Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Đề tài : Đầu tư nước ngoài tới tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.23 KB, 63 trang )

Nhóm 3 KH13 KT

TIỂU LUẬN

Đề tài : Đầu tư nước ngoài tới tăng trưởng
và phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Hà Nội, năm 2015

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong gần 20 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu khá thuyết phục về kinh tế và xã hội. Tốc độ tăng


Nhóm 3 KH13 KT

trưởng kinh tếđạt trung bình7,3% giai đoạn 1990-2004, GDP thực bình quân
đầu người tăng trung bình 5,7% hàng năm và tỷ lệ nghèo giảm từ gần 80%
năm 1986 xuống còn 24% vào năm 2004. Trong hơn một thập kỷ qua, Việt
Nam luôn được xếp vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời có
thành tích giảm nghèo nhanh trên thế giới.
Thành tựu trên đây là dấu hiệu tốt của quá trình chuyển đổi kinh tế
và là kết quả của các chính sách mà Việt Nam đã và đang thực hiện trước
những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là xu thế toàn
cấu hóa. Ngay từ cuối thập kỷ 80, Việt Nam đã thực hiện chủ trương hội nhập
kinh tế, bắt đầu bằng việc thông qua Luật Đầu tư Nước ngoài vào năm 1987,
tiến hành ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương, gần
đây nhất là Hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Việt Nam đã trở thành thành viên
của ASEAN từ năm 1995,của APEC từ năm 1998, tham gia Diễn đàn kinh
tế Á-Âu (ASEM) vào năm 2001 và đang chuẩn bịđể gia nhập WTO.
Bên cạnh mở cửa cho thương mại, cũng như nhiều quốc gia đang


phát triển khác, Việt Nam đã và đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư,
trước hết là khung khổ pháp luật nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Việt Nam đã ký hiệp định song phương về khuyến khích và bảo
hộđầu tư với 45 nước và vùng lãnh thổ, trong đó phạm vi điều chỉnh của các
hiệp định đều mở rộng hơn so với những qui định hiện hành của Luật Đầu tư
Nước ngoài tại Việt Nam. Các nỗ lực của Chính phủ Việt Nam đã đem lại
những kết quả đáng khích lệ về thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Tính đến
20/12/2004, Việt Nam đã thu hút được 6.072 dự án với tổng vốn đăng ký đạt
khoảng 49,2 tỷ USD. Đến nay, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài được công
nhận là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế với đóng góp vào GDP ngày
càng tăng, ước đạt 14% vào năm 2004. Ngoài ra, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài còn tạo thêm việc làm, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước và đóng góp cho Ngân sách Nhà nước.
Chương I
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VỚI TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ


Nhóm 3 KH13 KT

I. Một số khái niệm
1.Hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư (gọi tất là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực
về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác
nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của ngành Bưu chính
Viễn thông (BCVT) nói riêng. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của
các kết quả đầu tư, có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất

định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả
đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí
tuệ. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản
vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại nhằm đêm lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Từ đây có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử dụng các
nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản
xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và
lợi ích kinh tế xã hội.
Hoạt động đầu tư có những đặc điểm chính sau đây:
- Trước hết phải có vốn. Vốn có thể bằng tiền, bằng các loại tài sản khác
như máy móc thiết bị, nhà xưởng, công trình xây dựng khác, giá trị quyền sở
hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật, giá
trị quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, các nguồn tài nguyên khác. Vốn có
thể là nguồn vốn Nhà nước, vốn tư nhân, vốn góp, vốn cổ phần, vốn vay dài
hạn, trung hạn, ngắn hạn.
- Một đặc điểm khác của đầu tư là thời gian tương đối dài, thường từ 2
năm trở lên, có thể đến 50 năm, nhưng tối đa cũng không quá 70 năm. Những
hoạt động ngắn hạn trong vòng một năm tài chính không được gọi là đầu tư.


Nhóm 3 KH13 KT

Thời hạn đầu tư được ghi rõ trong quyết định đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư và
còn được coi là đời sống của dự án.
- Lợi ích do đầu tư mang lại được biểu hiện trên hai mặt: lợi ích tài chính
(biểu hiện qua lợi nhuận) và lợi ích kinh tế xã hội (biểu hiện qua chỉ tiêu kinh
tế xã hội). Lợi ích kinh tế xã hội thường được gọi tắt là lợi ích kinh tế. Lợi ích

tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ đầu tư, còn gọi lợi ích
kinh tế ảnh hưởng đến quyền lợi của xã hội, của cộng đồng.
2. Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài
(tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước
tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá và
dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc để đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội nhất
định. Bản chất của đầu tư nước ngoài là xuất khẩu tư bản, hình thức cao hơn
của xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu tư bản là quá trình thực hiện giá trị thặng
dư ở nước ngoài, còn xuất khẩu hàng hoá là quá trình thực hiện giá trị thặng
dư ở trong nước.
Xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu tư bản luôn luôn bổ sung và hỗ trợ cho
nhau. Các nhà tư bản thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá để thâm nhập tìm
hiểu thị trường, luật lệ, quyết định đầu tư tư bản (xuất khẩu tư bản). Đồng thời
với xuất khẩu tư bản là việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư, liên doanh để
nhằm xuất khẩu máy móc thiết bị, vật tư sang nước tiếp nhận đầu tư và khai
thác nhân lực, lao động ở nước chủ nhà. Cùng với thương mại quốc tế, hoạt
động đầu tư quốc tế là dòng chính trong trào lưu có tính quy luật trong liên
kết kinh tế toàn cầu. Phân loại đầu tư quốc tế (theo hình thức đầu tư) gồm có:

Đầu tư trực tiếp (FDI) :
Trong hình thức đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ
hay một phần vốn đầu tư đủ lớn của dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc
tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ
thương mại.


