LUẬN VĂN:
Tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn
nhà nước - Thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu
tranh của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới về kinh tế ở nước ta đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng. Ngành xây dựng đã thực sự góp phần tạo nên vóc dáng mới
của đất nước với nhiều công trình hiện đại, góp phần tích cực và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó, trong lĩnh
vực này đang tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. Một trong những vấn đề đó là nạn tham
nhũng, tiêu cực, lãng phí, tình trạng này diễn ra phổ biến và phức tạp ở hầu hết các công
trình xây dựng, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt, gây bất bình trong dư
luận xã hội. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, trong năm 2005 đã kết thúc 17.112
cuộc thanh tra, kiểm tra, phát hiện sai phạm 8.786 tỷ đồng, kiến nghị xử lý kỷ luật hành
chính hơn 1.000 người, chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra xử lý 65 vụ với 112 người
có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Trong quý I/2006, đã tiến hành 800 cuộc thanh
tra, phát hiện sai phạm kinh tế 169,496 tỷ đồng, kiến nghị xử lý kỷ luật 109 trường hợp,
chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra 11 vụ việc. Tổng hội Xây dựng Việt Nam báo cáo về
59 công trình xây dựng có biểu hiện lãng phí thất thoát cho thấy, có 27% số công trình
chất lượng kém phải bổ sung kinh phí mới sử dụng được; 36% các công trình không sử
dụng được do chọn địa điểm xây dựng không thích hợp; 25% các công trình do quyết
toán khống làm thất thoát gần 300 tỷ đồng. Điều đó đặt ra yêu cầu cho các cơ quan bảo
vệ pháp luật cần tập trung mọi nỗ lực để đấu tranh ngăn chặn tình trạng này, đây là vấn
đề rất cấp thiết và là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay.
Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý
kinh tế và chức vụ (gọi tắt là Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế) cả nước đã có nhiều cố
gắng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh nạn tham nhũng trong lĩnh vực đấu tranh
xây dựng, thu hồi số lượng tài sản lớn cho Nhà nước. Tuy nhiên so với tình hình mà dư
luận xã hội đã phản ánh thì kết quả đó chưa đáp ứng được yêu cầu.
Do tính đặc thù của hoạt động xây dựng cơ bản nên việc phòng ngừa, phát hiện,
điều tra khám phá tội phạm này thường gặp nhiều khó khăn. Đối tượng phạm tội tham
nhũng trong xây dựng cơ bản thường là những người có chức vụ, quyền hạn trong quản
lý tài sản, có mối quan hệ với những người có chức quyền trong bộ máy nhà nước cùng
thông đồng, móc ngoặc với những thủ đoạn tinh vi để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
Trong khi đó hoạt động phát hiện, điều tra khám phá tội phạm này của lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế (CSĐT TPKT) còn gặp nhiều khó khăn, bất
cập. Các biện pháp phòng ngừa cũng như các biện pháp phát hiện, điều tra loại tội phạm
này chưa phát huy hết vai trò, tác dụng. Mặt khác, trong quá trình điều tra phát hiện, thu
thập tài liệu, chứng cứ thường rất khó khăn và phức tạp vì phải qua công tác giám định
công trình xây dựng. Trong khi đó nhiều phần của công trình xây dựng lại nằm sâu
trong lòng đất, dưới nước do đó để giám định được công trình là rất khó khăn.
Về phương diện lý luận, hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng
trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước chưa được nghiên cứu một cách đầy
đủ, toàn diện và hệ thống nên đã tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn của lực
lượng CSĐT TPKT trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng ở lĩnh vực
này. Do vậy, đây là một vấn đề cần quan tâm nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Tham nhũng trong đầu
tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước - Thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu
tranh của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ"
làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng; đánh giá thực trạng
tình hình tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước những
năm gần đây và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống loại tội phạm này của lực lượng
CSĐT TPKT. Trên cơ sở đó, tìm ra nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tình trạng tham
nhũng trong đầu tư xây dựng, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng của lực lượng CSĐT
TPKT.
- Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra của đề tài là:
+ Khái quát những vấn đề lý luận để làm rõ nhận thức về tội phạm tham nhũng
trong đầu tư xây dựng và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống loại tội phạm này của
lực lượng CSĐT TPKT;
+ Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình hình tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước và thực trạng hoạt động phòng ngừa, đấu tranh của lực
lượng CSĐT TPKT, xác định những khó khăn, vướng mắc và hạn chế của lực lượng CSĐT
TPKT trong tổ chức thực hiện các hoạt động đó;
+ Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm loại tội phạm này của lực lượng CSĐT TPKT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận về tội phạm hoạt động phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng; thực trạng tình
hình tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước và
hoạt động của lực lượng CSĐT TPKT trong phòng ngừa, đấu tranh chống loại tội phạm
này.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng tình hình tội phạm tham
nhũng trong đầu tư xây dựng và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh của lực lượng CSĐT
TPKT. Nghiên cứu khảo sát lấy số liệu từ năm 2001 đến năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với hệ thống những quan điểm của Đảng, Nhà
nước và ngành Công an trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu đề
tài tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn, nghiên cứu điển hình.
- Phương pháp chuyên gia, trao đổi tọa đàm... và sử dụng các phương pháp điều
tra xã hội học khác.
