Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tìm hiểu Khu đặc khu kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.9 KB, 16 trang )

MỤC LỤC:
I.Tìm hiểu về khu Đặc Khu kinh tế.
1.Khái niệm Khu Đặc khu kinh tế và một vài nét khái quát.
2. Kinh nghiệm phát triển các đặc khu kinh tế và xu hướng ở Việt Nam.
2.1: Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở một số nước và gợi ý cho Việt Nam
a.Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở một số nước.
b. Nhận xét về đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt ở các nước.
c. Những tiền đề và sự cần thiết tổ chức đơn vị hành chính đặc biệt ở Việt Nam.
d.Kiến nghị
2.2. Vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với đặc khu kinh tế nước ta, kinh nghiệm từ nước Trung
Quốc.
2.3: Việc xây dựng Dự án Luật hành chính – kinh tế đặc biệt với định hướng nhằm tạo khung
pháp lý cho việc hình thành các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt .
II. Vân Đồn: Hướng tới khu hành chính - kinh tế đặc biệt.
1.Từ tiềm năng phát triển kinh tế.
2. Định hướng hình thành Khu hành chính - kinh tế đặc biệt.
3.Quyết tâm tìm mô hình phát triển đột phá
4.Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn, Quảng Ninh 2020 đến 2030.
III. Kết luận.
1: Khái niệm khu đặc khu kinh tế và một vài nét khái quát:
Đặc khu kinh tế (hay còn gọi khu kinh tế đặc biệt) là mô hình phát triển cao hơn dựa trên mô
hình khu kinh tế cơ bản với các đặc trưng là có không gian riêng biệt, có môi trường đầu tư và
kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ngày nay, các đặc khu kinh tế được hình thành
trong cả các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế chậm phát triển. Ước tính rằng, hiện có tới
3.000 đặc khu kinh tế như vậy ở 116 nền kinh tế với khoảng 43 triệu người làm việc trong đó.


Sự phát triển của các đặc khu kinh tế không chỉ đơn thuần vì lý do kinh tế của riêng khu vực
đó, mà có ý nghĩa to lớn hơn nhiều. Đó là lợi ích chung của cả nền kinh tế ở góc độ tạo công ăn
việc làm, thu hút các nguồn lực phát triển, mở rộng xuất khẩu, chuyển giao công nghệ và tri thức
quản lý, phát triển tổng hợp vùng. Tinh thần chung của các chính sách đặc thù cho đặc khu kinh


tế là giảm thiểu mọi hàng rào ngăn cản các dòng di chuyển của các nguồn lực và đủ hấp dẫn các
nhà đầu tư. Thể hiện ở một số nét chủ yếu như: Giảm thiểu thuế quan, tự do trung chuyển hàng
hóa; đơn giản hóa các thủ tục thành lập doanh nghiệp; đơn giản hóa các thủ tục hải quan; áp
dụng cách chính sách khuyến khích về tài chính; tự do hóa các dòng chảy vốn đầu tư, lợi nhuận;
tạo thuận lợi trong việc sử dụng kết cấu hạ tầng…
Tuy nhiên, mức độ thành công của các đặc khu kinh tế này không phải như nhau. Phần lớn các
đặc khu kinh tế có tên tuổi trên thế giới đều nằm ở các vị trí ven biển hoặc những giao điểm giao
thông lớn, gồm cả đường thủy, đường bộ, đường sắt và đường hàng không. Chính không gian
kinh tế này tạo ra “độ mở” cần thiết để các đặc khu kinh tế phát triển. Nhìn chung, các khu kinh
tế thành công đều có các đặc điểm là chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2. Kinh nghiệm phát triển các đặc khu kinh tế và xu hướng ở Việt Nam.
2.1: Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở một số nước và gợi ý cho Việt Nam.
a.: Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở một số nước
Ở một số nước Trong các nhà nước dân chủ, việc quản trị địa phương bất luận theo nguyên tắc tự
quản địa phương hay không, đa số các quốc gia có tổ chức các đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt (HCKTĐB) , ngoài các đơn vị hành chính lãnh thổ, thường với mục đích cơ bản là để phát
huy tiềm năng phát triển kinh tế xã hội tại các đơn vị đó.
Đơn vị HCKTĐB được tổ chức khi các quốc gia giành được chủ quyền, thiết lập chế độ dân
chủ và vận hành nền kinh tế thị trường, khi đó các nhà nước luôn tìm cách xác định và tận dụng
mọi ưu thế về tiềm năng phát triển kinh tế xã hội của mỗi khu vực khác nhau trong một quốc gia
và về cơ bản, đơn vị HCKTĐB được tổ chức tại những nơi có nhiều tiềm năng phát triển nhất
của đất nước.
Đơn vị HCKTĐB được tổ chức chủ yếu ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ… nơi mà các quốc gia
có nền kinh tế thị trường phát triển và điều kiện tự nhiên, xã hội trong lãnh thổ quốc gia phong
phú, đa dạng, nên việc tổ chức các đơn vị HCKTĐB khác với đơn vị hành chính thông thường
được chú trọng.
Hầu như không lệ thuộc vào chế độ chính trị và hình thức nhà nước dân chủ, đa số các quốc
gia đều tổ chức mô hình đơn vị HCKTĐB, song mức độ chi tiết hóa của từng đơn vị trong từng
quốc gia có khác nhau. Các đơn vị HCKTĐB có thể là Khu kinh tế, Đặc khu hành chính, Khu
đặc biệt… tùy từng quốc gia có sự đa dạng về điều kiện địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội…

mà việc chọn tổ chức từng mô hình riêng cho phù hợp.