Nhóm 3 KH13 KT

Do đầu tư bằng vốn sở hữu của tư nhân nên họ tự quyết định sản xuất

kinh doanh, chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và
hiệu quả kinh tế cao, không có ràng buộc về mặt chính trị, không để lại gánh
nặng nợ nần cho nền kinh tế. Chủ đầu tư tham gia điều hành nếu góp nhỏ hơn
100% vốn và trực tiếp tham gia điều hành mọi hoạt động nếu góp 100% vốn
(công ty 100 % vốn đầu tư nước ngoài). Thông qua FDI, nước chủ nhà tiếp
thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, mục tiêu mà các
hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Về nguồn vốn: ngoài vốn pháp
định, còn bao gồm cả vốn vay trong quá trình triển khai hoạt động, hoặc tái
đầu tư từ lợi nhuận thu được.
Đầu tư gián tiếp :
Là hình thức đầu tư vốn quốc tế quan trọng, trong đó chủ đầu tư nước
ngoài đầu tư bằng hình thức mua cổ phần của các công ty nước sở tại (ở mức
khống chế nhất định) để thu lợi nhuận mà không tham gia điều hành trực tiếp
đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Đặc điểm của loại đầu tư này là phạm vi đầu
tư có giới hạn (Chủ đầu tư chỉ quyết định mua cổ phần của các doanh nghiệp
có lãi và có triển vọng trong tương lai. Số lượng cổ phần bị khống chế ở mức
độ nhất định để không có cổ phần nào chi phối doanh nghiệp (từ 10 - 25%
vốn pháp định.) Đồng thời, chủ đầu tư không tham gia điều hành, nước nhận
đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong sản xuất và kinh doanh. Chủ đầu tư
thu lợi nhuận qua lãi suất cổ phiếu không cố định phụ thuộc kết quả kinh
doanh. Mặc dù đầu tư gián tiếp không có cơ hội như FDI nhưng có cơ hội
phân tích rủi ro kinh doanh trong những người mua cổ phiếu.
Tín dụng thương mại:
Là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất
tiền vay. Hình thức này có đặc điểm là ngân hàng cung cấp vốn tuy không
tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp nhưng trước khi cho vay phải
nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh hoặc thế
chấp các khoản vay để giảm rủi ro. Chủ đầu tư thu lợi nhuận cố định (lãi suất
tiền vay) theo khế ước độc lập với kết quả kinh doanh của nước nhận đầu tư.
Ngân hàng có quyền sử dụng tài sản thế chấp và yêu cầu cơ quan bảo lãnh



Nhóm 3 KH13 KT

thanh toán, khi bên vay không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, hình thức
này có độ rủi ro lớn và đối tượng vay vốn chủ yếu là các doanh nghiệp.
3.Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng kết quả đầu ra hoạt động của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là năm, quý).
Giả sử kết quả đầu ra của nền kinh tế của một quốc gia được ký hiệu là
Y: Yo là kết quả đầu ra của năm 0, Yn là kết quả đầu ra của năm n. Khi đó
tăng trưởng của nền kinh tế của năm n so với năm 0 được biểu thị bằng mức
tăng trưởng tuyệt đối hoặc tốc độ tăng trưởng như sau:
Mức tăng trưởng tuyệt đối:
Δ Yn = Yn - Y0
4. Phát triển kinh tế
4.1.Khái niệm
Phát triển kinh tế là quá trình thay đổi theo hướng tiến bộ về mọi mặt
kinh tế- xã hội của một quốc gia trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng.
4.2. Nội dung chủ yếu của phát triển kinh tế
- Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dài hạn, Đây là điều kiện tiên quyết để
tạo ra những tiến bộ về kinh tế- xã hội, nhất là ở các nước đang phát triển
thu nhập thấp.
- Thứ hai, cơ cấu kinh tế- xã hội thay đổi theo hướng tiến bộ. Xu hướng
tiến bộ của quá trình thay đổi này ở những nước đang phát triển, đang hoặc
chưa trải qua quá trình công nghiệp hoá thể hiện ở quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và đô thị hoá; đó không đơn thuần là
sự gia tăng về quy mô, mà còn bao hàm việc mở rộng chủng loại và nâng cao
chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra; hoạt động của nền
kinh tế ngày càng gia tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc

đạt được những tiến bộ xã hội một cách sâu rộng.
- Thứ ba, những tiến bộ kinh tế- xã hội chủ yếu phải xuất phát từ động
lực nội tại. Đến lượt mình kết quả của những tiến bộ kinh tế đạt được lại làm
gia tăng không ngừng năng lực nội sinh của nền kinh tế (thể hiện ở những tiến
bộ về công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nguồn vốn trong
nước…).


Nhóm 3 KH13 KT

- Thứ tư, đạt được sự cải thiện sâu rộng chất lượng cuộc sống của mọi
thành viên trong xã hội như là hàng đầu và là kết quả của sự phát triển.
Đương nhiên một kết quả như thế không chỉ là sự ra tăng thu nhập bình quân
đầu ngươi, một số bình quân có thể che lấp đằng sau nó sự phân phối bất bình
đẳng, nạn đói nghèo, thất nghiệp và những thụ hưởng khác về giáo dục, y tế,
văn hoá…
4.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để phát triển kinh tế. ở những
nước đang phát triển, đặc biệt là những nước đang phát triển có mức thu
nhập bình quân đầu người thấp, nếu không đạt được mức tăng trưởng
tương đối cao và liên tục trong nhiều năm, thì khó có điều kiện kinh tế để
cải thiện mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần, không phải là điều
kiện đủ để phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện
bởi những phương thức khác nhau và do đó có thể dẫn đến những kết quả
khác nhau. Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế không gắn với sự thúc
đẩy cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng tiến bộ, không làm gia tăng, mà thậm
chí còn làm xói mòn năng lực nội sinh của nền kinh tế, sẽ không thể tạo ra
sự phát triển kinh tế. Nếu phương thức tăng trương kinh tế chỉ đem lại lợi
ích kinh tế cho nhóm dân cư này, cho vùng này, mà không hoặc đem lại lợi