6. Tình hình nghiên cứu
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng hiện nay đang là
vấn đề bức xúc của toàn xã hội, là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, dưới nhiều góc độ khác nhau các đề tài mới chỉ tập trung nghiên cứu một số
vấn đề có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm kinh tế nói chung và
một số loại tội phạm cụ thể nói riêng trong lĩnh vực đấu tranh xây dựng cơ bản (XDCB)
và đưa ra được một số giải pháp cho công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Đã có một số công trình nghiên cứu về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tham
nhũng ở các khía cạnh khác nhau, trong đó đáng lưu ý là các công trình: Tham nhũng và
đấu tranh chống tham nhũng (Viện Khoa học Công an, Hà Nội, năm 1997); Thực trạng
tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng và giải pháp phòng ngừa đấu tranh, Cục
Cảnh sát kinh tế (CSKT), 1998; Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra tội phạm tham
nhũng của lực lượng Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn thạc sĩ của tác
giả Nguyễn Ngọc Phi và một số bài báo viết về vấn đề này.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy các công trình đó đã giải quyết được một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng
trong đầu tư xây dựng ở những khía cạnh khác nhau. Cụ thể là, có công trình nghiên
cứu đề cập dưới góc độ của lực lượng CSKT trước đây (lực lượng trinh sát), có công
trình nghiên cứu dưới góc độ của CSĐT (điều tra theo tố tụng) nhưng từ khi Pháp lệnh
Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 có hiệu lực đến nay chưa có công trình nào đề cập
một cách sâu sắc, có hệ thống và toàn diện về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước theo chức năng
của lực lượng CSĐT TPKT theo hướng gắn điều tra trinh sát với điều tra tố tụng.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Về lý luận, luận văn sẽ làm rõ thêm và bổ sung nhận thức lý luận về tội phạm
tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước; lý luận về hoạt động
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực này.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn
nhà nước của lực lượng CSĐT TPKT trong tình hình hiện nay. Đề tài có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập trong các trường đào
tạo lực lượng Cảnh sát nhân dân (CSND).
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được cấu trúc thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Nhận thức chung về tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước và
hoạt động phòng ngừa, đấu tranh của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và chức vụ
1.1. Nhận thức về đầu tư xây dựng và tội phạm tham nhũng trong đầu tư
xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước
1.1.1. Nhận thức về đầu tư xây dựng và những đặc điểm cơ bản của lĩnh vực
đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước liên quan đến công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm tham nhũng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản
lý kinh tế và chức vụ
Nghiên cứu các văn bản pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, cho thấy: đầu
tư và xây dựng là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ gắn bó với nhau. Đầu tư là
việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt
được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm
hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. Xây dựng là việc sử dụng vốn để tạo mới
các công trình phục vụ cho các hoạt động kinh tế - xã hội như: cầu, đường, nhà máy, xí
nghiệp, các công trình thủy lợi, cơ quan, trường học, bệnh viện... Công trình xây dựng là
sản phẩm của công nghệ xây lắp gắn liền với đất đai (bao gồm cả khoảng không, mặt
nước, mặt biển, thềm lục địa) được tạo thành bằng vật liệu xây dựng, thiết bị và lao
động, đồng thời, đó cũng là kết quả sử dụng vốn đầu tư cho công trình xây dựng.
Như vậy, đầu tư xây dựng là toàn bộ quá trình sử dụng các nguồn vốn gắn với
quá trình xây dựng các công trình phục vụ cho sản xuất, kinh doanh và cho các hoạt động
khác của nền kinh tế xã hội. Đầu tư - xây dựng là lĩnh vực bao gồm nhiều giai đoạn được
tiến hành theo trình tự thống nhất rất chặt chẽ từ lập dự án, khảo sát, thiết kế, đấu thầu, thi
công xây lắp cho đến nghiệm thu đưa công trình vào khai thác sử dụng. Tất cả các giai
đoạn này đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nghiên cứu các mối liên hệ đó có ý
nghĩa rất quan trọng đối với công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng của lực
lượng CSĐT TPKT.
Đầu tư - xây dựng là lĩnh vực kinh tế với những đặc điểm đặc thù, là yếu tố tác động
đến hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế nói chung và tội phạm tham
nhũng nói riêng trong lĩnh vực này của lực lượng CSĐT TPKT. Vì vậy, trong phòng ngừa,
đấu tranh chống tham nhũng ở lĩnh vực này, việc nghiên cứu nắm vững các đặc điểm đặc
trưng của nó là rất cần thiết đối với lực lượng CSĐT TPKT. Trong đó, chúng ta cần chú ý
tới những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, vốn đầu tư cho xây dựng rất lớn, đặc biệt là các công trình trọng
điểm của Nhà nước về giao thông vận tải như xây dựng cầu đường, thủy điện, thủy lợi,
xây dựng nhà máy, xí nghiệp, trường học, khu đô thị... Mặc dù, nguồn vốn trong XDCB
được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau nhưng phần lớn từ ngân sách nhà nước
(theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì vốn ngân sách nhà nước chiếm khoảng trên
50%). Các đối tượng tham nhũng chủ yếu dùng thủ đoạn chiếm đoạt tài sản thuộc sở
hữu của Nhà nước vì công tác quản lý loại tài sản này còn nhiều sơ hở.
Thực tế, hiện đang tồn tại nhiều loại vốn cho đầu tư xây dựng, nhưng xét cho
cùng, chỉ có hai loại vốn là vốn Nhà nước và vốn không phải của Nhà nước. Vốn nhà
nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước
và các vốn khác do Nhà nước quản lý.
Tình trạng tham nhũng thường xảy ra đối với các nguồn vốn thuộc sở hữu nhà
nước. Theo quan niệm chung, đây là vốn "cho không", vì trách nhiệm thanh toán không
phải bằng tiền mà bằng chứng từ. Trong trường hợp thông đồng, việc tạo ra chứng từ
khống không phải là chuyện khó khăn.