-Mô hình Khu kinh tế (hoặc có tính chất như vậy) là phổ biến nhất, có thể kể ra một số đơn vị
HCKTĐB cơ bản của một số quốc gia như: Ấn Độ có Khu kinh tế đặc biệt Visakhapatnam,
Kandla, Cochin, Indore, SEEPZ, Jaipur, Madras, Mahindra City, Chennai, Noida; Belarus có
Khu kinh tế tự do Brest; Brasil: Khu kinh tế tự do Zona Franca de Manaus; Bulgaria: Burgas;
Chile: Iquique;…
Một số trường hợp khác ít phổ biến hơn như sau:
- Các khu đặc biệt của Tokyo là tên gọi chung của 23 khu đặc biệt nằm ở trung tâm thủ đô
Tokyo. Căn cứ theo pháp luật Nhật Bản, đặc biệt khu thuộc đơn vị hành chính cấp 3 của Nhật
Bản, nhưng giữa nó và đơn vị hành chính cấp một không được lập quận hoặc thành phố. Các khu
đặc biệt của Tokyo là những đơn vị hành chính thực sự (có bộ máy hành chính). Chúng được gọi
là các khu đặc biệt để phân biệt với các khu nhưng lại không phải là đơn vị hành chính thực sự
thường thấy ở các thành phố cấp quốc gia ở Nhật. Theo Luật Tự trị Địa phương của Nhật Bản,
các khu này được gọi là “khu của thủ đô”. Trong mắt người Tokyo, mỗi khu này nhưlà một
thành phố. Người nước ngoài dùng từ tiếng Anh ward để chỉ các khu này, song trụ sở chính
quyền khu vẫn được gọi là city hall. Các đặc biệt khu tập trung ởphía Đông của Tokyo. Đến
tháng 12/2006, tổng dân số của cả 23 khu lên tới trên 8,5 triệu người, tổng diện tích là 621,49
km².
- Đặc khu Columbia của Hoa Kỳ: Đặc khu Columbia không phải là một tiểu bang và không
có đại diện có quyền biểu quyết tại Quốc hội Hoa Kỳ, nhưng cư dân của đặc khu có thể tham gia
bầu cử tổng thống Hoa Kỳ và có ba phiếu đại cử tri. Đặc khu này nằm dưới quyền trực tiếp của
Quốc hội Hoa Kỳ, được thành lập từ phần đất nhượng lại của các tiểu bang Maryland và Virginia
cho chính phủ liên bang. Tuy nhiên phần đất của Virginia đã được trả lại cho tiểu bang vào năm
1846. Quốc hội Hoa Kỳ có đặc quyền thực hiện chủ quyền đối với Đặc khu này. Tuy nhiên Đạo
luật Tự trị Đặc khu Columbia đã trao quyền tự trị có giới hạn cho thành phố trong đó có việc bầu
lên một thị trưởng và một hội đồng thành phố.
- Những khu dành riêng cho người bản thổ Mỹ (American Indian reservation) là đơn vị hành
chính đặc biệt và riêng biệt của Hoa Kỳ. Theo luật liên bang, các bộ lạc người bản thổ Mỹ là các

dân tộc có chủ quyền. Điều này có nghĩa là quyền pháp lý của họ tồn tại độc lập, không lệ thuộc
vào quyền pháp lý của chính phủ liên bang và chính quyền tiểu bang. Tuy nhiên, theo định nghĩa
về chủ quyền bộ lạc (tribal sovereignty) thì họ không thể hoạt động bên ngoài quyền lực của liên
bang mặc dù họ được miễn nhiễm đối với những luật lệ của tiểu bang. Cho đến cuối thế kỷ 19,
những thỏa thuận giữa chính phủ Hoa Kỳ và các nhóm người bản thổ Mỹ chỉ là những hiệp ước.
Những hiệp ước này hiện nay được xem là luật nội địa, bất kể tên của chúng là gì. Kể từ lúc
thông qua Đạo luật Dawes năm 1883, không có hiệp ước mới nào được thực hiện với người bản
thổ Mỹ.


- Tỉnh tự trị đặc biệt, được tổ chức tại Hàn Quốc (teukbyeol jachido ;đặc biệt tự trị đạo) là Jeju
(Tế Châu), và Thành phố đặc biệt (teukbyeolsi; đặc biệt thị): là Seoul (Hán Thành), Thành phố
này được chia ra thành các quận.
- Triều Tiên có các Đặc khu: Vùng công nghiệp Kaesŏng (Khai Thành), Vùng du lịch
Kŭmgangsan (Kim Cương Sơn) và Đặc khu hành chính Sinŭiju (Tân Nghĩa Châu). Các đặc khu
thì không được phân cấp hơn nữa, nghĩa là dưới chúng không có cấp hành chính nào cả.
- Thái Lan, có hai ngoại lệ, Bangkok vốn là một tỉnh, nhưng được nâng lên làm khu hành chính
thủ đô và Phuket - một thành phố cấp huyện. Chính quyền Bangkok và chính quyền Phuket được
phân công nhiều quyền hạn hơn các chính quyền địa phương đồng cấp. Thị trưởng Khu Hành
chính Thủ đô Bangkok và Thị trưởng thành phố Phuket được quyết định bằng hình thức bầu cử
phổ thông. Ngoài ra, Thái Lan đã nhất trí (với Campuchia) thiết lập hai vùng đặc khu kinh tế tại
khu vực biên giới chung (tại tỉnh Banteay Meanchey giáp tỉnh Sa Kaeo của Thái Lan, và tại tỉnh
Koh Kong của Campuchia tiếp giáp với tỉnh Trat của Thái Lan), nhằm thúc đẩy giao thương và
đầu tư, giúp nâng cao đời sống của người dân tại các khu vực này.
Tóm lại, có 3 mô hình đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt cơ bản sau:
 Khu kinh tế: Mô hình đặc khu kinh tế hiện được sự quan tâm của 135 nước với trên

3.500 khu kinh tế tự do
 Đặc khu hành chính: Hồng Kông, Ma Cao của Trung Quốc; Khai Thành, Kim Cương


Sơn, Tân Nghĩa Châu của Triều Tiên; Hòn Gai, Vũng Tàu - Côn Đảo của Việt Nam
trước đây... Loại mô hình này có diện tích, dân cư và tổ chức chính quyền đầy đủ.
 Khu đặc biệt: như 23 khu đặc biệt của Tokyo và Đặc khu Columbia của Hoa Kỳ… Loại
này tồn tại do yếu tố lịch sử và chính trị chi phối sự hình thành và phát triển của chúng.
b. Nhận xét về đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt ở các nước.
- Thứ nhất, sự đa dạng về tên gọi, trong đó “khu kinh tế tự do” là tên gọi phổ biến, còn một số
nước có thể gọi theo cách khác. Chẳng hạn, có thể gọi là “khu kinh tế đặc biệt” (hay đặc khu
kinh tế), “khu kinh tế mở”, “khu thương mại tự do”, hay thậm chí đơn giản chỉ là “khu kinh tế”,
“khu tự do”, “khu kinh tế cửa khẩu”, “đặc khu hành chính”… Có những khu kinh tế có thể
không mang tên gọi chính thức như một trong các tên gọi trên, nhưng vẫn có quy chế hoạt động
như một khu kinh tế tự do. Trong một khu kinh tế tự do có thể gồm nhiều khu chức năng như
khu vực phi thuế quan (khu vực bảo thuế), khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao,
các tiểu khu du lịch, nghỉ dưỡng, giải trí, dịch vụ...
- Thứ hai, đơn vị HCKTĐB thường khác với đơn vị hành chính thông thường về: diện tích, dân
số, trình độ phát triển kinh tế xã hội, tổ chức và thẩm quyền của cơ quan quản lý là đa dạng… và
phù hợp với đặc điểm từng đơn vị đó.
- Thứ ba, đơn vị HCKTĐB được tổ chức cho phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của
mỗi đơn vị và có xu hướng theo hai mục đích sau:


o
o

Khai thác tốt lợi thế tiềm năng phát triển của đơn vị đó hoặc
Phục vụ mục đích chủ quan của nhà quản lý muốn thúc đẩy một khu vực kém phát
triển.