ích không đáng kể cho nhóm dân cư khác, vùng khác thì tăng trưởng kinh
tế như vậy sẽ khoét sâu vào bất bình đẳng xã hội. Những phương thức tăng
trưởng như vậy, rốt cục, cũng chỉ là kết quả ngắn hạn, không những không
thúc đẩy được phát triển, mà bản thân nó cũng khó có thể tồn tại được lâu
dài.
II. Cơ sở của đầu tư nước ngoài.
- Sự phát triển của xu hướng toàn cầu hóa,khu vực hóa,đẩy mạnh mẽ quá
trình tự do hóa thương mại và đầu tư.
- Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng KH-KT và cách mạng thông
tin nên quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước tạo sự chuyển vốn giữa
các quốc gia.
- Sự thay đổicác yếu tố sản xuất, kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo
nên lực đẩy đối với đầu tư quốc tế
- Nhu cầu vốn đầu tư phát triển để công nghiệp hóa của các quốc gia
đang phát triển rất lớn tạo nên sức hút đối với đầu tư nước ngoài.


Nhóm 3 KH13 KT


Nhóm 3 KH13 KT

III.Các hình thức đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo Luật Đầu tư
2014 và Luật Doanh nghiệp 2014 . ( Bảng 1 )


STT HÌNH
THỨC

CÁCH

LÀM

Nhóm 3 KH13 KT

Thành lập
pháp nhân
(Góp vốn,
mua cổ
phần thành
lập doanh
nghiệp mới
dẫn đến tỉ lệ
sở hữu của
nhà đầu tư
nước ngoài
trên 51%)

1

CƠ QUAN CHỦ TRÌ

Bước 1:
Trường
Bước
Nhà đầu hợp 1: Dự 1: Xin
tư lập dự án cần chấp chấp
án để
thuận chủ
thuận
được cấp trương đầu

chủ
giấy

trương
chứng
đầu tư
nhận
đăng ký
đầu tư

Bước
2: Đề
nghị
cấp
giấy
CN
ĐK
ĐT

Trườn
g hợp 2:
Dự án
không cần
chấp thuận
chủ trương
ĐT

Bướ
c 2: Cấp
giấy CN

ĐKDN
2

G
óp

G
óp

Góp
vốn, mua

Trường
hợp 1:
UBND
cấp tỉnh
Trường
hợp 2:
Thủ
tướng
Chính
phủ
Trường
hợp 3:
Quốc hội

GHI CHÚ

Đây là cách được
các nhà đầu tư

nước ngoài sử
dụng nhiều nhất
khi đầu tư vào
Việt Nam.
* Ưu điểm: minh
bạch, rõ ràng
* Nhược điểm:
- Cần nhiều thời
gian hơn so với
hình thức "Góp
vốn, mua cổ phần
của DNVN sẵn
Sở
có"
KHĐT
- Không tận dụng
hoặc
được phần nhà
Ban
xưởng, công
QLKCN, nhân,... sẵn có của
KCX nơi tổ chức kinh tế đã
tổ chức
được thành lập
kinh tế
đặt trụ
sở chính

Đ
Sở

ề nghị
Kế
cấp
hoạch và
giấy
Đầu tư
chứng
hoặc
nhận
Ban
ĐK
quản lý
ĐT
khu công
nghiệp,
khu chế
xuất nơi
tổ chức
kinh tế
đặt trụ
sở chính

Phòng ĐKKD tỉnh nơi tổ
chức kinh tế
đặt trụ sở chính
Phòng Đăng ký kinh doanh
tỉnh nơi tổ chức kinh tế đặt trụ


Nhóm 3 KH13 KT


Xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có các hình
thức sau:
- Hình thức doanh nghiệp liên doanh đây là hình thức đầu tư trực tiếp
nước ngoài, hình thức này có đặc trưng là mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp
liên doanh là 1 pháp nhân riêng, nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp
nhân độc lập. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn quy định vào liên doanh thì
dù 1 bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại.
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đây là doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng
toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự
quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn,
là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam.
- Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng
góp, vốn pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
- Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được
ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành
một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không
cần thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân mới. Hình thức này không
làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động
với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình
trước nước nhà.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công
trình xây dựng còn có hình thức:
- Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT) là một phương
thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà

đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong


Nhóm 3 KH13 KT

một thời gian nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho
nước chủ nhà.
-Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh là phương thức đầu tư
dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ
nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình
cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể dành cho nhà đầu tư quyền kinh
doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hợp lý.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là một phương thức đầu tư
nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình
đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư
nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Để hiểu rõ hơn về các hình thức đầu tư nước ngoài:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Hình
thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức truyền thống và phổ
biến của FDI. Với hình thức này, các nhà đầu tư, cùng với việc chú trọng khai
thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách áp dụng các
tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong hoạt động kinh doanh
để đạt hiệu quả cao nhất. Hình thức này phổ biến ở quy mô đầu tư nhỏ nhưng
cũng rất được các nhà đầu tư ưa thích đối với các dự án quy mô lớn. Hiện
nay, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư theo hình thức doanh nghiệp

100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập một công ty con của công ty mẹ
xuyên quốc gia. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước
sở tại (nước nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh
nghiệp phải được đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước sở
tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản lý, tự
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý, dưới hình thức


