu có uy tín, coi trọng chất lượng và tinh giảm biên chế của cơ quan này.
Riêng đối với cơ quan kiểm tra của Đảng phải được củng cố, xây dựng đủ mạnh
để thực thi tốt chức năng, nhiệm vụ của nó. Cần thiết lập ban kiểm tra song song với Ban

chấp hành Trung ương. Thành phần của Ban này bao gồm những đồng chí có uy tín nhất.
Các thành viên của Ban kiểm tra Trung ương có quyền tham dự các kỳ họp của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, có quyền đọc các tài liệu và có ý kiến.
Để nâng cao hiệu quả kiểm tra, kiểm soát cần thực hiện tốt những phương pháp
chủ yếu sau:
Một là, phải tổ chức phối hợp việc kiểm tra, kiểm soát từ dưới lên và từ trên
xuống. Nhất thiết phải đặt ra và chấp hành những quy tắc về tiếp dân, tổ chức phòng tiếp
khách sao cho việc lui tới cơ quan được tự do, hoàn toàn không cần có giấy phép nào cả.
Hai là, phải công khai hóa việc kiểm tra, kiểm soát.
Ba là, kiểm tra phải thực sự, hình thức kiểm tra phải linh hoạt.
Bốn là, kiểm tra và xử lý phải thật nghiêm minh, kiên quyết.


1.1.3.4. Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát ở Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra,
kiểm soát gắn liền với quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Người về Đảng nói
chung. Xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền, nhà nước của dân do dân, vì dân nói riêng.
Tư tưởng trên được hình thành rất sớm biểu hiện rõ nét trong hai văn kiện quan
trọng "án nghị quyết của hội nghị trù bị toàn quốc đại biểu đại hội" ngày 23 tháng giêng
năm 1929 và trong Điều lệ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Trong văn kiện thứ
nhất, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề "đặt ra đặc biệt ủy viên Hội để điều tra và xử đoán"
[88, tr. 91] những sự kiện cáo nhau. Trong văn kiện thứ hai đã đề cập tới các hình thức kỷ
luật đối với các hội viên của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bị sai lầm, khuyết điểm.
Tiếp đó trong các văn kiện, bài nói, bài viết từ năm 1930 đến năm 1969 tư tưởng về công tác
kiểm tra, kiểm soát và thi hành kỷ luật đã không ngừng được người bổ sung, hoàn thiện.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kiểm soát và thực hành kỷ luật
được biểu hiện rõ nét ở những vấn đề chủ yếu sau:
+ Vì sao phải tiến hành công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý kỷ luật.

Học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã
khẳng định: chính đảng ra đời là một tất yếu lịch sử. Là đòi hỏi tất yếu khách quan của
cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thể hiện thắng lợi sứ mệnh lịch
sử thế giới của giai cấp mình. Như vậy lãnh đạo là chức năng bao trùm của Đảng. Chức
năng ấy được qui định bởi ngay từ qui luật ra đời của Đảng.
Thế nào là lãnh đạo đúng? Trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc Hồ Chí Minh đã
luận giải hết sức rõ ràng, lãnh đạo đúng có nghĩa là:
Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng..
Phải tổ chức sự thi hành cho đúng...
Phải tổ chức sự kiểm soát... [46, tr. 285].


Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước không phải là viết nghị quyết và ra
chỉ thị, mà điều quan trọng, lãnh đạo còn là tổ chức thi hành và kiểm soát thực hiện. Lãnh
đạo là kiểm soát, điều đó hoàn toàn chính xác cả về lý luận và thực tiễn. Sự chính xác của
các quyết định của Đảng và Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có một yếu tố
quan trọng là công tác kiểm tra, kiểm soát. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đảng có hiểu rõ tình
hình thì đặt chính sách mới đúng".. nếu không biết rõ tình hình mà đặt chính sách thì kết
quả là "nồi vuông úp vung tròn" không ăn khớp gì hết [46, tr. 267].
Kiểm tra, kiểm soát là tất yếu khách quan còn ở chỗ muốn cho ý chí, trí tuệ của
toàn Đảng, toàn dân thành hiện thực cuộc sống thì phải thường xuyên quan tâm đến công
tác quan trọng đó.
Trong tác phẩm "Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay". Hồ Chí
Minh khẳng định:
Chính sách đúng là nguồn gốc thắng lợi.
Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự còn phải tổ chức, phải đấu
tranh.
Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hoặc thất bại của chính
sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm
tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích [46, tr. 520].

ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo tư tưởng
của V.I. Lênin:
Khi mục đích, nhiệm vụ chính trị đã được xác định, quyết định đã được
thông qua, thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu. Điều chủ yếu
là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa
chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt nhất đối với Đảng
tiên phong, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Tìm người, kiểm tra công
việc - tất cả là ở đó. Cần phải ưu tiên thời gian, trí tuệ thích đáng, vì nếu không
làm như vậy thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn [29, tr.
450].