- Thứ tư, thẩm quyền thành lập đơn vị HCKTĐB thường được Hiến pháp quy định và Luật cụ
thể hóa chi tiết trình tự, thủ tục thực hiện. Điều này cho thấy tầm quan trọng và mức độ minh
bạch của công việc này luôn được chú trọng ở tầm pháp lý cao nhất.

- Thứ năm, nhiều quốc gia đều lưu ý tổ chức chu đáo và nhanh chóng để quản trị quốc gia hiệu
quả, phát huy sự đặc thù về lợi thế tiềm năng phát triển của những vùng có tiềm năng trong đất
nước.
- Thứ sáu, loại đơn vị HCKTĐB được chọn để tổ chức phổ biến là cấp trực thuộc trung ương,
một số trường hợp là cấp thấp hơn, cá biệt có trường hợp là cấp “lưng chừng” như 22 khu đặc
biệt của Tokyo, Nhật Bản, không phải là Quận và cũng không trực thuộc Quận.
c. Những tiền đề và sự cần thiết tổ chức đơn vị hành chính đặc biệt ở Việt Nam
Hiến pháp năm 1992, Điều 84 đã quy định Quốc hội có quyền thành lập hoặc giải thể đơn vị
hành chính kinh tế đặc biệt. Tại Hiến pháp 2013 Điều 75(sửa đổi bổ sung điều 84 Hiến pháp
1992)-Quốc Hội có quyền thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính –kinh tế đặc biệt theo quy
đình của hiến pháp và luật.Tuy nhiên, do chưa được quy định thành luật, nên sau hơn 20 năm
chúng ta chưa có khu hành chính kinh tế đặc biệt nào. Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992, Điều 115 chương Chính quyền địa phương tiếp tục quy định đơn vị hành chính kinh tế đặc
biệt, đơn vị hành chính ở hải đảo do luật định.
-Tiền đề:
+Về khách quan, sự đa dạng về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên các vùng lãnh thổ của
nước ta cho thấy tiềm năng phát triển của một số địa phương cần được tập trung phát huy để tạo
bước đột phá cho các địa phương đó. Trước đây chúng ta đã từng có các đơn vị HCKTĐB (đặc
khu) với mục đích như vậy.
+Về chủ quan, cơ quan quản lý nhà nước đã có chủ đích và mong muốn từ trước đến nay; lãnh
đạo Đảng có quyết tâm về chính trị; Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 hiện nay cũng đã tiếp tục
thể hiện có thể tổ chức loại đơn vị HCKTĐB.
Có thể nói ở Việt Nam, “mô hình đơn vị hành chính kinh tế được đề cập tới vào cuối những
thập niên 80, 90 của thế kỷ trước và đã được đề cập trong rất nhiều văn kiện của Đảng, của Nhà
nước như Cương lĩnh xây dựng đất nước, như Hiến pháp 2013, Nghị quyết hội nghị giữa nhiệm
kỳ của Đảng khóa VII năm 1994 và Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ và các
quyết định của Chính phủ về thành lập khu kinh tế như Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu kinh tế
Dung Quất, Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái”.



-Sự cần thiết
+ Thứ nhất, thành lập các khu kinh tế là sự quán triệt và thực hiện quan điểm đổi mới của Đảng
ta về phương diện quản trị địa phương mà nền tảng đầu tiên là tổ chức đơn vị hành chính lãnh
thổ.
+ Thứ hai, để phát huy tối đa lợi thế tiềm năng phát triển đa dạng ở các vùng miền khác nhau của
đất nước. Hiện nay nước ta chưa tổ chức các đơn vị HCKTĐB nên phần nào tiềm năng phát triển
của nhiều vùng còn chưa được khai thác tốt nhất.
+ Thứ ba, để khắc phục những khiếm khuyết, bất hợp lý trong công tác quản lý nhà nước thời
gian qua. Thực tiễn quản trị một số địa phương thời gian qua đã bộc lộ những bất cập là nếu
quản lý với quan niệm tổ chức đơn vị hành chính thông thường thì sẽ: hoặc không phát huy
được tiềm năng, hoặc các địa phương vi phạm chuẩn mực quản lý chung của chính quyền trung
ương đặt ra.
+ Thứ tư, để tiến kịp với trình độ quản trị địa phương trong nhà nước pháp quyền - là xu hướng
chung của các nhà nước dân chủ trên thế giới.
d. Kiến nghị
- Một là, việc nghiên cứu chọn lựa mô hình đơn vị HCKTĐB nào cần chú ý ba tiêu chí cơ bản
sau:
 Ttiềm năng phát triển của địa phương;
 Đặc điểm mỗi mô hình đơn vị hành chính đặc biệt;
 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản trị địa phương.