Nhóm 3 KH13 KT

này, theo Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty trách nhiệm hữu
hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần… Hình thức 100% vốn đầu tư
nước ngoài có ưu điểm là nước chủ nhà không cần bỏ vốn, tránh được những
rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm
cho người lao động. Mặt khác, do độc lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư
nước ngoài chủ động đầu tư và để cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ
mới, phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp
phần nâng cao trình độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược
điểm là nước chủ nhà khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và công nghệ,
khó kiểm soát được đối tác đầu tư nước ngoài và không có lợi nhuận.
- Thành lập doanh nghiệp liên doanh ( DNLD ) giữa các nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên
thế giới từ trước tới nay. Hình thức này cũng rất phát triển ở Việt Nam, nhất
là giai đoạn đầu thu hút FDI. DNLD là doanh nghiệp được thành lập tại nước
sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên nước chủ nhà
với Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước sở tại Như
vậy, hình thức DNLD tạo nên pháp nhân đồng sở hữu nhưng địa điểm đầu tư
phải ở nước sở tại. Hiệu quả hoạt động của DNLD phụ thuộc rất lớn vào môi

trường kinh doanh của nước sở tại, bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, mức
độ hoàn thiện pháp luật, trình độ của các đối tác liên doanh của nước sở tại...
Hình thức DNLD có những ưu điểm là góp phần giải quyết tình trạng thiếu
vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế nhưng lại
được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm;
tạo cơ hội cho người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý của
nước ngoài; Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc kiểm soát được
đối tác nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công cụ để thâm
nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả, tạo thị trường
mới, góp phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội nhập vào nền kinh
tế quốc tế. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ xuất hiện
mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể có sự
khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa,


Nhóm 3 KH13 KT

ngôn ngữ, luật pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp vốn
thấp, năng lực, trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong DNLD yếu.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC). Hợp đồng
hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp
tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập
pháp nhân Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu
vốn, công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của
nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là
nước sở tại không tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý; công nghệ thường lạc
hậu; chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời như thăm dò dầu
khí. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân riêng
và mọi hoạt động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở tại. Do đó, về
phía nhà đầu tư, họ rất khó kiểm soát hiệu quả các hoạt động BCC. Tuy

nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất, không đòi hỏi thủ tục pháp lý rườm rà
nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi các nước đang phát triển
bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức 100% vốn hoặc liên
doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh.
- Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT BOT là hình thức đầu tư được
thực hiện theo hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong
một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn
công trình đó cho Nhà nước Việt Nam BTO và BT là các hình thức phái sinh
của BOT, theo đó quy trình đầu tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật
tự. Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ bản: một bên ký kết phải là
Nhà nước; lĩnh vực đầu tư là các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá,
cầu, cảng, sân bay, bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...; bắt buộc đến
thời hạn phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước. Ưu điểm của hình
thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết cấu hạ tầng, đòi hỏi lượng
vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, làm giảm áp lực vốn cho ngân sách
nhà nước. Đồng thời, nước sở tại sau khi chuyển giao có được những công
trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện phát huy các nguồn lực khác để phát triển kinh


Nhóm 3 KH13 KT

tế. Tuy nhiên, hình thức BOT có nhược điểm là độ rủi ro cao, đặc biệt là rủi
ro chính sách; nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ.
- Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp Đây là hình
thức thể hiện kênh đầu tư Cross - border M & As đã nêu ở trên. Khi thị
trường chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư gián tiếp (FPI) được khai
thông, nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh
nghiệp ở nước sở tại, nhiều nhà đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này. Ở
đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu tư nước

ngoài mua - ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu tư nước
ngoài tham gia mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán nước sở
tại, họ tạo nên kênh đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy nhiên, khi tỷ lệ sở
hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó cho phép họ có quyền tham gia quản
lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI. Luật pháp Hoa Kỳ và nhiều
nước phát triển quy định tỷ lệ ranh giới này là 10%. Đối với Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, tỷ lệ này được quy định là 30%. Hình thức mua cổ phần
hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu điểm cơ bản là để thu hút vốn và có
thể thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt động của những doanh nghiệp bên
bờ vực phá sản. Nhược điểm cơ bản là dễ gây tác động đến sự ổn định của thị
trường tài chính. Về phía nhà đầu tư, đây là hình thức giúp họ đa dạng hoá
hoạt động đầu tư tài chính, san sẻ rủi ro nhưng cũng là hình thức đòi hỏi thủ
tục pháp lý rắc rối hơn và thường bị ràng buộc, hạn chế từ phía nước chủ nhà.
Đầu tư gián tiếp:
- Nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức
sau đây:
+ Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
+ Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán;
+ Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
- Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có
giá khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp
theo quy định của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.


Nhóm 3 KH13 KT

Chương II
TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM.

I. Các chính sách của Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài.
Việc đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế cùng với các xu hướng mới của
dòng vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới đang đặt ra yêu cầu Việt Nam phải
đổi mới cơ chế, chính sách thu hút đầu tư Thay đổi chính sách thu hút đầu tư
Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2006 đánh dấu
bước ngoặt lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Các
dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng đột biến, nhất là nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Năm 2007, lượng vốn FDI đăng ký đạt
21,348 tỷ USD, tăng gần 80% so với năm 2006 (năm 2006 đạt 12,044 tỷ
USD), và đạt mức kỷ lục gần 72 tỷ USD vào năm 2008. Tuy nhiên, sau đó
lượng FDI lại liên tục giảm: năm 2009 đạt 23,107 tỷ USD; 2010 đạt 19,764 tỷ
USD; 2011 đạt 14,696 tỷ USD; năm 2012 đạt 16,3 tỷ USD; năm 2013 đạt
21,6 tỷ USD.Bên cạnh đó,nước ta tham gia kí kết hợp tác với EU , Hoa Kì,
tham gia TPP,ASEAN… Sửa đổi ,bổ sung Luật Đầu Tư và Luật Doanh
nghiệp phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế thị trường hiện nay.
Những kết quả thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định môi trường kinh
doanh Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể trong những năm qua. Tuy nhiên,
trước bối cảnh sự cạnh tranh mạnh mẽ trong thu hút đầu tư giữa các quốc gia,
Việt Nam cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách, tạo môi trường
kinh doanh hấp dẫn.