Mặt khác, vốn đầu tư nhà nước hiện đang vận động theo cơ chế xin - cho. Thực
tế để nhận được tiền, chủ đầu tư, đơn vị thi công thường phải xin (xin cấp phát, hỗ trợ
vốn hoặc xin vay thông qua tín dụng ưu đãi). Có xin thì có cho. Mà thông thường, để
xin được tiền thì phải chi tiền. Hối lộ nhiều được cấp phát nhiều, hối lộ ít được cấp phát
ít. Chính vì thế, cơ chế xin - cho là mảnh đất màu mỡ để tham nhũng tồn tại và phát
triển.
- Thứ hai, để có một công trình xây dựng được triển khai thực hiện trong thực tế
thường phải trải qua nhiều khâu, với những thủ tục phức tạp như: lập dự án, khảo sát, thiết
kế; đấu thầu, giải phóng mặt bằng, thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị; kết thúc xây dựng,
nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng. Mặt khác, vật tư, thiết bị dùng cho xây dựng rất
phong phú, đa dạng và dễ thay thế. Thị trường vật tư, thiết bị dùng cho xây dựng cơ bản rất
đa dạng, nhiều chủng loại đáp ứng nhu cầu sử dụng trong xã hội và dễ tiêu thụ. Giá vật tư,
thiết bị dùng trong xây dựng cơ bản phần lớn phụ thuộc vào giá thị trường và thường liên
tục biến động. Hơn nữa, trong thực tế nhiều trường hợp rất khó kiểm soát chất lượng vì
công trình nằm sâu trong lòng đất, khối bê tông... Bên cạnh đó, điều kiện bảo vệ an toàn
cho tài sản ở các công trình còn nhiều sơ hở, nhiều nơi kho tàng, bến bãi không đảm bảo
cho công tác bảo vệ an toàn tài sản. Lợi dụng tình hình đó, các đối tượng phạm tội đã dùng
nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản, hợp pháp hóa hành vi chiếm đoạt,
thậm chí đổ lỗi cho khách quan để biện minh cho những thất thoát về tài sản trong quá trình
đầu tư xây dựng.
- Thứ ba, thời gian xây dựng công trình, đặc biệt là công trình trọng điểm thường
kéo dài, có nhiều đơn vị tham gia. Có công trình xây dựng kéo dài đến hàng chục năm
như các công trình thủy điện, có công trình trải dài hàng ngàn km như công trình xây dựng
giao thông. Có công trình vừa thiết kế, vừa xây dựng, vừa hoàn thiện bàn giao từng
phần, vừa xây dựng, vừa sử dụng đan xen...
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản có tính chất đặc thù của lĩnh vực đầu tư xây
dựng bằng nguồn vốn nhà nước có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm tham nhũng, đòi hỏi lực lượng CSĐT TPKT cần nắm vững những đặc điểm đó. Việc
nắm vững những đặc điểm này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định địa bàn trọng
điểm, mối quan hệ giữa các khâu trong đầu tư xây dựng để thực hiện các hoạt động nghiệp
vụ cơ bản, đảm bảo chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và điều tra khám phá tội
phạm.
1.1.2. Tham nhũng và tham nhũng trong xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn nhà
nước
1.1.2.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính lịch sử, gắn liền với
sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tham nhũng xảy ra
ở mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, nó len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội.
Tham nhũng gây ra những hậu quả hết sức tai hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, nó cản trở sự phát triển đi lên của xã hội, có khi dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể
chế.
Có nhiều quan điểm, nhìn nhận tham nhũng từ nhiều khía cạnh khác nhau. Nhìn từ
khía cạnh đạo đức, tham nhũng là hành động phi đạo đức, bất nghĩa, trái với luân
thường đạo lý, trái với nguyên tắc đạo đức của con người và xã hội. Nếu xét từ khía
cạnh kinh tế thì tham nhũng là hành vi quan chức sử dụng quyền lực của mình để lái
hoạt động sản xuất, kinh doanh... vào lĩnh vực mà việc thu lời, nhận hối lộ, lấy của cải
được dễ dàng nhưng khó bị phát hiện. Nếu xét tham nhũng dưới khía cạnh nhà nước, pháp
luật thì tham nhũng là những tệ nạn gắn liền với quyền lực nhà nước, không thể có tham
nhũng ngoài nhà nước, tách khỏi bộ máy quản lý, cai trị; là một trong những thuộc tính xấu
của nhà nước. Thuộc tính đó biểu hiện đậm, nhạt khác nhau ở mỗi kiểu nhà nước cụ thể,
cũng như ở các thời kỳ khác nhau của một nhà nước. Mức độ phát triển của tham nhũng
tùy thuộc vào sức đề kháng của nhà nước. Nhà nước nào non kém, có nhiều tiêu cực,
quản lý xã hội yếu thì tham nhũng càng có nhiều cơ hội phát triển.
ở nước ta hiện cũng đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này.
Trong các văn bản pháp luật, khái niệm tham nhũng đã được đề cập tại Điều 1 Pháp
lệnh chống tham nhũng (được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 26/02/1998),
theo đó: "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt
hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các
cơ quan, tổ chức". Hành vi tham nhũng theo Pháp lệnh quy định có thể là hành vi phạm
tội được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) hoặc có thể là hành vi chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự, phải bị xử lý về mặt hành chính.