Theo đó, đơn vị HCKTĐB nên là mô hình được chọn lựa để tổ chức.
-Hai là, cần khảo sát và tham khảo thấu đáo các mô hình đơn vị HCKTĐB của các nước. Đặc
biệt là cần chú ý các yếu tố: lịch sử, văn hóa, pháp lý, chính trị, trình độ quản trị quốc gia, điều
kiện kinh tế - xã hội… của các quốc gia đã chi phối tới việc tổ chức đơn vị hành chính đặc biệt
của các quốc gia đó ra sao, để từ đó, tìm kiếm sự tương đồng với Việt Nam, giúp chúng ta cân
nhắc lựa chọn mô hình (hoặc từng khía cạnh của mỗi mô hình) cho phù hợp.
- Ba là, về loại cấp đơn vị HCKTĐB: nên chọn loại đơn vị cấp trực thuộc trung ương. Cũng có
ý kiến cho rằng, nên có cả cấp trực thuộc cấp dưới cấp trung ương, nhưng theo chúng tôi, để tập
trung nguồn lực và khẳng định tính chất “đặc biệt” thì chỉ nên có ở cấp trực thuộc trung ương,

nếu không thì có khả năng mỗi tỉnh sẽ có vài đơn vị HCKTĐB thì tính đặc biệt sẽ biến mất.
- Bốn là, tổ chức đơn vị HCKTĐB nên chọn những địa bàn có sẵn tiềm năng, có lợi thế về địa
lý, tự nhiên vì chúng ta chưa đủ mạnh để có thể tập trung nguồn lực vào những nơi ít tiềm năng.
Hiện nay, các khu vực như Phú Quốc, Vân Đồn, Vân Phong… là những nơi mà chúng ta có thể
thực hiện được việc tổ chức đơn vị HCKTĐB


Ở Việt Nam, việc xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo các cực tăng trưởng và thử
nghiệm thể chế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tại Hội nghị Trung
ương 4 Khoá VIII (tháng 12/1997), ý tưởng xây dựng các khu kinh tế đã được đề xuất. Tuy
nhiên, đến năm 2002, chủ trương xây dựng thí điểm mô hình Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng
Nam) mới được quyết định. Từ đó, đã có 15 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích khoảng
54.000 ha được phát triển. Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đồng ý bổ sung thêm 3 khu kinh tế
ven biển vào quy hoạch. Như vậy, hiện có 18 khu kinh tế ven biển được phê duyệt trong quy
hoạch phát triển khu kinh tế ven biển của cả nước đến năm 2020 với tổng diện tích mặt đất và
mặt nước 730.553 ha (tương đương 7305,53 km2), bằng khoảng 2,2% tổng diện tích của cả
nước.
Kết luận số 74-KL/TW ngày 17/10/2013 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 Khóa XI đã
khẳng định: “Sớm xây dựng, phê duyệt, triển khai thực hiện một số đề án thành lập khu hành
chính - kinh tế đặc biệt..." . Ba đặc khu kinh tế tiêu biểu đầu tiên đã được lựa chọn bao gồm Vân
Đồn (Quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang). Tuy nhiên, ngoài ba khu
vực được lựa chọn ở trên, chúng ta cũng cần xác định rõ những vị trí có lợi thế địa kinh tế thuận
lợi nhất để xây dựng các đặc khu kinh tế khác. Những địa điểm tiềm năng và thích hợp có thể kể
đến là TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu (hình thành tuyến phát
triển ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam); Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải
Phòng, Quảng Ninh (tuyến phát triển phía Bắc); các tỉnh ven biển miền Trung (Phú Yên, Khánh
Hòa, Bình Định)...
Tại một cuộc hội thảo khoa học quốc tế về "Phát triển Đặc khu Kinh tế - Kinh nghiệm và Cơ
hội" diễn ra gần đây tại TP. Hạ Long, Quảng Ninh, ông Vương Đình Huệ, Ủy viên Trung ương
Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đã khẳng định: “Đặc khu kinh tế là nơi thử nghiệm các

thể chế, chính sách mới trước khi áp dụng cả nước, nhưng cho đến nay, ở Việt Nam chưa có đặc
khu nào được xây dựng theo đúng nghĩa của nó, dù Việt Nam có rất nhiều tiềm năng phát triển
kinh tế biển. Việc thành lập các khu kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra. Các khu kinh tế này đã đạt
được những kết quả nhất định về thu hút đầu tư, giải quyết việc làm, đóng góp đáng kể cho ngân
sách địa phương, nhưng vẫn chưa đạt được kỳ vọng. Thể chế ở các khu kinh tế này tuy có vượt
trội so với các khu công nghiệp, nhưng chỉ tập trung vào các ưu đãi về thuế, về tiền thuê đất, nên
so với các khu thương mại tự do trong khu vực và trên thế giới, nó vẫn còn thể hiện nhiều bất
cập và không đủ sức cạnh tranh. Điểm đáng nói ở các khu kinh tế hiện tại là cho đến nay, hầu
như chưa có những nhà đầu tư chiến lược nước ngoài thực hiện đầu tư ở các khu kinh tế này.
Một số nhà đầu tư đã thực hiện các dự án đầu tư lớn nhưng ít có dự án đầu tư với công nghệ hiện
đại..."
Cũng theo ông Vương Đình Huệ, để xây dựng thành công đặc khu kinh tế, các ngành chức
năng cần sớm xây dựng, thông qua Luật về Đặc khu kinh tế (hoặc Luật về Đặc khu hành chính kinh tế) đã có trong chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa XIII; đồng thời, xây
dựng, ban hành các thể chế hành chính và kinh tế của các đặc khu kinh tế cần phải hiện đại,


mang tầm quốc tế, có sức cạnh tranh vượt trội với các đặc khu khác đã hình thành trên thế giới.
Trong các thể chế, cơ chế, chính sách trọng dụng nhân tài phải được xem trọng.
Khảo cứu kinh nghiệm quốc tế đối với việc phát triển các đặc khu kinh tế, khu kinh tế tự do,
cũng cho thấy, sự thành công hay thất bại của các đặc khu kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào các
yếu tố trọng tâm như thể chế, cơ chế chính sách (đất đai, tài chính, ngân hàng, thuế, nhân lực...);
nền hành chính (tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính...). Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, ông
Đào Minh Tú, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng: "Một trong những yếu tố quan
trọng bảo đảm cho sự thành công của đặc khu kinh tế là vấn đề huy động nguồn lực và cơ chế
chính sách tài chính tiền tệ chuẩn bị cho sự phát triển cho mô hình đặc khu. Thiết nghĩ, chúng ta
cần học hỏi kinh nghiệm từ Đặc khu kinh tế Thâm Quyến, đồng thời sớm xác lập hành lang pháp
lý làm rõ về quyền lợi, quyền sở hữu, quyền định đoạt tài sản… của các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư nếu tham gia đầu tư vào đặc khu kinh tế ở Việt Nam".
Ông Ravni Thakur, Giáo sư Đại học DELHI Ấn Độ cho biết, kinh nghiệm quốc tế cho thấy
rằng, hầu hết các chính phủ đã đầu tư các khoản tiền cần thiết để tạo ra cơ sở hạ tầng khu vực và