Nhóm 3 KH13 KT

1. So sánh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài hiện hành của Việt
Nam với một số nước.
So với những thời kỳ trước đây, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của
Việt Nam hiện đã trở nên thông thoáng hơn, thuận lợi hơn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài. So sánh một vài chính sách ưu đãi chủ yếu đối với nhà đầu tư

nước ngoài tại một số nước trong khu vực và các nước có nền kinh tế chuyển
đổi, qua đó, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, về nguyên tắc, các chính sách ưu đãi của Việt Nam đối với
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài là tương đối cạnh tranh so với một số nước
về một số mặt như hình thức đầu tư, thủ tục cấp phép. Mặc dù vậy, so với một
số nước chuyển đổi và trong khu vực như Balan, Hungary, Cộng Hòa Séc,
Thái lan, Philippin, Inđônexia thì mức độ ưu đãi của Việt Nam và Trung
Quốc về những mặt này vẫn còn thấp;
Thứ hai, so với các nước khác trong khu vực và các nước đang chuyển
đổi thì nhà đầu tư nước ngoài khi vào Việt Nam vẫn gặp phải những khó khăn
nhất định trong thời kỳ “hậu giấy phép đầu tư”, nhất là vấn đềđất đai, giải
phóng mặt bằng để thực hiện dự án. trường hợp nếu đầu tư vào khu công
nghiệp, khu chế xuất). Trong nhiều trường hợp làm kéo dài thời gian chuẩn bị
và xây dựng, làm chậm trễ thời điểm dự án bắt đầu đi vào sản xuất, và làm
mất thời cơ của nhà đầu tư.
Thứ ba, khu vực ngân hàng còn kém phát triển, đồng tiền chưa chuyển
đổi, chính sách tiền tệ và những qui định về quản lý ngoại hối hiện nay của
Việt Nam là những yếu tố chưa thuận tiện cho các nhà đầu tư, kém cạnh tranh
hơn so với các nước trong khu vực và đang chuyển đổi.
Thứ tư, so với hơn một thập kỷ trước, môi trường đầu Việt Nam đã
được hoàn thiện hơn theo hướng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn kinh doanh trên đất nước Việt Nam. Tuy hệ
thống luật pháp, chính sách liên quan tới hoạt động đầu tư nước ngòa tại Việt
Nam đã được bổ sung, hoàn thiện trong những năm qua song vẫn còn thiếu
tính đồng bộ và hay thay đổi, còn thiếu minh bạch và khó dự đoán trước.
Một điều tra gần đây đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam cho thấy chính sách đối với đầu tư nước ngoài hiện tại của Việt


Nhóm 3 KH13 KT


Nam vẫn đang tạo ra những rào cản bất hợp lý, gây khó khăn cho các nhà đầu
tư. Cụ thể là, những qui định về hạn chế ngành nghề cho phép đầu tư nước
ngoài đầu tư, việc bổ sung danh mục đầu tư nước ngoài có điều kiện, áp đặt tỷ
lệ xuất khẩu đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nâng giá đất và
giá đền bù giải toả đang là những yếu tố làm tăng tính bất ổn định trong chính
sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Đó cũng là yếu điểm về chính sách của
Việt Nam so với một số nước khác.
2.Một số tồn tại trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam:
Thứ nhất, Có 2 quan điểm trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trựctiếp nước ngoài về
mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư, quan
điểm thứ hai cho rằng đã đến lúc chúng ta phải tăng thu hút đầu tư nước ngoài
về mặt chất lượng, ưu đãi đối với những lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao,
những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ
biến, hầu như các tỉnh, thành phố đều tập trung mọi cố gắng thu hút đầu tư
nước ngoài vào địa bàn của mình bất kể ngành nào, sản phẩm gì, vì vậy đầu
tư nước ngoài quá tập trung vào các ngành chế biến lương thực - thực phẩm:
rượu, bia, nước giải khát, các ngành sản xuất tiêu dùng, chưa có sự đầu tư
thích đáng vào ngành sản xuất tư liệu sản xuất, chỉ đầu tư lắp ráp cơ khí điện
tử.
Cần chú trọng phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, song điều đó
không có nghĩa là không chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển
các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp nặng để đảm bảo sản xuất
hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Bài học quan trọng nhất của các nước NIC trong những năm qua là
phải xây dựng được một cơ cấu sản phẩm hợp lý, một cơ cấu sản phẩm phải
tự sản xuất các tư liệu sản xuất cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế, tập trung thu
hút đầu tư nước ngoài vào các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật, vốn cao do

các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động mất khả năng cạnh
tranh quốc tế, sức lao động không còn là lợi thế nữa.