Pháp lệnh cũng quy định rõ các hành vi tham nhũng bao gồm:
1. Tham ô tài sản;
2. Nhận hối lộ;
3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi;
5. Lạm quyền trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi;
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;
7. Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
Ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống tham
nhũng, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 6 năm 2006, thay thế cho Pháp lệnh Chống tham
nhũng. Tại khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng có quy định: "Tham nhũng
là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ
lợi". Đồng thời, tại Điều 3 của Luật này cũng xác định các hành vi tham nhũng bao
gồm:
1. Tham ô tài sản.
2. Nhận hối lộ.
3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
5. Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
7. Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
8. Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để
giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
9. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ
lợi.
10. Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
11. Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
12. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Qua phân tích tính chất của hoạt động tham nhũng, có thể đưa ra khái niệm về
tham nhũng như sau:
Tham nhũng là tập hợp những hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện bằng cách sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vụ lợi, gây thiệt hại tài
sản, lợi ích của Nhà nước, tập thể là người lao động, xâm phạm đến hoạt động đúng
đắn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức.
Từ khái niệm về tham nhũng, chúng ta có thể khái quát các đặc trưng của tham
nhũng được thể hiện như sau:
1- Tham nhũng là hoạt động nguy hiểm cho xã hội; đó là những hoạt động đã
xâm hại đến các quan hệ xã hội đã được pháp luật bảo vệ. Đó là hành vi trực tiếp xâm
hại đến uy tín chế độ, xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của công dân, gây hậu quả
nghiêm trọng; bị coi là tội phạm và được quy định trong BLHS.
2- Tham nhũng là tập hợp những hành vi tiêu cực trái đạo đức xã hội, pháp luật.
Đó là những hành vi phản ánh về mặt khách quan đã xâm hại đến các quan hệ xã hội. Từ
tính chất của phương pháp, thủ đoạn, phương tiện phạm tội... và các hành vi tham nhũng
của người có chức vụ, quyền hạn rất tinh vi, trắng trợn, họ lợi dụng chức vụ để trực tiếp
hoặc gián tiếp chiếm đoạt tài sản của nhà nước, của người lao động. Hành vi đó trái với
quy định của Nhà nước và chức trách của bộ máy công quyền, trái đạo đức xã hội.
3- Tham nhũng được thực hiện bởi những người có chức vụ, quyền hạn. Chủ thể
của tội phạm tham nhũng phải là những người có chức vụ, quyền hạn. Chức vụ, quyền
hạn là điều kiện quyết định loại tội phạm này, những người có chức vụ, quyền hạn lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để xâm hại các quan hệ xã hội một cách trắng trợn, bất chấp
các trật tự, uy tín chế độ đến giá trị đạo đức con người trong xã hội để chiếm đoạt tài
sản.
4- Tham nhũng là hành vi trục lợi cá nhân, động cơ vụ lợi. Hành vi tham nhũng
đều bắt nguồn từ động cơ trục lợi, vụ lợi dưới mọi hình thức nhằm vào vật chất là tài sản, tiền
bạc để mưu cầu lợi ích cá nhân một cách trái pháp luật.
5- Tham nhũng là những hành vi vi phạm có độ ẩn rất cao, khó phát hiện, xử lý.
Những gì chúng ta biết được chỉ là phần nhỏ của một bức tranh rất tối và rộng. Người ta
đã nói nhiều đến sự liên kết "gắn bó" giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ; có khi
người đưa hối lộ do sự sách nhiễu, bị bức bách, nhưng cũng không hiếm các trường hợp
"muốn được mất tiền", tức là mong muốn người nhận "vui lòng" mà nhận cho. Vì vậy,
quá trình điều tra, khám phá các tội phạm về tham nhũng là rất khó khăn.
1.1.2.2. Tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước
- Tội phạm tham nhũng
Trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự, để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của
thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng, các nhà làm luật đã hệ thống các tội phạm về
tham nhũng thành một mục riêng (mục A) trong Chương 21 - Phần Các tội phạm BLHS
1999, bao gồm 7 tội danh được coi là tội phạm về tham nhũng, từ Điều 278 đến 284:
1. Tội tham ô tài sản (Điều 278);
2. Tội nhận hối lộ (Điều 279);
3. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280);
4. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281);
5. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282);
6. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục
lợi (Điều 283);
7. Tội giả mạo trong công tác (Điều 284).
Đây là nhóm tội phạm được sắp xếp và phân loại dựa trên căn cứ chủ yếu là dấu
hiệu chủ thể của tội phạm (đây là điểm khác biệt căn bản so với việc xây dựng các chương
khác của BLHS. Đa số các chương khác được sắp xếp và phân loại căn cứ vào khách thể
của tội phạm, do vậy nhóm tội phạm đó chỉ xảy ra trên một hoặc một số lĩnh vực cụ thể của
đời sống xã hội). Cách sắp xếp và phân loại này phản ánh một thực tế là các tội phạm tham
nhũng có mặt trên hầu khắp các lĩnh vực quản lý nhà nước, trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Trên cơ sở các nội dung đã phân tích và quy định của BLHS 1999 chúng ta có thể
hiểu: "Tội phạm về tham nhũng là những tội phạm quy định trong BLHS do người có chức
vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý, vì mục đích vụ lợi, xâm phạm đến quyền sở hữu tài
sản, lợi ích hợp pháp khác, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và hoạt động đúng đắn của
cơ quan nhà nước, tổ chức".
- Tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước và các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó.
Tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước là hành vi
nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự gây ra, xâm hại đến
trật tự quản lý kinh tế, xâm hại đến tài sản và các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập
thể và của công dân trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước.
Theo qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước, thường
xảy ra một số loại tội phạm: tội tham ô tài sản (Điều 278); tội nhận hối lộ (Điều 279);
tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281); tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283). Căn cứ
vào các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng
bằng nguồn vốn nhà nước có thể khái quát như sau:
- Khách thể của tội phạm: đó chính là các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ,
khách thể của các tội phạm về tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà
nước chính là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước cũng như sự hoạt động đúng đắn, uy
tín của các cơ quan nhà nước, của chế độ; các quyền, lợi ích hợp pháp trong đó có
quyền sở hữu tài sản và các quyền hợp pháp khác của công dân.