cũng đã có trách nhiệm tiếp thị các khu vực này trên phạm vi quốc tế. Năm 2005, Luật Đặc khu
kinh tế của Ấn Độ đã vạch ra vai trò chủ chốt cho chính quyền nhà nước trong việc đẩy mạnh
xuất khẩu và tạo ra cơ sở hạ tầng có liên quan, đồng thời quy định các điều kiện thuận lợi nhất để
thu hút đầu tư. Cơ chế phê duyệt đặc khu kinh tế một cửa đã được đưa ra thông qua một Hội
đồng phê duyệt đặc khu kinh tế liên bộ 19 thành viên là cơ quan hành chính cao nhất và đứng
đầu do một Thư ký của Bộ Thương mại và là Bộ chính cho tất cả các chính sách liên quan đến
đặc khu kinh tế.
Theo các chuyên gia Nhật Bản, việc thành lập đặc khu chiến lược quốc gia thành công góp
phần nâng cao vị thế của nền kinh tế Nhật Bản từ trì trệ sang hồi sinh. Tại các Đặc khu toàn diện
(CSZ), Nhật Bản đã áp dụng các chính sách đặc thù.
Ví dụ: Trong trường hợp thực hiện những dự án thuộc trường hợp ngoại lệ, các công ty có thể
được hưởng đãi ngộ đặc biệt với 20% doanh thu sẽ được khấu trừ vào khoản thu nhập chịu thuế.
Tỷ lệ khấu hao, khấu trừ thuế cũng được điều chỉnh theo mức ưu đãi tốt hơn… Tuy nhiên, việc
chỉ định giám sát CSZ để phát triển năng lực cạnh tranh quốc tế sẽ được giới hạn nghiêm ngặt
trong một số lượng nhỏ...
2.2. Vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với đặc khu kinh tế,kinh nghiệm từ nước Trung Quốc.
Theo kinh nghiệm phát triển các đặc khu kinh tế đã được phân tích và diễn giải ở trên cho
thấy, phải có thể chế hiện đại và vượt trội thì mới có thể phát triển được đặc khu kinh tế, trong
đó, chính sách pháp luật phải được coi là xương sống, rường cột. Thể chế, chính sách pháp luật
đối với đặc khu kinh tế cần phải bao quát được các vấn đề sau đây:
a. Thứ nhất, về quản lý hành chính đối với các đặc khu kinh tế.


* Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế của Trung quốc cho thấy:
- Hệ thống chính sách pháp luật được hình thành ở 3 cấp độ.
 Cấp độ thứ nhất, là hệ thống pháp luật và quy định áp dụng chung cho tất cả các đặc

khu;
 Cấp độ thứ hai gồm các văn bản quy định do chính quyền cấp tỉnh ban hành trên cơ sở
những nguyên tắc của các luật, các quy định và chính sách của quốc gia và căn cứ vào

điều kiện cụ thể, nhu cầu thực tế của các đặc khu kinh tế;
 Cấp độ thứ ba, là các quy định chỉ áp dụng riêng cho từng đặc khu do chính quyền
thành phố nơi có đặc khu và một số khác do chính quyền tỉnh ban hành.
Các quy định áp dụng cho Đặc khu kinh tế Thâm Quyến có tính sáng tạo và hoàn thiện hơn
cả, vì vậy, nó thường được áp dụng làm mẫu trong việc xây dựng các quy định cho các đặc
khu kinh tế khác.
-Một số các văn bản pháp lý quan trọng của Trung Quốc được ban hành để điều chỉnh tổ chức
hoạt động của đặc khu kinh tế có thể tham khảo bao gồm:
 Luật Đầu tư hợp tác giữa Trung Quốc với nước ngoài (năm 1979; Quy chế về các đặc













khu kinh tế tỉnh Quảng Đông (năm 1979);
Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 (mục 18 và 31)
Luật về thể thức thực hiện pháp luật của Trung Quốc tại các xí nghiệp liên doanh (năm
1983);
Những quy định về ký kết hợp đồng ngoại thương, nhập khẩu công nghệ tại Đặc khu
kinh tế Thâm Quyến (năm 1984);
Những quy định về quyền sử dung đất đai, nhập khẩu công nghệ và quản lý lao động ở
Đặc khu kinh tế (năm 1984);

Luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ (năm 1985);
Nghị quyết của Quốc vụ viện Trung Quốc về khuyến khích đầu tư nước ngoài (năm
1986);
Quy định về khuyên khích đầu tư nước ngoài của đồng bào Đài Loan (năm 1988);
Quy định về khuyến khích đầu tư nước ngoài của Hoa kiều và đồng bào Hồng Kông, Ma
Cao (năm 1990);
Những điều luật bổ sung cho Luật năm 1979 về đầu tư hợp tác giữa Trung Quốc và
nước ngoài (năm 1990);
Luật bảo hộ quyền lợi của Hoa kiều về nước (năm 1994);
Luật về các ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (năm 1996);
Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài của Trung Quốc (năm 2000)...
Theo xu hướng chung, Nhà nước Trung Quốc đã và đang chủ trương trao quyền tự
chủ cho các đặc khu kinh tế. Các đặc khu này có quyền đề ra những ưu đãi nhất định
trong khuôn khổ pháp luật để thu hút các nhà đầu tư. Các đặc khu kinh tế phải đặt trong
cơ chế cạnh tranh và đây chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển các đặc khu kinh tế.

*Ở nước ta, sau một thời gian dài nghiên cứu, đánh giá, đến nay,


Dự thảo về hệ thống chính trị và xây dựng tổ chức chính quyền của Đặc khu kinh tế Vân Đồn
đã và đang từng bước được hoàn thiện. Theo đó, dự kiến về bộ máy hành chính của Đặc khu thì
Uỷ ban nhân dân Đặc khu quản lý, điều hành các mặt hoạt động của Đặc khu, dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối, toàn diện của Đảng.
Ủy ban Pháp luật tán thành với việc quy định về đơn vị hành chính trong luật, nhưng đề nghị
cân nhắc liều lượng quy định cho phù hợp và đảm bảo tính thống nhất, tránh trùng lắp với các
luật khác; theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt cũng là
một loại đơn vị hành chính, do đó một số ý kiến cho rằng cần quy định một số vấn đề có tính
nguyên tắc về đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt như điều kiện trình tự thành lập, giải thể, mô
hình tổ chức chính quyền, quan hệ trực thuộc…
Bộ Trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình cho biết, để tổ chức hợp lý chính quyền địa phương