Nhóm 3 KH13 KT

Cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng tỉnh và khu công
nghiệp mà vừa qua chúng ta còn chưa có. Trước hết cần coi trọng và nâng cao
hiệu quả đầu tư nước ngoài dựa trên lợi thế của từng tỉnh và khu công nghiệp.
Đối với một số vùng cần nêu bật định hướng thu hút đầu tư nước ngoài vào
một số ngành, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp có
hàm lượng khoa học và vốn cao, các ngành hỗ trợ và liên quan.
Thứ hai, Chính sách nội địa hoá chưa thoả đáng. Đáng lẽ cần phải tăng
cường nội địa hoá thì chính sách của Việt Nam còn chưa chú trọng, chính vì
lẽ đó đã làm cho sản phẩm của FDI ở Việt Nam đắt hơn ở Thái Lan và các
nước khác. Ví dụ: chính sách nội địa hoá của ta đối với ngành công nghiệp ô
tô, xe máy ít tham vọng hơn các quốc gia khác trong ASEAN như Thái Lan,
Malaysia… Đối với việc lắp ráp hoàn tất, Việt Nam đòi hỏi 5% vào năm thứ
5, là 30% vào năm thứ 10, Thái Lan đòi hỏi 60% vào năm thứ 5. Chính sách
đó ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các
ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ
tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, giảm khả
năng cạnh tranh.
Chính sách nội địa hoá của ta cần phải tích cực hơn và phải được giải
quyết từ đầu từ gốc, thể hiện khi duyệt các dự án đầu tư nước ngoài và quy
định thời gian nội địa hoá ngắn. Vừa qua Bộ Tài chính đưa ra chính sách tỷ lệ
nội địa hoá càng cao, thuế suất càng giảm. Tỷ lệ nội địa hoá trên 65 - 80% thì
thuế nhập khẩu phụ tùng chỉ còn 5-7% và trên 80% thì thuế nhập khẩu chỉ còn
3-5%; 40% thì thuế nhập khẩu linh kiện là 15%. Khuyến khích nội địa hóa
trong khi chính sách nội địa hoá đối với đầu tư nước ngoài đưa ra tỷ lệ thấp,

mặt khác năng lực sản xuất phụ tùng, máy móc để lắp ráp xe máy của doanh
nghiệp trong nước còn yếu, giá thành cao thì cũng vẫn chỉ tiếp tục làm nẩy
sinh gian lận.
Thứ ba, Việt Nam không có chính sách chuyển giao công nghệ như các
nước Trung Quốc, Hàn Quốc… Vì vậy sau 10 năm nước ta có nhiều hãng ô tô
nổi tiếng thế giới đầu tư nhưng các chuyên gia này kêu rằng có lẽ Việt Nam
vĩnh viễn sẽ không có ngành công nghiệp ô tô phải đạt tỷ lệ nội địa hoá 40%,
giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn là do tỷ lệ nội


Nhóm 3 KH13 KT

địa hoá quá thấp, đến nay tỷ lệ nội địa hoá của các doanh nghiệp ô tô từ 210%. Tham gia WTO năm 2005 nếu không đạt tỷ lệ nội địa hoá thấp nhất là
20% thì công nghiệp ô tô Việt Nam sẽ khó có.
Cần phải có chính sách chuyển giao công nghệ đối với các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài, nếu không chúng ta sẽ chỉ là một thị trường tiêu thụ
khổng lồ với dân số 80 triệu dân cho các nước.
Thứ tư, Chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào Việt Nam còn
quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng
các nhà đầu tư. Theo JETRO Nhật Bản cho biết cước phí viễn thông, chi phí
lưu thông giao nhận, điện… hiện nay tại Việt Nam quá cao. Cước điện thoại
quốc tế của Việt Nam cao gấp khoảng 7 lần so với Singapore, gần 6 lần so với
Malaysia, 4 lần so với Jakarta, Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Chi
phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng container thì cao gần gấp 3 lần so với
Singapore, khoảng 2,5 lần so với Kuala Lumpur, khoảng 2 lần so với Jakarta,
Thượng Hải. Các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển
và sân bay quá cao. Có 12 loại phí và lệ phí bất hợp lý mà doanh nghiệp phải
nộp như phí lưu kho sân bay 1.200đ/kg, phí an ninh 230đ/kg, phí lao vụ 0,06
USD/kg, phụ phí xăng dầu 30USD/container 20 feet, 60USD/container 40
feet, hàng lẻ 2,5USD/m3, phí nâng hạ 300.000 -360.00đ/container 20 feet, thu

phí đường bộ 80.000đ/lượt đối với xe tải 18 tấn trở lên. Giá điện cao hơn
50%, giá nước cao hơn 71% so với ASEAN, Trung Quốc.
Để giảm chi phí đầu vào, mà hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà
nước nắm, cần ngăn chặn việc biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền
doanh nghiệp đối với doanh nghiệp Nhà nước. Cần xây dựng Luật cạnh tranh
và nhanh chóng thông qua.
Thứ năm,Chi phí cho đất đai ngày càng tăng. Từ 1996 trở lại đây thị
trường kinh doanh đất sôi động. Đất đai ngày càng giá cao. Giá đất lớn, đền
bù lớn, giá san lấp mặt bằng lớn. Giá cả đất đai của thành phố ở Việt Nam cao
hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất TP. Hồ Chí Minh gấp 4-6 lần
Trung Quốc, 6 lần so với Thái Lan. Tình hình này ảnh hưởng lớn đến thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài.


Nhóm 3 KH13 KT

Chính phủ cần kiểm soát chặt thị trường bất động sản do thị trường bất
động sản là một thị trường không hoàn hảo, dễ dẫn đến những độc quyền
trong cạnh tranh, tạo nên cơn sốt giá, nâng giá đất giả tạo, làm cho chi phí đầu
tư của đầu tư nước ngoài vào nước ta cao hơn so với các nước trong khu vực.
Thứ sáu: Ngoài ra quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu
kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói Chính phủ
Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất
nhất không nhất quán. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho thu hút
đầu tư nước ngoài của ta giảm. Bài học Trung Quốc là trước cho, sau lấy có
tính làm ăn lâu dài là những kinh nghiệm trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, nguyên nhân chủ yếu khiến môi trường đầu tư Việt Nam giảm
thu hút đầu tư nước ngoài là do giá đầu vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật
liệu còn cao nhất tại khu vực ASEAN. Ngoài ra môi trường đầu tư Việt Nam
thiếu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không nhất quán và không minh bạch.