Tính tất yếu của công tác kiểm tra kiểm soát được quy định ngay từ qui luật và
phát triển của Đảng. Hồ Chí Minh luận giải rất rõ ràng những căn nguyên của những
khuyết điểm sai lầm trong Đảng: "Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng
lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song
cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên
ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng" [46, tr. 261].
Trong Đảng ta gồm những người có tài, có đức, phần đông những người hăng hái
nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết dũng cảm nhất. Tuy vậy, không phải là
người người đều tốt, làm việc đều hay. Trong Đảng chưa hoàn toàn tránh khỏi một vài kẻ vụ
lợi những việc không chính đáng. Do vậy kiểm tra và thực hành kỷ luật trong Đảng là một
tất yếu khách quan, để ngăn chặn khuyết điểm sai lầm, sửa chữa thói hư tật xấu, thải loại
những kẻ thoái hóa biến chất, xây dựng đảng trong sạch vững mạnh. Xây dựng nhà nước
của dân do dân vì dân.
+ Mục đích, ý nghĩa, tác dụng, nội dung của công tác kiểm tra
Phạm vi, nội dung của công tác kiểm tra rất rộng nhưng tập trung nhất là kiểm tra
việc và kiểm tra người. Việc ở đây chủ yếu bao gồm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước. Người ở đây là cá nhân cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh chỉ
rõ mục đích, tác dụng của công tác kiểm tra, kiểm soát là giúp Đảng và Nhà nước nắm

chắc được tình hình lãnh đạo, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước trong hiện thực cuộc sống có gì đúng đắn, sai lệch, ai chấp hành tốt, ai
chấp hành chưa tốt, năng lực thực tế của mỗi người...
Người cho rằng: có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay
xấu. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết
điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết. Muốn chống bệnh quan liêu bàn giấy, muốn biết
các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm,
ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo bao nhiêu
khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định sẽ bớt đi [46,
tr. 287].


Cũng như V.I. Lênin, Hồ Chí Minh phê phán rất nghiêm khắc những cơ quan,
cán bộ mắc phải bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, "chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh
điện và gửi chỉ thị" [46, tr. 520]; "có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu,
có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Người cho rằng, những
người đó "không làm được việc, phải thải đi". Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn lưu ý đến hai
hạng người" [46, tr. 286].
Một là, những người cậy mình là công thần cách mạng rồi đâm ra ngang tàng,
không giữ gìn kỷ luật, không thi hành nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Họ kiêu ngạo,
bất chấp kỷ luật, kỷ cương. Với những người này, "cần phải mời các ông đó xuống công
tác hạ tầng, khép họ và kỷ luật" để chữa tính kiêu ngạo, thói quan liêu cho họ và để giữ
vững kỷ luật của Đảng và Chính phủ.
Hai là, hạng người nói suông. Hạng người này tuy thật thà, trung thành nhưng
không có năng lực làm việc, chỉ biết nói suông.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, đặc biệt là
kiểm tra việc và kiểm tra người. Người thường xuyên nhắc nhở: Đảng phải luôn luôn xét
lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không như vậy
thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của
nhân dân đối với Đảng.

Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng CNXH thì công tác
kiểm tra càng có tác dụng, tầm quan trọng đặc biệt. Tại hội nghị tổng kết công tác kiểm
tra của Đảng, ngày 29/7/1964, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
Công việc của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều. Muốn hoàn thành
tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp ủy Đảng
phải tăng cường công tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo
dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với nhà nước,
làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng
về tư tưởng, về tổ chức [47, tr. 300].
+ Cách kiểm tra:


Hồ Chí Minh coi kiểm tra là một phương tiện, một liều thuốc đặc hiệu chống lại
căn bệnh "nghị quyết một đằng thi hành một nẻo" và bệnh quan liêu giấy tờ. Song, muốn
đạt hiệu quả cao thì phải "khéo kiểm soát". "Khéo" tức là phải trên cơ sở khoa học, có
hình thức, phương pháp kiểm tra linh hoạt, đa dạng. Người phê phán nghiêm khắc lối làm
việc quan liêu; thiếu kiểm tra, kiểm soát cụ thể; thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều;
ngồi một nơi chỉ tay năm ngón. Cách làm việc như thế rất có hại. Nó làm cho lãnh đạo
không đi sát với phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới, cho nên phần nhiều
chủ trương, nghị quyết không được chấp hành đến nơi đến chốn.
"Khéo" kiểm tra còn có nghĩa là:
- Kiểm tra phải có hệ thống, nghĩa là khi đã có nghị quyết thì phải lập tức đốc
thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và
nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ những khuyết điểm và những
khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách giúp đỡ để vượt qua mọi sự khó khăn.
- Kiểm tra không nên chỉ bằng cứ vào giấy tờ báo cáo, ngồi trong phòng giấy mà
chờ người ta báo cáo mà phải đi đến tận nơi, xem tận chỗ.
- Kiểm tra phải dùng cách thức thật thà tự phê bình và phê bình, để tỏ rõ mọi
khuyết điểm và tìm cách sửa chữa những khuyết điểm ấy. Như thế, thì cán bộ càng thêm

trọng kỷ luật và lòng phụ trách.
"Khéo" kiểm tra tức là phải biết kết hợp linh hoạt các hình thức, phương pháp kiểm
tra: kiểm tra từ dưới lên, từ trên xuống; kiểm tra thường xuyên, bất thường, định kỳ, kiểm
tra trực tiếp, gián tiếp v.v...
Người lý giải rất rõ ràng hai cách kiểm tra: kiểm tra từ trên xuống - tức là người
lãnh đạo kiểm tra kết quả những công việc của cán bộ mình. Kiểm tra từ dưới lên - tức là
quần chúng và cán bộ kiểm tra sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa
sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm tra các nhân viên.
Có hình thức, phương pháp kiểm tra đúng, điều đó rất quan trọng, những yếu tố
quyết định hiệu quả của mỗi cuộc kiểm tra là ở người kiểm tra. Vì hình thức, phương


×