phù hợp với Hiến pháp năm 2013 bảo đảm chính quyền địa phương các cấp hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; bộ máy hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến cơ sở; phát
huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong việc tham gia xây dựng và giám sát hoạt động của chính
quyền địa phương, Bộ Nội vụ đã dự thảo Luật Tổ chức chính quyền địa phương gồm 9 chương,
192 điều.
Ngoài những quy định chung, dự thảo đã nêu rõ những quy định về tổ chức đơn vị hành chính;
nhiệm vụ quyền hạn của HĐND và UBND; tổ chức và hoạt động của HĐND; tổ chức và hoạt
động của UBND ở cấp chính quyền địa phương; ở quận, phường…
Các đại biểu tham dự cuộc họp cũng tán thành với các nội dung đánh giá của Bộ Nội vụ và Ủy
ban Pháp luật, đồng thời góp ý thêm một số nội dung về bố cục, phạm vi điều chỉnh, nhiệm vụ
quyền hạn của HĐND và UBND các cấp...
-Cơ cấu Uỷ ban nhân dân Đặc khu gồm 7 thành viên:
 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu;
 2 Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu;
 4 Uỷ viên Uỷ ban nhân dân. Đứng đầu Uỷ ban nhân dân là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân

Đặc khu do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh bổ nhiệm; Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
Đặc khu và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu bổ
nhiệm.
-Cơ quan giúp việc cho Uỷ ban nhân dân Đặc khu: có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức các cơ quan
tham mưu của cấp uỷ với cơ quan chuyên môn của chính quyền theo hướng tinh gọn, hiệu quả,
hiện đại, quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Theo đó thì Uỷ ban nhân dân Đặc khu có 10 cơ quan là:
o
o
o
o

Văn phòng;
Ban Tổ chức và quản lý nguồn nhân lực;
Ban Kinh tế tổng hợp;

Ban Phát triển hạ tầng;


o
o
o
o
o
o

Ban Tài nguyên - Môi trường;
Ban Văn hoá và Chính sách xã hội;
Ban Kiểm tra - Pháp chế;
Ban Tuyên truyền - Vận động;
Trung tâm dịch vụ hành chính công;
Ban xúc tiến đầu tư (IPA).
Trong các ban không có phòng và không còn chế độ công chức suốt đời thay vào đó là
thuê chuyên gia và ký hợp đồng làm việc với công chức (trừ một số vị trí do bầu cử hoặc
chỉ định) và thuê người nước ngoài làm tư vấn, quản lý điều hành trên một số lĩnh vực,
đặc biệt là kinh tế trên cơ sở thoả thuận mức lương và công việc được giao. Cùng với đó,
chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân Đặc khu cũng được xây dựng
chi tiết, cụ thể.

-Về chức năng: Uỷ ban nhân dân Đặc khu sẽ tổ chức xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển Đặc khu; tổ chức thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an
ninh – quốc phòng, đối ngoại trên địa bàn Đặc khu; quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn
Đặc khu; phối hợp với Uỷ ban nhân dân các địa phương thuộc tỉnh và các cơ quan liên quan
trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của địa phương; thực hiện công tác tổ chức cán
bộ; cung ứng dịch vụ hành chính công và các dịch vụ hỗ trợ khác. Chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu được quy định trong Luật Đặc khu kinh tế Vân Đồn

và chịu trách nhiệm toàn diện trước pháp luật về các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội trên địa
bàn Đặc khu.
-Về thẩm quyền Uỷ ban nhân dân Đặc khu: được giao một số thẩm quyền của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, các bộ, ngành trung ương, của Uỷ ban nhân dân tỉnh và Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh trong lĩnh vực hành chính và kinh tế - xã hội và được quy định trong Luật Đặc khu Kinh
tế Vân Đồn, theo hướng: Thẩm quyền được Chính phủ phân cấp, giao quyền. Chính phủ rà soát
để giao một số quyền cho Uỷ ban nhân dân Đặc khu thực hiện, cụ thể là, trong lĩnh vực hành
chính có quyền quyết định thành lập các cơ quan chuyên môn, đơn vị thuộc Uỷ ban nhân dân
Đặc khu; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn,
đơn vị thuộc Uỷ ban nhân dân Đặc khu; xây dựng chính sách tiền lương bổ sung theo hướng tự
chủ.
- Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân Đặc khu được ban hành một số chính sách trên một số lĩnh vực
như: Chính sách ưu đãi đầu tư; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, y tế chất lượng cao và
kinh tế biển; được bổ sung thêm danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, danh mục lĩnh vực cấm
đầu tư, các loại hình dịch vụ đặc biệt trên địa bàn Đặc khu nhằm bảo đảm phát triển đúng định
hướng của Đặc khu; ban hành chính sách đối với người lao động làm việc tại Đặc khu... Cùng
với đó, phương án này cũng xác định rõ nhiều chức năng, nhiệm vụ khác của Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân Đặc khu kinh tế Vân Đồn về lĩnh vực hành chính, kinh tế, đầu tư phát triển, xây dựng...
Mục tiêu xây dựng Đặc khu kinh tế Vân Đồn là làm cho kinh tế phát triển nhanh và bền vững.


Muốn vậy phải phát triển trình độ sản xuất ở mức độ cao, phát triển các dịch vụ cao cấp, bộ máy
quản lý phải tinh gọn và hiệu quả, an sinh xã hội ngày càng được đảm bảo tốt hơn.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu để xây dựng hình mẫu về tổ chức và hoạt động để
áp dụng chung cho các đặc khu hay chỉ điều chỉnh riêng cho từng đặc khu. Vấn đề này cần triệt
để khai thác kinh nghiệm của các nước phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
b: Thứ hai, các chính sách pháp luật về thuế, tài chính, tiền tệ, hải quan và xuất nhập khẩu.
*Kinh nghiệm từ Trung Quốc:
Các chính sách pháp luật về thuê,tài chính ,tiền tệ ,hải quan và xuất nhập khẩu- đây được coi là
vấn đề khá quan trọng trong thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đặc khu kinh tế. Cũng theo