- Chủ thể của tội phạm: chủ thể của các tội phạm về tham nhũng trong đầu tư
xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước là chủ thể đặc biệt - những người có chức vụ,
quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước. Dấu hiệu về chức vụ, quyền hạn là dấu
hiệu bắt buộc của chủ thể đối với các tội phạm về tham nhũng trong đầu tư xây dựng
bằng nguồn vốn nhà nước, đó là điều kiện để chủ thể thực hiện các tội phạm. Phần lớn họ
là những người có trình độ, kiến thức về kinh tế và quản lý kinh tế, hiểu biết về đường lối,
chủ trương phát triển kinh tế -xã hội, có kiến thức pháp luật, có trình độ trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng.
- Mặt khách quan của tội phạm: là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
vào sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Người phạm tội có hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền được giao, làm trái các qui định của Nhà
nước trong đầu tư xây dựng nói chung và đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước
nói riêng.
- Mặt chủ quan: cũng như các tội phạm tham nhũng nói chung, các tội phạm về
tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước đều có dấu hiệu pháp lý
đặc trưng về mặt chủ quan đó là lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ mục đích phạm tội đều xuất
phát từ vụ lợi hoặc động cơ tư lợi khác để thỏa mãn mưu cầu tiền tài, địa vị, danh vọng,
uy tín... ở các mức độ khác nhau một cách trái pháp luật.
Yếu tố chủ quan này là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng bộc lộ:
đây chính là đặc trưng mà tính chất thủ đoạn của hành vi phạm tội quyết liệt, tinh vi, trắng
trợn... Động cơ trục lợi, vụ lợi thôi thúc người có hành vi phạm tội gia tăng, bằng mọi giá,
do vậy thường gây ra hậu quả xã hội rất nghiêm trọng.
Tuy nhiên, dấu hiệu đặc trưng của các tội phạm này được phân biệt bởi dấu
hiệu khách quan của hành vi và chủ thể vi phạm:
Tội tham ô: (Điều 278) về mặt khách quan là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản mình đang quản lý, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được
giao như là một phương tiện để biến tài sản do mình trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý
thành tài sản của mình hoặc người khác. Hành vi phạm tội là có thể thực hiện không
đúng hoặc vượt thẩm quyền được giao như lập dự toán vượt xa nhu cầu thực tế để ấy
tiền chênh lệch, xác nhận, kê khai khống, sửa chữa hóa đơn, chúng từ về giá cả, khối
lượng vật tư, đền bù, đo đạc, xác nhận thiệt hại sai về diện tích, chủng loại...
Về chủ thể của tội tham ô là các cán bộ có thẩm quyền trong cơ quan chủ đầu
tư, các Ban quản lý dự án, Hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng, Hội đồng tư vấn...
chuyên viên lập dự toán.
Tội nhận hối lộ: (Điều 279) là hành vi nhận hối lộ để thực hiện một việc thuộc
trách nhiệm của mình vì lợi ích vật chất hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ như
nhận hối lộ để quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế, xác nhận khống về diện tích, tình
trạng tài sản trên diện tích đất bị thu hồi để nhận tiền đền bù hoặc nhận cao hơn mức qui
định...
Hay hành vi nhận hối lộ để không làm một việc mà theo qui định phải làm vì lợi
ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, như không lập biên bản vi phạm thiết kế
trong quá trình thi công...
Chủ thể của tội nhận hối lộ là các cán bộ công chức nhà nước được giao nhiệm
vụ nghiên cứu quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế, giám sát thi công... như cán bộ Ban
quản lý dự án, chủ đầu tư dự án, công trình, cán bộ tham mưu và người ký phê duyệt
các dự án xây dựng... Bên cạnh các chủ thể trên có thể cộng phạm trong các tội phạm
này là các đối tượng trung gian, môi giới làm các thủ tục, hồ sơ.
Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: (Điều 281)
Hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện ở chỗ làm trái với nhiệm vụ được
giao bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Làm trái nhiệm vụ được giao ở đây là làm
không đúng với nhiệm vụ được giao hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao gây thiệt
hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân như
quyết định đầu tư sai địa điểm gây lãng phí vì lý do cục bộ địa phương; thay cho đấu
thầu thì chỉ định thầu cho công ty "sân sau"; làm ngơ khi phát hiện thấy các sai phạm
trong quá trình thi công công trình vì bên thi công là anh em, người nhà...
Về chủ thể, loại tội phạm này được thực hiện bởi những người có chức vụ,
quyền hạn được giao nhiệm vụ quyết định đầu tư, tổ chức đấu thầu, giám sát thi công...
Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục
lợi: (Điều 283)
Mặt khách quan của tội phạm này thể hiện ở hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn nhận trực tiếp hoặc qua trung gian tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất
kỳ hình thức nào để thông qua chức vụ, quyền hạn của mình mà gây ảnh hưởng đối với
người có chức vụ, quyền hạn khác, thúc đẩy người này làm hay không làm một việc
thuộc trách nhiệm liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không
được phép làm theo yêu cầu của người đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất. Cụ thể là
dùng chức vụ, quyền hạn của mình để gây sức ép đối với người có trách nhiệm duyệt dự
án, ký cấp vốn, cấp vốn, cấp phép... cho thắng thầu, nhận tiền, cho nghiệm thu, quyết
toán...