3.Kiến nghị chính sách
Thứ 1, Tiếp tục đổi mới tư duy và đổi mới cách tiếp cận trong xây dựng
chính sách đầu tư nước ngoài cho giai đoạn tới.
Bên cạnh công nhận khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận
cấu thành của nền kinh tế, thì việc thực hiện các cam kết về hội nhập và điều
chỉnh luật lệ cho phù hợp với qui định và nguyên tắc cuả WTO sẽ ảnh hưởng
tích cực tới thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vì vậy cần tính đến bối cảnh toàn cầu hóa và cần
được xây dựng trên cơ sở xác định rõ các mục tiêu trung và dài hạn để có
những giải pháp mang tính kết hợp và có tính chuyển tiếp, hỗ trợ cho nhau. Ví
dụ, trong giai đoạn tới, thu hút đầu tư nước ngoài về chiều rộng cần
được tiếp tục (do nhiều lý do khác nhau). Nhưng về lâu dài, để thu hút các
nhà đầu tư lớn Việt Nam cần chuẩn bị nâng cao năng lực theo nghĩa rộng như
cải thiện môi trường đầu tư, tăng trình độ của lực lượng lao động, tăng năng
lực về R&D …Đểđạt mục tiêu này thì cần có thực hiện ngay từ bây giờ.
Chính sách đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới vẫn chú trọng thu hút
về số lượng vốn đầu tư, nhưng đồng thời cần nhấn mạnh hơn nữa tác động


Nhóm 3 KH13 KT

tràn tích cực (hay tác động lan tỏa) của vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
thông qua bốn kênh đã phân tích trong Nghiên cứu.
Tiếp tục mở rộng hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài và ở trong
nước, tạo môi trường cho trao đổi thông tin giữa các nhà đầu tư trong và
ngoài nước, giữa các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ
quan liên quan.
Thứ 2, Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng sự hấp dẫn cho các
nhà đầu tư nước ngoài để có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực
về thu hút FDI,FPI.

Trong bối cảnh toàn cấu hóa, áp lực cạnh tranh sẽ không giảm mà còn
tăng. So với các nước trong khu vực, môi trường đầu tư của Việt Nam đang
kém cạnh tranh hơn. Vì vậy, cải thiện môi trường đầu tư là hết sức quan trọng
và cần thiết. Việc đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư nhằm mục đích chính
là lợi nhuận. Vì vậy, ởđâu có điều kiện thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn, chi
phí đầu tư và kinh doanh thấp hơn cho đầu tư hiệu quả (lợi nhuận)
sẽ thu hút FDI,FPI nhiều hơn. Về phía nước sở tại, khía cạnh tạo việc làm, tạo
môi trường cho chuyển giao công nghệ và tạo sựổn định cho kinh doanh lâu
dài của các nhà đầu tư nước ngoài cũng là mục tiêu của cải thiện môi trường
đầu tư. Nghiên cứu cho rằng các chính sách cần tập trung vào ba vấn đề.
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Trước hết cần nhanh chóng xóa bỏ sự phân biệt đối
xử và tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp nhằm giảm thiểu rủi
ro (xuất hiện do thay đổi chính sách,do bất ổn vĩ mô, do không đảm bảo
quyền sở hữu, do tính thực thi hợp đồng kém …Đồng thời giảm thiểu các rào
cản đối với cạnh tranh bằng cách đơn giản hóa các thủ tục gia nhập thị trường
và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp rút khỏi thị trường với chi phí
giao dịch và chi phí cơ hội thấp nhất.Nhanh chóng triển khai thực hiện Luật
cạnh tranh có hiệu lực từ 1/7/2005 và thực hiện chính sách cạnh tranh thay
cho chính sách bảo hộ tràn lan trước đây.
- Nhanh chóng hoàn thiện thị trường các nhân tố sản xuất, trước hết là
thị trường vốn, thị trường lao động và thị trường bất động sản. Các nhà đầu tư
nước ngoài thường đến từ các nước có nền kinh tế thị trường và các thị trường


Nhóm 3 KH13 KT

nhân tố vận hành khá hiệu quả. Tức là, khả năng tiếp cận các nhân tố sản xuất
là dễ dàng và có thể sử dụng linh hoạt xét về phạm vi giá cả, không gian và
thời gian. Sự kém phát triển của các thị trường này ở Việt Nam đang là một

yếu điểm lớn và là một nguyên nhân đẩy chi phí sản xuất lên cao và giảm cơ
hội tận đụng thời cơ kinh doanh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là ở cấp địa phương gắn với quá
trình phân cấp quản lý Nhà nước nói chung và quản lý đầu tư nói riêng. Phân
cấp cần đi đối với trách nhiệm rõ ràng của từng cá nhân trên cơ sở lấy lợi ích
chung của xã hội làm căn cứ để đánh giá. Điều đó có nghĩa là, phân cấp
không chỉ là việc trao quyền chủđộng ra quyết định theo đúng với thẩm quyền
nhà nước quy định, mà cần đánh giá tác động đích thực của việc ra quyết định
đầu tư sau khi dự án đi vào hoạt động (ví dụđối với tạo việc làm, đóng góp
vào tăng giá trị sản lượng và giá trị gia tăng cho địa phương .. . Ở cấp địa
phương cần có chính sách nhanh chóng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ.
Thứ 3, Tạo cơ hội cho xuất hiện tác động tràn và tăng khả năng hấp th
ụ các tác động tràn tích cực của FDI cho các doanh nghiệp trong
nước( DNNN).
- Thay vì khuyến khích thu hút FDI vào một số ngành như hiện nay, có
lẽ nên quy định một số lĩnh vực cấm đầu tư và cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào các lĩnh vực còn lại. Nhanh chóng thực hiện chương trình cổ
phần hóa DNNN, tạo cơ hội và mở cửa hơn nữa cho sự gia nhập thị trường
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trong nước trong một số ngành mà hiện nay vẫn do DNNN chủ yếu
nắm giữ. Đồng thời thực hiện tốt cam kết về giảm thuế quan và hàng rào phi
thuế quan theo lộ trình hội nhập và tiến trình tự do hóa thương mại, qua đó
tạo áp lực về cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp và giảm thiểu mức độ
bảo hộđối với một số ngành đang được ưu đãi. Các biện pháp trên đây sẽ làm
giảm mức độ tập trung của FDI vào một số ngành sản xuất thay thế nhập
khẩu, thu hút nguồn vốn này vào tất cả các ngành, qua đó tạo cơ hội để có
được tác động lan tỏa cho các doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế.