kinh nghiệm của Trung Quốc, chính sách ưu đãi về thếu cho các nhà đầu tư nước ngoài thành lập
doanh nghiệp hoạt động tại đặc khu kinh tế thường tập trung ở các nhóm thuế như: Thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu nhập khẩu, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Ví dụ: Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hoạt động trong đặc khu kinh tế được hưởng mức
ưu đãi 15% và được miễn thuế địa phương, trong khi đó, các doanh nghiệp liên doanh ngoài đặc
khu kinh tế chịu mức thuế 33% (30% thuế thu nhập doanh nghiệp và 3% thuế địa phương).
- Trong công tác quản lý nhà nước về hải quan và kiểm tra biên giới, việc quản lý hàng hóa xuất
khẩu và nhập khẩu vào đặc khu kinh tế được chia làm hai tuyến:
Tuyến một là biên giới thực sự của Trung Quốc với các nước khác, hải quan và biên
phòng ở tuyến này quản lý việc xuất nhập khẩu và xuất nhập cảnh với nước ngoài.
Tuyến hai là ngăn cách đặc khu kinh tế với nội địa. Phương châm quản lý của Trung
Quốc đối với đặc khu kinh tế là “bỏ lỏng tuyến một, quản chặt tuyến hai” tức là tạo điều
kiện thuận lợi tự do cho người và hàng hóa từ nước ngoài ra vào đặc khu, mặt khác quản
lý chặt chẽ việc buôn lậu trốn thuế nhập cư trái phép giữa đặc khu với nội địa nhằm bảo
vệ thị trường nội địa và thực thi chính sách tự do hoá ở đặc khu. Tất cả hàng hóa ra vào
đặc khu kinh tế đều phải chịu sự quản lý giám sát của hải quan Trung Quốc, kể cả hàng
hoá nhập khẩu, xuất khẩu của đặc khu với nước ngoài hay với nội địa. Người mang hàng
hoá vào các đặc khu kinh tế bắt buộc phải khai báo hải quan và phải có giấy phép nhập
hàng vào đặc khu. Đối với hàng nhập khẩu cho nhu cầu tiêu dùng tại đặc khu, máy móc
thiết bị, nguyên liệu linh kiện… dùng cho sản xuất đều được miễn thuế nhập khẩu và
thuế công thương nghiệp với một số lượng nhất định.

-Về chính sách thuế xuất, nhập khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp trong đặc khu kinh tế có sự
thay đổi theo thời gian, được điều chỉnh theo sự biến động của tình hình đầu tư. Các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không phải nộp thuế xuất nhập khẩu đối với các thiết bị sản
xuất, nguyên liệu, phụ tùng thay thế, linh kiện, phương tiện giao thông và hàng hoá văn phòng


phẩm, những vật dụng được nhập khẩu cho nhu cầu bản thân; các mặt hàng xuất khẩu do doanh
nghiệp sản xuất ra trừ các mặt hàng bị hạn chế xuất khẩu; các mặt hàng tiêu dùng, ngoài những

mặt hàng chịu sự kiểm soát của nhà nước như thuốc lá, rượu …, được giảm thuế một nửa.
Đối với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới việc
sau khi đầu tư tại nước sở tại và thu được một số lợi nhuận thì số lợi nhuận đó có thể được
chuyển nguyên vẹn về nước họ hay không. Với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài 0% tại
ĐKKT đã bảo vệ được quyền lợi, và mức độ yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài và đó thực
sự là một khuyến khích cho họ đầu tư.
-Về chính sách tiền tệ tín dụng và ngân hàng, một trong những yêu cầu đầu tiên và quan trọng
nhất trong các đặc khu kinh tế là việc thành lập các trung tâm giao dịch ngoại hối. Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được quyền bán ngoại tệ vào thị trường trong nước, nhưng không được
mua ngoại tệ trừ một số trường hợp nằm trong kế hoạch phân phối ngoại tệ của Nhà nước.
* Ở Việt Nam,
- Khi xây dựng cơ chế chính sách với đặc khu kinh tế Móng Cái - Vân Đồn, về chính sách điều
hành xuất nhập khẩu, tỉnh Quảng Ninh cũng đã có ý kiến đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
được ban hành chính sách xuất nhập khẩu hàng hoá vào đặc khu kinh tế theo thời kỳ và thời gian
luật định.
C;Thứ ba, chính sách đất đai và các chính sách liên quan đến cơ sở hạ tầng.
-Theo kinh nghiệm của Trung Quốc,
Đất đai thuộc về sở hữu nhà nước, song theo pháp luật hiện hành, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có thể mua được quyền sử dụng đất trong một thời gian nhất định.
Phần lớn các luật và quy định về đất đai hiện hành tại các đặc khu kinh tế đều được ban hành
sau năm 1987, khi quyền sử dụng đất được chính thức coi là quyền sở hữu tài sản có giá trị
thương mại và được chuyển nhượng tự do. Việc chuyển giao quyền sử dụng đất có thể theo 3
phương pháp:
+ Thứ nhất, cấp quyền sử dụng đất cho các công ty Trung Quốc để làm phần vốn góp cho các
công ty liên doanh;
+ Thứ hai, thông qua phương pháp đấu thầu sử dụng đất;
+ Thứ ba, theo phương thức mua bán đấu giá.
Việc chuyển nhượng đất có thể đem bán, cho thuê, thế chấp hoặc các dạng chuyển nhượng
khác để lấy tiền như các loại tài sản phi vật chất khác. Thời điểm ban đầu giá quyền sử dụng đất
được xác định bởi chính quyền của đặc khu kinh tế, nhưng sau một thời gian, nó được xác định

thông qua cơ chế thị trường, đấu thầu và bán đấu giá. Nhà nước không can thiệp vào giá chuyển


nhượng mà chỉ điều tiết thông qua thuế giá trị gia tăng của việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất.
Về các chính sách liên quan đến phát triển cơ sở hạ tầng, nhìn chung, hệ thống đường giao
thông, điện nước, thông tin liên lạc, các công trình công cộng và các công trình phục vụ hoạt
động sản xuất, kinh doanh trong các đặc khu kinh tế cần được đầu tư một cách đồng bộ, hiện đại,
nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư.
d.Thứ tư, về chính sách lao động và tiền lương.
Các thử nghiệm chính đối với thị trường lao động trong các đặc khu kinh tế là phải thay đổi cơ
chế tuyển dụng lao động theo hợp đồng lao động dài hạn; cho phép chủ lao động được thuê nhân
viên theo các tiêu chuẩn của công ty và sa thải các nhân viên không đạt yêu cầu. Các doanh
nghiệp trong đặc khu kinh tế có toàn quyền tuyển dụng lao động trong và ngoài đặc khu kinh tế
và có thể tuyển dụng trực tiếp hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm, trung tâm phát
triển nguồn nhân lực hoạt động một cách hợp pháp. Nhà nước cũng cần có các biện pháp giúp đỡ
các doanh nghiệp tại đặc khu kinh tế trong việc tìm kiếm lao động, ở mỗi đặc khu kinh tế nên có
các văn phòng lao động và giới thiệu việc làm của Nhà nước chuyên trách về bố trí công ăn việc
làm và các hoạt động dịch vụ lao động để đáp ứng yêu cầu linh hoạt về lao động cho các doanh
nghiệp.
Về chính sách tiền lương, hệ thống mức lương cơ bản của Nhà nước chỉ đóng vai trò quy định
mức lương tối thiểu. Các doanh nghiệp hoạt động trong đặc khu kinh tế có thể trả lương cho
người lao động theo phương thức tự thỏa thuận phù hợp với giá cả thị trường. Nhìn chung, các
doanh nghiệp trong đặc khu kinh tế được quyền quy định mức, các hình thức trả lương, chế độ
thưởng và trợ cấp nhưng không thể thấp hơn mức bình quân của các doanh nghiệp bên ngoài đặc
khu kinh tế.