Chủ thể của tội phạm này là người có chức vụ, quyền hạn nhưng họ không có
trách nhiệm trong việc đầu tư cũng như thi công công trình, song với chức vụ, quyền
hạn của mình họ có khả năng gây ảnh hưởng đối với những người có thẩm quyền duyệt
dự án, ký cấp vốn, cấp vốn, cấp phép... cho thắng thầu, cho nghiệm thu, quyết toán...
Trên đây là đặc điểm dấu hiệu khách quan và chủ thể của một số tội phạm tham
nhũng phổ biến trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. Còn các loại tội phạm
tham nhũng khác như lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, lạm quyền trong
khi thi hành công vụ và giả mạo trong công tác chưa thấy xuất hiện trong đầu tư xây dựng
bằng nguồn vốn nhà nước.
1.1.2.3. Hậu quả của tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà
nước
1- Hậu quả về kinh tế - kỹ thuật
Hậu quả đầu tiên mà tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà
nước đem lại là gây thiệt hại đến tài sản, tức là làm Nhà nước mất tiền. Như đã phân
tích ở trên, dù tham nhũng có diễn ra dưới hình thức nào, tham ô hay hối lộ, chi cho bất
kỳ ai... thì tất cả các khoản đó cuối cùng đều được hạch toán vào công trình, tức là vào
nguồn vốn nhà nước. ở công trình nhỏ, tham ô, hối lộ... ít thì Nhà nước mất tiền ít; ở
công trình to, tham ô, hối lộ... nhiều thì Nhà nước mất tiền nhiều.
Hậu quả thứ hai mà tham nhũng đem lại là làm giảm chất lượng công trình vì
tất cả các khoản chi hối lộ, tham ô... đều biến thành xi măng, sắt thép... khống. Tham ô,
hối lộ ít thì chất lượng công trình giảm ít; tham ô, hối lộ nhiều thì chất lượng công trình
giảm nhiều. Giảm ở mức độ nào đó thì sau khi nghiệm thu, công trình sử dụng được
một thời gian ngắn đã phải duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa. Giảm ở mức độ lớn hơn thì
chưa sử dụng đã bị nứt, lún... và thậm chí có khi chưa kịp nghiệm thu đã sụp đổ, hư
hỏng nặng, buộc phải đầu tư xây dựng lại.
Hậu quả thứ ba mà tham nhũng đem lại là cung cấp cho đất nước những công
trình với máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ lạc hậu của thế giới. Điều này thường
xảy ra đối với các công trình xây dựng cơ bản có nhập máy móc, thiết bị và kỹ thuật
công nghệ của nước ngoài.
Còn hậu quả thứ tư, đó là tham nhũng thường làm chậm tiến độ đầu tư xây
dựng, tức là làm chậm lại việc đưa công trình vào sử dụng, mà công trình chậm được
đưa vào khai thác, sử dụng ngày nào thì có nghĩa là Nhà nước mất tiền ngày ấy.
2- Hậu quả về kinh tế - chính trị - xã hội
Xét ở góc độ kinh tế - chính trị - xã hội, có thể thấy hậu quả mà tham nhũng
trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước đem lại như sau:
Thứ nhất, nó làm lãng phí nguồn của cải vật chất của đất nước ở mức độ rất lớn.
Ngoài những thiệt hại về kinh tế - kỹ thuật như đã nói ở trên, điều này còn được thể hiện
qua việc cấp phép, cấp vốn, thi công xây dựng những công trình không phù hợp với quy
hoạch phát triển, không cần thiết; những công trình mà giá trị sử dụng của nó không có tính
khả thi; những công trình không nằm trong hướng ưu tiên của đầu tư xây dựng bằng
nguồn vốn nhà nước. Mặc dù các công trình được xây dựng lên còn đó, nghĩa là nguồn
vốn nhà nước không bị mất đi, nhưng rõ ràng bằng việc xây dựng các công trình như
vậy, nguồn vốn của Nhà nước đã được sử dụng không hiệu quả, thậm chí lãng phí.
Những lãng phí này thường có giá trị lớn hơn rất nhiều so với những gì người ta tham ô,
nhận hối lộ, vụ lợi trong đầu tư xây dựng.
Chính vì vậy, hậu quả thứ hai mà tham nhũng đem lại là làm chệch hướng các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã
hội. Vì sao vậy? Vì hướng ưu tiên chủ yếu của nguồn vốn nhà nước là dành cho các dự
án đầu tư công cộng, kết cấu hạ tầng, phát triển ngành mũi nhọn, phát triển nguồn nhân
lực và đầu tư cho các vùng, các khu vực khó khăn. Trong bối cảnh đất nước còn nghèo,
điều này càng trở nên quan trọng. Tiền vốn nhà nước nếu được sử dụng đúng mục đích,
được đầu tư đúng nơi, đúng lúc và đem lại hiệu quả sử dụng cao sẽ tạo điều kiện để các
ngành kinh tế và các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh; giảm bớt chênh lệch
giữa nông thôn và thành thị, giữa miền xuôi và miền ngược; thu ngắn khoảng cách giàu
nghèo. Còn ngược lại, khi nguồn vốn đó được đầu tư vào các dự án không phù hợp với
định hướng phát triển kinh tế - xã hội, các dự án không cần thiết, các dự án không có
tính khả thi... hoặc bị tham nhũng làm cho không đảm bảo chất lượng, chậm được đưa
vào sử dụng... thì các tác động tích cực nêu trên sẽ giảm thiểu hoặc không còn. Thậm
chí tham nhũng còn làm tăng thêm phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội và làm nhiều
giá trị đạo đức bị đảo lộn.