Nhóm 3 KH13 KT

- Tiếp tục phân cấp việc ra quyết định cấp phép đầu tư và tăng qui mô
dự án mà các cấp tương ứng được quyết định. Thay đổi này có thể tác động
ngay tới qui mô dự án và tăng tốc độ giải ngân, đồng thời tạo kích thích đẩy
nhanh cải cách hành chính nói chung và ở các tỉnh/thành phố nói riêng.
Nhưđã nêu ở trên, phân cấp cần gắn với trách nhiệm cá nhân và đánh giá
thông qua hiệu quả kinh tế-xã hội đích thực của các dự án.
- Khuyến khích thu hút FDI vào các vùng ngoài các trung tâm công
nghiệp và đô thị lớn, trước hết nhằm giãn bớt mức độ tập trung cao ở các
vùng này. Một mặt tiếp tục đẩy mạnh phân cấp nhưđã nêu ở trên, mặt khác
cần có chính sách hỗ trợ các tỉnh trong xúc tiến đầu tư, nhanh chóng đào tạo
nguồn nhân lực đểđáp ứng cầu về lao động quản lý và công nhân có tay nghề.
Trong giai đoạn tới, ưu thế sẽ thuộc về các tỉnh lân cận, tiếp giáp các trung
tâm tập trung FDI. Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng vì vậy có thể ưu tiên
hơn cho các tỉnh này, tạo một vành đai xung quang các thành phố lớn để mở
rộng dần phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp FDI về mặt địa lý.
- Kết quả phân tích định lượng về tác động tràn cho thấy bằng chứng về
tác động tràn tích cực của FDI đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kể cả
DNNN. Do vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh chính sách phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, đồng thời có biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp này tạo mối liên
kết sản xuất với các doanh nghiệp FDI trong từng nhóm ngành. Nhà nước
cũng cần hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng năng lực để có thể tự học
hỏi, tiếp thu công nghệ mới và chuyển giao công nghệ từđối tác liên kết sản
xuất. Các biện pháp hay được thực hiện trên thế giới là cung cấp thông tin
miễn phí hoặc phí rất thấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ
chức các cuộc gặp gỡ để các doanh nghiệp có thể trao đổi trực tiếp với
nhau, tổ chức các lớp bồi dường, đào tạo cán bộ làm việc trong các doanh
nghiệp này.
- Tăng năng lực về R&D của doanh nghiệp trong nước để tăng khả năng

hấp thụ công nghệ mới và thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua nhiếu
biện pháp, ví dụ Nhà nước hỗ trợ đào tạo cán bộ R&D của doanh nghiệp bằng
cách tài trợ các chương trình trao đổi chuyên gia giữa các viện nghiên cứu,
trường đại học … và doanh nghiệp; thực hiện các chương trình nghiên cứu


Nhóm 3 KH13 KT

(ngành, sản phẩm mới) có sự tham gia và đồng tài trợ của các bên cùng hưởng
lợi.
- Nâng nhanh tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của cả nền kinh tế nói chung
và của lao động trong các doanh nghiệp trong nước nói riêng để tăng khả
năng đón nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật mới.
Thứ 4, Thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút các công ty đa
quốc gia lớn có tiềm năng về công nghệ và tận dụng tối đa thế mạnh về R&D
của các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
- Nhanh chóng cải cách các tổ chức R&D của nhà nước nhằm tăng
năng lực của các tổ chức này, kể cả nhân lực sao cho đủ khả năng tiếp thu
kiến thức và tiến bộ công nghệ mới. - Một mặt luôn cập nhập, phân tích và xử
lý thông tin về các công ty lớn, nhất là công ty có khả năng về R&D hàng đầu
trên thế giới, cũng như nghiên cứu chiến lược/kế hoạch về chuyển giao công
nghệ, về phạm vi hoạt động và vềđổi mới công nghệ của các công ty này.
Việc này cần khuyến khích các tổ chức/doanh nghiệp quan tâm, nhưng cũng
cần giao cho một cơ quan nhất định để theo dõi và phân tích có hệ thống.
Đồng thời cần học tập kinh nghiệm của các nước về thu hút các công ty nước
ngoài có tiềm năng về công nghệ.
- Triển khai thực hiện nhanh Luật sở hữu trí tuệ và thực hiện nghiêm
túc quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ bản quyền theo thông lệ quốc tế.
- Để thu hút các công ty lớn có tiềm lực về công nghệ và khuyến khích
chuyển giao công nghệ, ngoài môi trường đầu tư chung đủ tạo lòng tin cho

các nhà đầu tư cũng nên có chính sách ưu đãi đầu tư. Cách tiếp cận ởđây là
không áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư tràn lan, mà ngược lại chỉ nên tập
trung vào một vài lĩnh vực thỏa mãn các điều kiện được hưởng các ưu đãi
này. Nhà nước cần đảm bảo việc thực hiện các chính sách ưu đãi, nhằm giảm
thiểu chi phí giao dịch liên quan. Có nhiều biện pháp có thể áp dụng nhưưu
đãi về thuế, về cơ sở hạ tầng (đất đai và các dịch vụ cung cấp cơ sở hạ tầng),
chính sách ưu đãi liên quan đến lao động (thuế thu nhập cá nhân).
- Rà sóat và đánh giá việc thực hiện các chính sách liên quan đến
chuyển giao công nghệ trong giai đoạn vừa qua để rút ra các bài học về thành
công và thất bại. Hiện nay Việt Nam đã có nhiều chính sách khuyến khích


×