2.3: Việc xây dựng Dự án Luật hành chính – kinh tế đặc biệt với định hướng nhằm tạo
khung pháp lý cho việc hình thành các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt .
Trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013, một trong những điểm mới về kinh tế được đề cập đến là

cho phép thành lập những khu vực hành chính, kinh tế đặc biệt. Đây là một quy định ngắn gọn
trong Hiến pháp, nhưng lại có một ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước trong
những năm tới. Điều này có nghĩa Việt Nam có thể thành lập những đặc khu kinh tế nhằm thu
hút lượng vốn lớn từ tư nhân, đặc biệt là từ các nhà đầu tư nước ngoài và từ đó tạo sự lan tỏa cho
cả nền kinh tế. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng đối với một đặc khu kinh tế lại nằm ở thể chế và
chính sách.
Theo ông Andrew Grant, Giám đốc của McKinsey & Company Singapore khuyến nghị: “Các
đặc khu kinh tế sẽ cạnh tranh nhau về thể chế, chính sách và các quy định kinh tế cơ sở với nhiều


điều kiện ưu đãi khác nhau và chính sách thu hút nhân tài”. Điều này khẳng định tính rường cột
của thể chế, chính sách và pháp luật. Nó sẽ cùng các yếu tố khác đưa đến sự thành công hay thất
bại của các đặc khu kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào.
Trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ khóa XIII không đưa vào xây dựng
luật này. Đồng nghĩa với nó là chưa thể có hy vọng thành lập được khu hành chính kinh tế đặc
biệt trước năm 2016. Khu hành chính kinh tế đặc biệt là một mô hình chính quyền mới đã được
nhiều nước trên thế giới áp dụng và thành công. Hiện nay, mô hình này đã có ở 135 quốc gia với
hơn 3.500 khu tạo ra hơn 68 triệu việc làm và đưa ra giá trị gia tăng được hơn 500 tỷ USD từ
hoạt động thương mại và dịch vụ. Đây là một chính quyền đặc thù nên tổ chức bộ máy, mối quan
hệ giữa Trung ương, địa phương, tính độc lập tương đối và các cơ chế chính sách cũng phải đặc
thù và vượt trội so với các quy định của các đạo luật hiện hành.
Trong khi đó, cơ chế chính sách của ta đang áp dụng cho khu kinh tế mới chỉ quy định ở Nghị
định 95 của Chính phủ nên tính pháp lý chưa đủ mạnh, chưa tạo được môi trường pháp lý đặc
biệt cho việc ra đời, hình thành và đầu tư phát triển của khu kinh tế.
Qua rà soát bước đầu những nội dung liên quan đến tổ chức bộ máy, mối quan hệ Trung ương,
địa phương, các cơ chế chính sách xây dựng đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt liên quan đến rất
nhiều luật và pháp lệnh như:
 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân,
 Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Ngân sách,
 Luật Nhà ở, Luật Thương mại,

 Luật Quy hoạch đô thị, Pháp lệnh phí và lệ phí v.v..

Vì vậy, không thể cùng một thời gian mà chúng ta xem xét sửa chữa một loạt các luật
như trên mà rất cần thiết phải có luật riêng cho khu hành chính kinh tế đặc biệt vận hành
và tổ chức thực hiện tốt nội dung của mình.
Chúng ta nói đến vấn đề hơi chậm tuy nhiên chúng ta đã có những khu vực, địa danh, vùng có
lợi thế cạnh tranh toàn cầu như Phú Quốc, Vân Đồn, Vân Phong… Nếu ta có cơ chế chính sách
tốt, có tính cạnh tranh toàn cầu thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công. Nếu Quốc hội đã có quyết
tâm cao trong việc thành lập các khu hành chính kinh tế đặc biệt thì sớm ban hành luật và cho
làm chính thức, không làm thí điểm. Việc thành lập các đơn vị này nhằm tạo sức hút đầu tư lớn
từ trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài, nếu chỉ làm thí điểm thì rất khó thuyết
phục các nhà đầu tư chiến lược.
Thủ tướng Chính phủ kết luận, việc xây dựng Dự án Luật hành chính – kinh tế đặc biệt với
định hướng nhằm tạo khung pháp lý cho việc hình thành các đơn vị hành chính – kinh tế đặc
biệt với các quy định mang tính chất đặc thù về mô hình tổ chức bộ máy hành chính; phương
thức đầu tư, chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển vượt trội so với quy định hiện hành và các chính
sách, ưu đãi của các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đang đàm phán; các quy định nhằm áp


dụng cho các khu vực phát triển kinh tế có lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý, có khả năng cạnh tranh
quốc tế về thể chế hành chính và môi trường đầu tư.
Các vấn đề đặt ra nói trên ở Việt Nam đều chưa có thực tiễn kiểm nghiệm, chưa được nghiên
cứu, đánh giá toàn diện và còn nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt về tính khả thi của mô hình này
khi thể chế hoá trong Dự án Luật. Với yêu cầu đặt ra như vậy, cần tiếp tục nghiên cứu toàn diện
các vấn đề nêu trên, đặc biệt là về thể chế và mô hình phát triển của các đơn vị hành chính – kinh
tế đặc biệt để có cơ sở xây dựng Dự án Luật.
Thủ tướng giao Bộ Tư pháp, Thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, báo
cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc đề nghị lùi thời gian trình Dự án Luật đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt để tiếp tục nghiên cứu, trình Quốc hội vào thời điểm thích hợp.




×