Hậu quả thứ ba mà tham nhũng đem lại là đồng thời với việc tạo ra một lớp
người sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của quảng đại quần chúng nhân dân, vi
tham nhũng là có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện "tích
lũy nguyên thủy tư bản", nó tạo ra một lớp người chi phối hoạt động lập pháp, hành
pháp và tư pháp và do đó, làm cho nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng
tăng.
Hậu quả thứ tư không thể không nói đến là vì vậy, nó gây bất bình trong quần
chúng nhân dân và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với chính quyền. Đây là điều dễ
hiểu bởi vì, thứ nhất, thông qua tham nhũng, nhân dân nhìn thấy một bộ phận không
nhỏ cán bộ thoái hóa biến chất và do đó, hiệu lực quản lý của Nhà nước bị suy giảm;
thứ hai, tham nhũng là cái cớ để các thế lực thù địch kích động nhân dân chống lại
chính quyền, thực hiện "diễn biến hòa bình"; thứ ba, vì nguồn vốn nhà nước được huy
động chủ yếu thông qua các khoản đóng thuế của dân nên bất kỳ hành vi tham nhũng
nào xảy ra trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước cũng đều là lấy tiền của
dân. Vì vậy, tham nhũng xảy ra càng nhiều bao nhiêu thì sự bất bình trong các tầng lớp
dân cư càng tăng bấy nhiêu và lòng tin của dân đối với chính quyền càng giảm bấy
nhiêu. Đến một mức độ nào đó, hậu quả mà tham nhũng mang lại có thể gây nên các
điểm nóng về chính trị, dân biểu tình chống chính quyền, đe dọa sự tồn vong của chế
độ.
1.2. Nhận thức cơ bản về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tham
nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước của lực lượng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát điều tra
tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
1.2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
Căn cứ Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 20/8/2004, căn cứ vào Nghị định số 136/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của
Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Công an; Quyết
định số 1438/2004/QĐ-BCA(X13) ngày 14/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Công an về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Cảnh sát; căn cứ Quyết
định số 189/2005/QĐ-BCA(X13) ngày 02/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Công an về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ; Quyết định 1164 và 1172/QĐ-X11(X13) ngày 01/4/2005 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của Phòng và Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý
kinh tế về chức vụ, có thể xác định lực lượng CSĐT TPKT có những nhiệm vụ cơ bản
sau đây:
+ Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ cơ bản để chủ động nắm tình hình; đề xuất
với các cấp ủy Đảng và các cấp chính quyền ban hành và tổ chức thực hiện các chủ
trương, kế hoạch đấu tranh; trực tiếp tiến hành các hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ đối
với các tội phạm thuộc chức năng đấu tranh của lực lượng;
+ Tổ chức và tiến hành các hoạt động nghiệp vụ trinh sát để phát hiện, ngăn chặn
và khám phá các tội phạm thuộc chức năng đấu tranh của lực lượng;
+ Tổ chức và tiến hành các hoạt động theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự (BLTTHS) để điều tra, xử lý các tội phạm các tội phạm thuộc chức năng đấu tranh
của lực lượng;
+ Tổ chức mối quan hệ phối hợp với các lực lượng khác trong và ngoài ngành
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về kinh tế và chức vụ.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác có liên quan đến công tác của lực lượng Cảnh
sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ.
Theo quy định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2004 và Thông tư số
12/2004/TT-BCA(V19) của Bộ Công an hướng dẫn một số quy định của Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự năm 2004 trong Công an nhân dân, Quyết định số 189/2005/QĐBCA của Bộ trưởng Bộ Công an ngày 02 tháng 3 năm 2005 về tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ;
Quyết định 1164 và 1172/QĐ-X11(X13) ngày 01/4/2005 của Tổng cục trưởng Tổng cục
Xây dựng lực lượng CAND về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Phòng và Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế về chức vụ, thì lực
lượng CSĐT TPKT được tiến hành điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm được
quy định tại các chương XIV, XVI, XVII, XXI của BLHS thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân các cấp trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan an
ninh điều tra trong Công an nhân dân (CAND). Theo quy định hiện hành lực lượng
CSĐT TPKT được tiến hành hoạt động điều tra đối với các tội phạm được qui định tại
60 điều của BLHS:
- Các tội phạm được qui định từ Điều 153 đến 181 thuộc Chương XVI Các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Các tội phạm về tham nhũng qui định tại các điều từ Điều 278 đến 284 thuộc
mục A và các tội phạm sau thuộc mục B Chương XVI các tội phạm chức vụ: Tội thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 258); Tội đưa hối lộ (Điều 289); Tội làm
môi giới hối lộ (Điều 290); Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn
để trục lợi (Điều 291).
- Các tội phạm xâm phạm sở hữu chương XIV: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 139); Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140); Tội chiếm giữ trái phép
tài sản (Điều 141); Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142); Tội thiếu tinh thần trách
nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước (Điều 144); Tội vô ý gây thiệt
hại tài sản của nhà nước (Điều 145) trong trường hợp đối tượng lợi dụng tư cách pháp
nhân của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, lợi dụng việc ký kết hợp đồng kinh tế để
phạm tội.
- Các tội phạm từ Điều 182 đến 191 thuộc Chương XVII. Các tội phạm về môi
trường.
- Các tội phạm thuộc chương XIX. Các tội phạm: Tội tạo ra và lan truyền, phát
tán các chương trình vi-rút tin học (Điều 224); Tội vi phạm các qui định về vận hành,
khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225); Tội sử dụng trái phép thông tin
trên mạng và trong máy tính (Điều 226); Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà
có (Điều 251) mà nguồn gốc tiền, tài sản do phạm tội kinh tế mà có.
Căn cứ vào các quy định trên có thể xác định lực lượng CSĐT TPKT là chủ thể
được giao nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh với các tội phạm về tham nhũng quy định từ
Điều 278 đến Điều 284, Mục A, Chương XXI Bộ luật hình sự 1999.
Như vậy, theo qui định của pháp luật hiện hành, lực lượng CSĐT TPKT là chủ thể
tiến hành hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong đầu tư
xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. Khi lực lượng chuyên trách chống tội phạm tham
nhũng được thành lập thì lực lượng này sẽ trở thành chủ thể chính tiến hành hoạt động
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng nói chung và tội phạm tham nhũng
trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước nói riêng.
1.2.1.2. Tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ
Tổ chức bộ máy của lực lượng CSĐT TPKT được triển khai từ Trung ương đến
cơ sở:
- ở cấp Bộ có Cục CSĐT TPKT (C15) với 11 đơn vị: Phòng Tham mưu (P1);
Phòng Phòng ngừa, đấu tranh án kinh tế công nghiệp, xây dựng (P2); Phòng Phòng
ngừa, đấu tranh án kinh tế nông nghiệp, nông thôn (P3); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh
án kinh tế tổng hợp (P4); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh án kinh tế giao thông, bưu điện
(P5); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh án kinh tế tài chính (P6); Phòng Phòng ngừa, đấu
tranh chống buôn lậu (P7); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh chống xâm phạm sở hữu trí
tuệ (P8); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh tội phạm công nghệ cao (P9); Phòng Hướng dẫn
và điều tra án tham nhũng và chức vụ (P10); Phòng Hướng dẫn và điều tra án kinh tế
khác (P11); Bộ phận thường trú tại cụm II; cụm III.
(có sơ đồ kèm theo)
Việc tổ chức các phòng như hiện nay theo lĩnh vực và đối tượng đấu tranh có
khác nhau nhưng tất cả các đơn vị đều có chức năng tổ chức hoạt động nghiệp vụ phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà
nước. Trong đó Phòng 2 chuyên trách phòng chống tội phạm trong xây dựng; Phòng 10
hướng dẫn và điều tra án tham nhũng và chức vụ.
Sơ đồ hệ thống tổ chức, phân cấp quản lý và chỉ đạo lực lượng
CSĐT TPKT thuộc bộ công an
Bộ Công an
TCII
Cục CSĐT
TPKT
TCI
C12
TCIII
TCIV
C13
C14
Phòng Tham mưu
Phòng PN, ĐT án KT công
Phòng PN, ĐT án KT nông nghiệp,
Phòng PN, ĐT án KT tổng hợp
Phòng PN, ĐT án KT giao thông,
Phòng PN, ĐT án kinh tế tài
Phòng PN, ĐT chống buôn lậu
Phòng PN, ĐT chống xâm phạm
Phòng PN, ĐT tội phạm công
Phòng HD và đ.tra án tham
Phòng HD và đ.tra án kinh tế
Bộ phận công tác thuộc Cục
tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tây
Nguyên
Đội Tham mưu
Công an
cấp tỉnh,
TP
Công an
cấp quận,
huyện thị
Phòng CSĐT
TPKT
Đội PN, ĐT án KT nông, công
nghiệp
Đội PN, ĐT án KT tổng hợp và các
TPKT khác
Đội PN, ĐT án buôn lậu, hàng giả,
xâm phạm SHTT
Đội CSĐT
TPKT
Đội HD, điều tra án kinh tế
+ Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có phòng CSĐT TPKT (PC15).
Tùy theo tính chất, đặc điểm và yêu cầu công tác ở từng địa phương mà Phòng
CSĐT TPKT có cơ cấu tổ chức theo mô hình phù hợp. Về mô hình tổ chức của Phòng
CSĐT TPKT Công an các tỉnh, thành phố hiện nay chưa có mô hình tổ chức thống nhất.
Căn cứ vào đặc điểm, tình hình tội phạm kinh tế tại địa phương, Giám đốc Công an tỉnh,
thành phố quyết định về mô hình, tổ chức, biên chế của Phòng CSĐT TPKT. Thông
thường Phòng CSĐT TPKT các tỉnh thành phố bố trí theo mô hình các đội nghiệp vụ
chuyên sâu theo đối tượng đấu tranh hoặc theo ngành, hàng lĩnh vực như:
* Theo đối tượng đấu tranh gồm: Đội tham mưu; Đội hướng dẫn, điều tra án
tham nhũng và chức vụ; Đội Phòng ngừa, đấu tranh án buôn lậu, hàng giả, xâm phạm sở
hữu trí tuệ;
* Theo ngành hàng, lĩnh vực: Đội tham mưu; Đội Phòng ngừa, đấu tranh án công
nghiệp - xây dựng; Đội Phòng ngừa, đấu tranh án nông nghiệp, nông thôn; Đội Phòng
ngừa, đấu tranh án trong lĩnh vực kinh tế tổng hợp và các tội phạm kinh tế khác.
Riêng hai thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh
mô hình tổ chức của các phònáiCĐT TPKT được bố trí theo ngành hàng, lĩnh vực gồm
10 đội nghiệp vụ.
+ Cấp quận, huyện, thị xã có đội CSĐT TPKT.
1.2.2. Cơ sở pháp lý và các biện pháp công tác trong phòng ngừa, đấu tranh
chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước của lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
1.2.2.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng
trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước của lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
Trong từng giai đoạn của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng
và Nhà nước ta luôn đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh của đất nước. Trong đó luôn nhấn mạnh việc tăng cường các biện pháp về pháp
luật nhằm đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay,