Lòch sử thế giới cận đại
- 20 -
CHƯƠNG IV : CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP
I. TÌNH HÌNH NƯỚC PHÁP TRƯỚC CUỘC CÁCH MẠNG.
1. Chế độ quân chủ chuyên chế và đẳng cấp trong xã hội phong kiến Pháp.
- Trước cách mạng, nước Pháp là một nước quân chủ chuyên chế phong kiến. Vua nắm mọi quyền
hành trong nước. Vua Louis XVI, thường tự coi ý muốn của mình là ý chúa, là luật pháp và quyền
lực.
- Chế độ quân chủ chuyên chế, một mặt duy trì những đạo luật những nguyên tắc và tập tục phong
kiến, mặt khác để củng cố quyền lực của mình, nó còn được bảo vệ rất chặt chẽ bởi sự phân chia
đẳng cấp trong xã hội: tăng lữ, quý tộc và đẳng cấp thứ ba.
- Đẳng cấp tăng lữ và quý tộc chỉ chiếm 1% dân số như có vò trí rất lớn, nắm giữ tất cả những vò trí
cao cấp trong chính quyền và giáo hội từ trung ương tới đòa phương. Đẳng cấp thứ ba chiếm 99% dân
số bao gồm tư sản, nông dân, thò dân… bò tước đoạt mọi quyền chính trò, bò bóc lột bằng thuế khoá, bò
phụ thuộc và phải phục vụ cho hai đảng cấp tăng lữ, quý tộc. Chính vì vậy mâu thuẫn giữa đẳng cấp
thứ ba với hai đẳng cấp trên ngày càng gay gắt.
2. Sự phát triển công thương nghiệp tư bản chủ nghóa và những trở lực của nó.
- Trên lónh vực kinh tế: khác với nước Anh vào thế kỷ XVII, chủ nghóa tư bản đã xâm nhập mạnh
mẽ vào nông nghiệp, các chủ ruộng đất đã chuyển sang kinh doanh theo phương thức tư bản chủ
nghóa thì ngược lại ở Pháp vẫn nằm trong tình trạng lạc hậu, năng suất lao động thấp kém. Chế độ
bóc lột theo hai hình thức: lãnh đòa – phát canh thu tô và đặc biệt là chế độ vónh điền nông nô “đã
bóc lột đến tận xương tủy người nông dân Pháp”. Kết quả là trước cách mạng, nền kinh tế ngày càng
suy sụp: nạn đói diễn ra thường xuyên; nông dân bò phá sản ngày càng tăng. Do đó, giải phóng khỏi
ách phong kiến là một yêu cầu cấp thiết của nhân dân Pháp lúc đó và giải quyết vấn đế ruộng đất đã
trở thành vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng.
Cuối thế kỷ XIII, nền công thương nghiệp Pháp đang trên đà phát triển. Sản lượng công
thương nghiệp đã đóng góp một vai trò quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhìn chung,
cuối thế kỷ XVIII, các ngành công thương nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, yếu tố kinh tế tư bản chủ
nghóa đã nảy sinh và ngày càng phát triển. Nhưng chế độ phong kiến đã đưa ra những đạo luật khắc
khe gây nên những trở ngại lớn cho sự phát triển của chủ nghóa tư bản. Cho nên xóa bỏ sợi dây ràng
buộc của phong kiến đối với nền công thương nghiệp đã thành một yêu cầu khách quan và tất yếu của
lòch sử.
3. Trào lưu tư tưởng “Ánh sáng”.
Cuối thế kỷ XVIII, nề quân chủ chuyên chế Pháp đã lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.
Mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh những cuộc nổi dậy đấu tranh của nông dân
và công nhân, là cuộc đất tranh chống phong kiến trên lónh vực tư tưởng. Đó là trào lưu tư tưởng “Áùnh
sáng”. Chuẩn bò về tư tưởng cho một cuộc cách mạng tư sản sắp bùng nổ.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 21 -
Trào lưu tư tưởng “Ánh sáng” bao gồm nhiều khuynh hướng khác nhau với những đại biểu ưu
tú như Jeans Meslié, Monterquieu; Voltaire; Diderot, , Kersle’y, Rouseau.v.v…
Các nhà tư tưởng Pháp, mặc dù có những quan điểm khác nhau, phản ánh những quyền lợi
của giai cấp khác nhau, nhưng trong thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến họ đều chóa mũi
nhọn vào chế độ quân chủ chuyên chế và đòi hỏi thay thế bằng một chế độ xã hội mới. Chính vì thế
mà trào lưu tư tưởng tiến bộ và cách mạng đó đã vượt ra khỏi nước Pháp có ảnh hưởng khắp Châu u.
Được “chủ nghóa khai sáng” soi đường, giai cấp tư sản ý thức được lợi ích của giai cấp mình với lợi
ích dân tộc, lãnh đạo toàn dân nổi dậy chống chế độ phong kiến mục nát.
II. QUÁ TRÌNH DIỄN TIẾN CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP.
Mùa hè 1789, nước Pháp đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc cách mạng tư sản. Quần chúng
nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản đã đứng dậy tiến hành đấu tranh lật đổ nền quân chủ
chuyên chế phong kiến, lập nên chế độ tư bản chủ nghóa. Quá trình đó có thể chia làm 3 giai đoạn:
1.
Giai đoạn cách mạng bùng nổ và nền thống trò của đại tư sản lập hiến (14 /7/1789 – 10/8/1792)
2.
Giai đoạn thống trò của phái cộng hòa tư sản Girondins (10/8/1792 – 31/5/1793).
3.
Giai đoạn chuyên chính dân chủ cách mạng Jacobins (6/1793 – 7/1794).
1. Giai đoạn 1 của cuộc cách mạng.
a.Cuộc đấu tranh ở hội nghò ba cấp và sự kiện 14/ 7/1789.
Trước tình thế khốn quẫn về tài chính. Ngày 5/5/1789, Louis XVI buộc phải triệu tập hội nghò ba
cấp với hy vọng được hội nghò biểu quyết thông qua luật đánh thuế mới (luật thuế thu nhập cao, tài sản
lớn). Nhưng tại hội nghò này đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt của 300 đại biểu thuộc đẳng cấp thứ ba
với 270 đại biểu của hai đẳng cấp tăng lữ và quý tộc xoay quanh vấn đề cách thức bỏ phiếu và kiểm tra
tư cách đại biểu.
Được sự ủng hộ nhiệt tình của quần chúng, ngày 17/6/1789, các đại biểu của đẳng cấp thứ ba đã tự
tuyên bố thành lập “Hội đồng dân tộc”. Đến ngày 9/7/71789, “Hội đồng dân tộc” tự tuyên bố thành lập
hội đồng hiến để xác đònh quyền của mình trong việc ban hành luật lệ nhà nước.
Đứng trước tình hình trên, Louis XVI đã điều động quân đội hòng bóp chết cuộc cách mạng từ
trong trứng nước. Nhưng quần chúng nhân dân ở thủ đô Paris đã thành lập Ủy ban thường trực và tổ chức
lực lượng vũ trang dân binh đánh chiếm các cơ quan và những vò trí quan trọng trong thành phố.
Ngày 114/7/1789, pháo đài Bastille biểu trưng của chế độ phong kiến Pháp bò suy sụp. Sau sự
kiện này, phong trào cách mạng của nông dân ở các đòa phương và phong trào “cách mạng thò chính” ở
các thành thò khác nhau trên toàn nước Pháp đã giành được thắng lợi lớn.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 22 -
b.Chính quyền lập hiến và bản chất của nó.
Lợi dụng phong trào cách mạng to lớn của quần chúng, tầng lớp tư sản đại tài chính đã lên nắm
chính quyền và thành lập chế độ quân chủ lập hiến để thay đổi cho hệ thống chính quyền quân chủ
chuyên chế. Trong chính quyền quân chủ lập hiến, từ quốc hội, các tòa thò chính và cơ quan chính quyền
ở các tỉnh, các chức vụ quan trọng đều do tầng lớp đại tư sản tài chính có khuynh hướng “thân bảo
hoàng” nắm giữ.
Trên lónh vực chính trò: ngày 26/8/1789, quốc hội lập hiến đã long trọng thông qua bảng “tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền”.
“Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” bao gồm 17 điều khoản với nội dung chính là nêu lên
quyền bình đẳng tự do con người; khẳng đònh chủ quyền thuộc về nhân dân; bãi bỏ tất cả các quyền lực
của nhà vua cùng chế độ đẳng cấp phong kiến bất bình đẳng; và ban hành các quyền tự do, đồng thời
khẳng đònh quyền sở hữu tài sản tư nhân.
Trong thời kỳ mà nền quân chủ phong kiến còn đang thống trò ở Châu u, những quyền lợi của
con người bò trước đoạt thì bản Tuyên ngôn 1789 đã ít nhiều thể hiện tính chất tiến bộ của cách mạng.
Sau “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789”, năm 1791. Quốc hội lập hiến ban hành hiến
pháp mới. Hiến pháp quy đònh chế độ lập hiến ở nước Pháp. Nhà vua được tuyên bố là người đứng đầu
Nhà nước có quyền phê chuẩn hay bác bỏ đạo luật, bổ nhiệm hay cách chức các bộ trưởng… Hiến pháp
quy đònh chế độ tuyển cử theo công dân làm hai loại: công dân tích cực và công dân tiêu cực tuỳ theo tài
sản của họ: Chỉ có công dân tích cực (gồm giai cấp tư sản và đòa chủ) mới có quyền bầu cử và ứng cử.
Còn công dân tiêu cực (gồm tuyệt đại quần chúng nhân dân lao động thì bò gạt ra khỏi đời sống chính trò
của đất nước. Như vậy hiến pháp 1791 đã vi phạm những nguyên tắc “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” được
nêu ra trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789, đã tước đoạt quyền lợi chính trò của đa số quần
chúng, mà chỉ bảo vệ quyền lợi cho một thiểu số hữu sản trong xã hội.
Trên lónh vực kinh tế:
Về chính sách ruộng đất, quốc hội lập hiến tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn trật tự phong kiến: Những
đặc quyền cơ bản như thuế cens, tô hiện vật, tô lao dòch… chỉ được bãi bỏ khi nông dân có tiền chuộc (gần
20 lần tiền tô phải nộp hàng năm). Ruộng đất của nhà thờ bò tòch thu và bán theo từng ấp trại lớn. Trên
thực tế người nông dân Pháp “không có tiền để được giải phóng”.
Trong chính sách kinh tế công – thương nghiệp, Quốc hội lập hiến quyết đònh bãi bỏ quy chế
phường hội, cho phép tự do buôn bán. Chính sách này đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư bản chủ
nghóa phát triển.
Từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1970, Quốc hội lập hiến đã tiến hành tổ chức hành chính theo quy
chế mới và can thiệp mạnh mẽ vào giáo hội như: chia thủ đô Paris thành các phân khu; toàn quốc chia
làm 83 quận với cơ cấu thống nhất; xoá bỏ thuế quan nội đòa; buộc giáo hội Pháp phải phục tùng quốc
gia, chuyển quyền quản lý hộ tòch từ nhà thờ về tay Nhà nước… Những biện pháp tích cực đó có một ý
nghóa tiến bộ lớn vì nó đã gạt bỏ được những nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế của chủ nghóa tư bản,
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 23 -
từng bước hạn chế quyền lực của giáo hội và góp phần rất lớn vào việc hoàn thành quá trình thống nhất
dân tộc Pháp.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực các chính sách của Quốc hội lập hiến ngày càng tỏ rõ
thái độ: “Thờ ơ trước yêu cầu quyền lợi chính đáng của quần chúng và không kiên quyết đối với thế lực
phản động”. Bất bình trước những động thái của Quốc hội, hàng loạt các cuộc đấu tranh của quần chúng
nhân dân liên tiếp bùng nổ. Mùa thu 1978, những người thợ xây, thợ giầy, những người bán hàng ở Paris
lần lượt nổi dậy đòi cải thiện đời sống. Mạnh mẽ nhất là cuộc khởi nghóa của nhân dân ở thủ đô Paris vào
đầu tháng 10-1789 đã buộc Louis XVI phải rời bỏ Verseill, phá tan kế hoạch phản công của phe quý tộc
bảo hoàng phản cách mạng.
Bên cạnh phong trào nổi dậy của quần chúng là sự xuất hiện của “Các câu lạc bộ chính trò”,
những trung tâm để thảo luận các vấn đề mà toàn quốc đang chú ý. Ảnh hưởng đáng kể nhất là câu lạc bộ
Jacobins do Robespierre đứng đầu.
Các câu lạc bộ được phát triển rộng rãi ở các tỉnh và các thành phố, đã đưa kiến nghò đòi Quốc hội
lập hiến phải xoá bỏ việc phân chia công dân tích cực và tiêu cực; đòi Quốc hội lập hiến phải có thái độ
dứt khoát trước tình trạng “tổ quốc lâm nguy”
c. Tình trạng “Tổ quốc lâm nguy” và sự sụp đổ của chính quyền quân chủ lập hiến.
Đến đầu năm 1972, tình hình nước Pháp ngày càng trở nên căng thẳng. Nhà vua, quý tộc tăng lữ
và nhất là bọn quý tộc di cư đã không ngừng tìm mọi cách chống đối cách mạng. Bọn phong kiến Áo, Phổ
cũng tuyên bố sẽ “can thiệp vào nước Pháp”.
Ngày 20-4-1972, nước Pháp tuyên chiến với Áo, nhưng đã gặp phải những khó khăn lớn đó là
Louis XVI lợi dụng quyền lực của mình đã không phê chuẩn sắc lệnh thành lập đội quân tình nguyện.
Mari Antoinette (vợ vua) đã bí mật chuyển cho Áo toàn bộ kế hoạch của chiến dòch. Quân Pháp do các
tướng đã phản động chỉ huy bò thua phải rút lui.
Trước tình hình đó, quần chúng nhân dân đã nổi dậy đấu tranh buộc Quốc hội lập pháp (được bầu vào
ngày 1-10-1791) phải tuyên bố tình trạng “Tổ quốc lâm nguy” và ra lệnh động viên quân tình nguyện.
Nhưng trước thái độ không kiên quyết chống ngoại xâm của một số phần tử trong Quốc hội lập pháp, đêm
ngày 9 rạng sáng ngày 10-8-1972, quần chúng ở thủ đô Paris đã nổi dậy khởi nghóa, giải tán Quốc hội lập
pháp, bắt giam nhà vua Louis XVI. Nước Pháp chuyển sang một giai đoạn cách mạng mới.
2. Giai đoạn 2 của cuộc cách mạng.
a. Sự sụp đổ của nền quân chủ lập hiến và sự thành lập nền cộng hoà
Sau cuộc khởi nghóa vào đêm 9 rạng sáng 10-8-1792 của quần chúng nhân dân Paris, chế độ quân
chủ lập hiến đã sụp đổ hoàn toàn. Một sắc lệnh thành lập “Hiệp hội dân tộc” được thay thế cho Quốc hội
lập pháp được ban bố với chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu cho tất cả nam giới từ 21 tuổi trở lên. Chính
phủ mới được thành lập (gọi là Hội đồng hành pháp lâm thời) gồm phần lớn các bộ trưởng của phái
Girondins.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 24 -
Ngày 12-8-1792, 80 vạn quân phổ vượt biên giới tràn vào lãnh thổ Pháp. Các thế lực phản động ở
châu Âu câu kết thành liên minh chống Pháp đã đẩy tình hình nước Pháp đứng trước nguy cơ mất nước.
Trong giờ phút gian nan đó, các công xã ở Paris và những người Jacobins đã tỏ ra kiên quyết và
dũng cảm. Tiến hành trấn áp bọn phản cách mạng, thành lập các tiểu đoàn tình nguyện góp phần làm nên
chiến thắng Vamme (ngày 20-9-1792) làm thay đổi hoàn toàn cục diện của cuộc chiến tranh.
Một ngày sau khi chiến thắng Vanme, ngày 21-9, Hiệp hội dân tộc tuyên bố thiết lập nền Cộng
hoà – mở đầu kỷ nguyên mới trong lòch sử nước Pháp.
b.Đấu tranh giai cấp và sự sụp đổ của chính quyền Girondins.
Chính quyền girondins được thiết lập sau cuộc khởi nghóa ngày 10-8 thực chất vẫn chỉ là một
chính quyền nằm trong tay giai cấp tư sản cánh hữu.
Phát Jacobin được coi là phái tả, đại diện cho những người tư sản dân chủ và cách mạng, chủ yếu
là tư sản lớp dưới, liên minh với tiểu thư sản và các tầng lớp bình dân như tiểu chủ, thợ thủ công, công
nhân trong các công trường thủ công và nông dân. Trong một thời đoạn nhất đònh và hoàn cảnh cách
mạng đang ở chiều hướng đi lên. Phái Jacobins đứng đầu là Robespierre đã quyết đònh hướng theo nhân
dân đẩy cách mạng tiến tới “tiêu diệt thù trong giặc ngoài”. Điều này trái ngược với phái girondins, đại
diện cho quyền lợi của các tầng lớp tư sản công thương nghiệp và tư sản ruộng đất. Và nhất là khi dưới áp
lực của quần chúng và những người thuộc phái Jacobins, tháng 12-1792, toà án của Hiệp hội dân tộc
quyết đònh xử tử Louis XVI, thì sự xung đột giữa phái Girondins và phái Jacobins là điều không thể tránh
khỏi.
Chiến tranh đã làm cho tình trạng kinh tế nước Pháp sa sút hẳn.
Thò trường trong và ngoài nước bò thu hẹp, sản xuất sút kém. Tình trạng đầu cơ tích trữ lương thực
thực phẩm của bọn con buôn đã làm cho “rối loạn giá cả trên thò trường”. Đời sống trong các thành phố
trở nên cực kỳ khó khăn. Công nhân đấu tranh đòi tăng lương và quy đònh giá cả (giá tối đa).
Vấn đề căn bản nhất là vấn đề ruộng đất vẫn không được giải quyết. Nông dân không đủ sức chuộc
lại ruộng đất của mình bằng những khoản tiền quá lớn.Trước tình hình đó, Hiệp hội dân tộc thông qua
những sắc lệnh vào tháng 8-1792 có một ý nghóa tiến bộ nhằm từng bước giải thoát người nông dân ra
khỏi áp bức bóc lột như: Sắc lệnh 14-8-1792: Tòch thu ruộng đất của bọn quý tộc di cư, chia thành từng lô
nhỏ bán cho dân nghèo; cho phép chia ruộng đất công và đặc biệt ngày 25-8-1792, Quốc hội ban hành
sắc lệnh “xóa bỏ một số nghóa vụ phong kiến đối với người nông dân”… Trớ trêu thay, những sắc lệnh
tháng 8-1792, đã không được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, vì vậy năm 1792-1793, nhiều cuộc nổi
dậy của nông dân lại bùng nổ ở nước Pháp làn sóng bất mãn ngày càng dâng cao, làm lung lay nền thống
trò của tầng lớp đại tư sản.
Nhóm “tả” nhất trong phái dân chủ cách mạng, đại diện cho quyền lợi của tầng lớp nông dân
nghèo là phái “Điên dại”. Dưới một hình thức mơ hồ đi tìm một trật tự xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn. Họ
muốn san bằng tài sản, chia đều của cải mà không nêu ra yêu cầu tiêu diệt chế độ tư hữu. Họ đòi quy
đònh giá tối đa và khủng bố bọn gian thương và đầu cơ. Yêu sách của họ đã làm cho chính quyền
Girondins căm ghét và được những người Jacobins lợi dụng.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 25 -
Năm 1793, liên minh các nước Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Áo, Phổ và Nga hoàng liên kết với
nhau chống lại nước Pháp. Đứng trước tình hình nước Cộng hoà Pháp non trẻ cùng một lúc phải đương
đầu với âm mưu phản loạn từ bên trong và liên minh phong kiến từ bên ngoài. Những người thuộc phái
Jacobins đã liên kết với phái “Điên dại”, lập ra Ủy ban khởi nghóa ở thủ đô Paris (31-5-1973) và tiến
hành cuộc khởi nghóa ngày 2-6-1793, lật đổ chính quyền Girondins, chuyển chính quyền vào tay những
người Jacobins dân chủ và cách mạng.
Khởi nghóa 2-6-1793, một lần nữa thể hiện ý chí kiên cường và sức mạnh vô đòch của quần chúng nhân
dân quyết tâm thúc đẩy cách mạng đi lên. Một giai đoạn phát triển mới của Đại cách mạng tư sản Pháp
được mở ra đó là giai đoạn của “Nền chuyên chính dân chủ cách mạng Jacobins”.
3. Giai đoạn thứ 3 của cuộc cách mạng
a. Sự thành lập chính quyền chuyên chính dân chủ và cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc.
Nền chuyên chính dân chủ cách mạng Jacobins được thiết lập sau ngày 2-6-1793, trong điều kiện hết
sức nguy kòch “thù trong giặc ngoài” đẩy nền Cộng hoà đứng trước bờ vực thẳm.
Trong tình trạng vô cùng khó khăn và nguy hiểm đó, những người Jacobins cách mạng, đứng đầu
là Robespierre đã nhận thức được rằng muốn bảo vệ được nền cộng hoà thì cần phải có một nền chuyên
chính cách mạng triệt để nhằm trấn áp kẻ thù và thoả mãn ở mức tối đa những quyền lợi của quần chúng
để vận động đông đảo nhân dân tham gia cuộc đấu tranh tiêu diệt thù trong giặc ngoài.
Điều quan tâm đầu tiên của những người Jacobins là cần phải thông qua nhanh chóng một hiến
pháp mới làm cơ sở chính trò thông qua nhanh chóng một hiến pháp mới làm cơ sở chính trò tập hợp lực
lượng cách mạng. Ngày 24-6-1793, Hiệp hội dân tộc thông qua bản hiến pháp mới. Bản hiến pháp cộng
hoà đầu tiên trong lòch sử nước Pháp.
Hiến pháp 1793, ngoài việc thừa nhận quyền tự do bình đẳng; quyền tự do tín ngưỡng và ngôn
luận của công dân, nó còn thừa nhận quyền chống áp bức (điều 33), thậm chí quyền khởi nghóa khi chính
phủ vi phạm quyền của nhân dân (điều 35) và quyền tự do tư hữu.
Hiến pháp 1793, xoá bỏ phân loại công dân tích cực và tiêu cực. Quy đònh nam giới từ 21 tuổi trở
lên được đi bầu cử quốc hội lập pháp. Quốc hội bầu lại hàng năm vào ngày 1-5. Hội đồng hành pháp 24
người do quốc hội lập pháp cử ra là cơ quan tối cao của nền cộng hoà.
Hiến pháp 1793 phản ánh và đánh dấu một giai đoạn mới của Đại cách mạng tư sản Pháp. Nó
tuyên bố trước toàn thế giới những nguyên tắc tự do và dân chủ, một nền tư sản tiến bộ hơn hẳn hiến
pháp năm 1791. Tuy nhiên hiến pháp thông qua nhưng do điều kiện “thù trong giặc ngoài” cấu kết với
nhau chống phá cách mạng nên chính quyền Jacobins quyết đònh tạm hoãn việc thi hành hiến pháp nhằm
ngăn ngừa kẻ thù lợi dụng những điều khoản dân chủ để chống phá cách mạng. Đó là một biện pháp
đúng đắn vì hoàn cảnh nước Pháp lúc bấy giờ đang đòi hỏi tăng cường chuyên chính đối với các thế lực
phản động.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 26 -
Chính quyền cách mạng dựa chắc vào các tổ chức nhân dân. Các chủ trương, dự luật, các biện
pháp chính trò đều được thảo luận trong các câu lạc bộ Jacobins và ý kiến đóng góp của quần chúng đều
được tiếp thu và thông qua ở “Ủy ban cách mạng cơ sở” do nhân dân bầu ra tại các đòa phương.
Cùng với việc thông qua hiến pháp, xây dựng và cũng cố chính quyền chuyên chính cách mạng và
thi hành chính sách “khủng bố đỏ” tấn công vào lực lượng phản cách mạng, chính quyền Jacobins đã
nhanh chóng giải quyết ngay những quyền lợi thiết thực của nhân dân và hai đoạn cách mạng trước chưa
giải quyết được đó là: tòch thu ruộng đất của bọn quý tộc phong kiến di cư chia làm nhiều mảnh nhỏ để
bán cho dân nghèo theo phương thức trả góp trong 10 năm; chia ruộng đất công cho nông dân, và điều
chỉnh để cho mỗi người có mảnh ruộng bằng nhau; ban hành các sắc lệnh thủ tiêu hoàn toàn đặc quyền
phong kiến đối với người nông dân.
Các đạo luật ruộng đất của chính quyền Jacobins đã có một ý nghóa to lớn: nó phá hoại tận gốc
chế độ phong kiến, biến tầng lớp nhân dân trước kia phụ thuộc vào phong kiến thành những người tiểu tư
hữu tự do, và thiết lập nên một nền kinh tế tiểu nông. Nó tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế tư bản chủ nghóa ở nước Pháp.
Chính quyền cách mạng cũng đã thoả mãn được yêu sách của phái “Điên dại” như trừng trò bọn
đầu cơ tích trữ, hạn chế tự do buôn bán, đònh giá tối đa về lương thực thực phẩm và tổ chức Ủy ban phân
phối.
Dựa theo sáng kiến của quần chúng, 23-8-1793, Hiệp hội dân tộc thông qua sắc lệnh “tổng động
viên toàn quốc”. Nước Pháp cách mạng sục sôi tinh thần ái quốc. Đến đông xuân 1793 – 1794. quân
Pháp đã chuyển sang thế chủ động tấn công quân thù (liên minh các nước châu Âu) đã bò quét sạch khỏi
lãnh thổ nước Pháp.
b. Mâu thuẫn nội bộ và sự tan rã của liên minh Jacobins. Giai đoạn thoái trào của cách mạng:
Trong suốt quá trình đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, nội bộ Jacobins đã xảy ra sự phân
hoá ngày càng rõ rệt. Nhất là vào đầu năm 1794, khi mà thù trong giặc ngoài đều bò đẩy lùi thì trong liên
minh Jacobins mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt. Bọn đại tư sản muốn tự do trong kinh doanh, đòi
chính phủ huỷ bỏ luật tối đa. Trái lại quần chúng nhân dân đòi hỏi được thoả mãn triệt để hơn những
quyền lợi cơ bản họ đòi hỏi bỏ đạo luật lương tối đa, thẳng tay trừng trò bọn đầu cơ và thi hành hiến pháp
1793.
Bò tấn công từ hai phía, chính quyền Jacobins do Ropespierre đứng đầu cho rằng đường lối đúng
đắn duy nhất là giữ vững khối liên minh, cùng một lúc diệt trừ hai khuynh hướng “hữu” và “tả” trong nội
bộ Jacobins. Vì vậy 27-71794 (ngày 9 tháng Thermidor), giai cấp tư sản đã tổ chức cuộc chính biến phản
cách mạng, lật đổ chính quyền cách mạng Jacobins, bắt những người lãnh đạo chủ chốt và đưa họ lên
máy chém.
Cuộc chính biến ngày 9 tháng Thermidor đã chuyển chính quyền từ tay phái tư sản cách mạng
sang tay phái tư sản phản cách mạng. Sau một thời gian đầy biến động phức tạp, tháng 11-1799 dựa vào
sức mạnh quân sự Napoleon Bonaparte lên cầm quyền và 5 năm sau 1804, ông ta tuyên bố lên ngôi
hoàng đế.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 27 -
Dựa vào lực lượng quân đội hùng mạnh, nền Đế chế I do Napoleon đứng đầu và tiến hành cuộc
chiến tranh chinh phục châu Âu, đánh tan liên tiếp liên minh chống Pháp do năm quốc gia Anh, Nga, Áo,
Phổ và Hungary tổ chức và giành được nhiều thắng lợi mở rộng lãnh thổ của đế chế I sang các nước Bắc
Âu, Nam Âu. Xung quanh biên giới ở phía Đông và phía Nam là một vành đai các nước chư hầu, các anh
em do dòng họ Bonaparte trò vì hoặc do những người thân cận với Napoleon cầm quyền.
Nhưng trong chiến dòch tấn công vào Nga, quân Pháp đã thất bại nặng nề ở trận chiến Borodienne
(8-1812) mở đầu cho sự thất bại về mặt quân sự của đế chế I. Và sau trận Warterlo (6-1815) nền đế chế I
bò tan rã hoàn toàn. Thế lực phong kiến Pháp được phục hồi. Cuộc đấu tranh giữa thế lực phong kiến
được phục hồi với quần chúng nhân dân và giai cấp tư sản dẫn tới cách mạng tháng 7-1830, lật đổ hoàn
toàn nền thống trò của dòng họBourbons.
III. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ.
Cuộc cách mạng cuối thế kỷ XVIII ở Pháp là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Phong trào cách
mạng đã lật đổ chế độ phong kiến thống trò lâu đời ở nước Pháp, thiết lập nền thể chế chính trò mới với cơ
cấu tổ chức mới và quyền tự do dân chủ.
Cách mạng đã đập tan quan hệ ruộng đất phong kiến. Người nông dân được giải phóng, vấn đề ruộng
đất được giải quyết. Thò trường thống nhất dân tộc được hình thành. Công thương nghiệp có điều kiện
thuận lợi để phát triển theo hướng tư bản chủ nghóa.
Kết quả của cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã mở ra một thời kỳ thắng lợi và củng cố chủ
nghóa tư bản ở những nước tiên tiến Châu Âu, Châu Mỹ.
Trong suốt tiến trình của cuộc cách mạng, giai cấp tư sản đã chứng tỏ là một giai cấp tiến bộ, xứng
đáng là một giai cấp lãnh đạo cách mạng, khơi dậy được tinh thần to lớn cách mạng của quần chúng làm
nên những chiến thắng oanh liệt.
Ba giai đoạn của cuộc cách mạng chính là sự thể nghiệm con đường phát triển từ thấp đến cao của
cách mạng tư sản Pháp, mà nền chuyên chính dân chủ và cách mạng Jacobins là đỉnh cao nhất.
Sở dó cách mạng đạt đến đỉnh cao như vậy, chính là vì những người Jacobins, đã nhìn thấy và biết
phát huy lực lượng của quần chúng. Sự tham gia nhiệt tình của quần chúng là cơ sở và điều kiện tồn tại
của khối liên minh này. Nhưng đó không phải là liên minh lâu dài và vững chắc vì đó chỉ là mối liên
minh tạm thời giữa kẻ bóc lột và người bò bóc lột để thanh toán những kẻ thù của giai cấp tư sản và quần
chúng nhân dân là chế độ quân chủ chuyên chế. Mối liên minh này hoàn toàn khác về bản chất so với
khối liên minh công nông trong cuộc cách mạng vô sản.
Và không có gì khác hơn chính ý tưởng tư hữu của chế độ tư hữu đã dẫn tới sự tan rã và sụp đổ của
liên minh Jacobins và nền chuyên chính dân chủ và cách mạng Jacobins.
Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII, không tránh khỏi những hạn chế của một cuộc cách mạng
tư sản. Mặc dù vậy, cách mạng tư sản Pháp là một cuộc cách mạng tư sản vó đại tấn công vào thành trì
của chế độ cũ, để xây dựng chế độ xã hội mới. Những biến cố vó đại của cuộc cách mạng đã vượt ra
ngoài khuôn khổ nước Pháp, làm rung chuyển chế độ phong kiến ở châu Âu, thức tỉnh tất cả những lực
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 28 -
lượng dân chủ tiến bộ đứng lên chống lại chế độ phong kiến. Cuộc cách mạng tư sản Pháp đã để lại dầu
ấn lòch sử sâu đậm trong sự phát triển của nước Pháp cũng như trên thế giới.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 29 -
CHƯƠNG V : CÁCH MẠNG TƯ SẢN VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN
CHÂU ÂU TỪ 1815 ĐẾN 1848.
I. SỰ PHỤC HỒI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN Ở CHÂU ÂU VÀ PHONG TRÀO CÁCH
MẠNG TƯ SẢN.
Sau khi cuộc chiến tranh Napoléon kết thúc (1815). Tình hình chính trò ở châu Âu bước vào một
kỳ phản động hơn.
Ngay từ tháng 9-1814, các nước chủ yếu tham gia cuộc chiến tranh chống Napoléon đã quyết
đònh nhóm họp tại Viên: “Hội nghò Vienne”. Đã nhằm ba mục đích chính:
1. Khôi phục lại chế độ phong kiến ở các nước châu Âu và trấn áp phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc ở các nước này.
2. Mở rộng và kiện toàn các quốc gia ở bên cạnh Pháp, lập một phòng lũy phòng thủ ở châu Âu nhằm
ngăn cản sự phục hưng ở nước Pháp.
3. Chia đất đai châu Âu và ở các thuộc đòa.
Để củng cố hiệp ước Vienne và duy trì chế độ quân chủ chuyên chế phản động ở châu Âu, đồng
minh thần thánh bao gồm các nước theo đạo thiên chúa, thực chất là một liên minh gồm hầu hết các nước
quân chủ phản động ở châu Âu “Đồng minh tứ cường” gồm Nga, Anh, Áo, Phổ được thành lập với mục
đích chung là ngăn chặn sự phục hồi của triều đại Bonaparte ở Pháp và đàn áp phong trào cách mạng của
quần chúng.
Châu u lại ngập chìm trong chính sách khủng bố của thời kỳ trung cổ!
Thế lực phong kiến ở các nước đã ra sức gạt bỏ những thành quả cải cách và cách mạng mang
tính chất tư sản, thiết lập lại chế độ thống trò độc đoán.
Tuy nhiên trên đà đi lên của lòch sư,û phong trào cách mạng tư sản vẫn liên tiếp diễn ra trong
những năm 20, 30 và 40 của thế kỷ XIX ở Châu u và châu Mỹ la tinh như phong trào đấu tranh độc lập
dân tộc của nhân dân Xecbi thoát khỏi xiềng xích của Thổ Nhó Kì (tháng 8/1930) hay phong trào cách
mạng ở Tây Ban Nha đòi thực hiện hiến pháp dân chủ tư sản, và đặc biệt vào năm 1830, một cuộc cách
mạng tư sản lại bùng nổ ở Pháp nhằm lạt đổ chính quyền thống trò của triều đại Bourbon. Thay thế vào
đó là chính quyền quân chủ Tháng Bảy do Louis Pilippe làm vua, đại diện cho lợi ích của bộ phận đại tư
sản ngân hàng thuộc dòng quý tộc Orlea’ns.
Cũng trong những năm đầu của thế kỷ XIX, phong trào chiến tranh giành độc lập đã dâng lên ở
các nước châu Mỹ La Tinh: nhân dân các dân tộc ở khu vực châu lục này đã liên tiếp đấu tranh chống lại
ách thống trò của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và Anh, dẫn đến việc thành lập một số quốc gia độc lập như
Mexico, Braxin, Colombia, Chilê… sau khi được giải phóng, các nước này nhanh chóng trở thành miếng
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 30 -
mồi ngon cho tư bản Bắc Mỹ “trong thuyết Molro”châu Mỹ của người dân Mỹ. Nhưng thực ra chính là
thực hiện mưu đồi chiếm châu Mỹ là của riêng nước Mỹ.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ TBCN VÀ SỰ XUẤT HIỆN NHỮNG
HỌC THUYẾT KINH TẾ VÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN.
Trong khi phong trào cách mạng không ngừng tiếp điển thì kinh tế tư bản chủ nghóa đã có những bước
tiến quan trọng. Trong nhiều nước ở châu âu tuy chưa tiến hình cách mạng tư sản, nhưng nhân tố tư bản
chủ nghóa cũng đã nảy nở trong nền kinh tế mổi nước. Trong nửa đầu thế kỷ XIX nhất là trong khỏang
1815 – 1848, cuộc cách mạng công nghiệp tiếp tục phát triển trong các nước lớn, đẩy nền kinh tế lên một
mức cao. Tình hình đó đã tạo nên một nguồn của cải phong phú và mở ra khả năng sản xuất to lớn. Đồng
thời nó cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của mâu thẩn xã hội. Bên cạnh mâu thuẫn giữa chủ nghóa tư
bản với chế độ phong kiến, đã xuất hiện mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Điều đó tác
động quan trọng đến sự diễn biến của phong trào cách mạng trong những năm giữa thế kỹ XIX.
Sự phát triển kinh kinh tế tư bản chủ nghóa cũng đã tạo điều kiện cho sự ra đời của những học
thuyết chính trò kinh tế và triết học cổ điển với những đại biểu như Adam Smith David Ricardo, Mal
Thoux (Trường phái chính trò kinh tế cổ điển Anh) và Héger, Feurbach (Triết học cổ điển Đức). Các học
giả này đã cố gắng giải thích những hiện tượng mới trong xã hội. Mặc dù còn có nhiều hạn chế nhưng nó
cũng đóng góp một phần quan trọng vào kho tàng tri thức loài người.
Tiếp thu một cách có phê phán, Marx và Engels đã sử dụng sáng tạo những thành tựu thành những bộ
phận cấu thành của chủ nghóa cộng sản khoa học.
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI KHÔNG TƯỞNG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX.
Sự phát triển của chủ nghóa tư sản đã nâng cao rõ rệt mức sản xuất trên thế giới nhưng cùng với sự
phát triển đó, cảnh tương phản giữa tư và sản công nhân càng bọc lộ rỏ rệt.
Đằng sau bộ mặt lộng lẫy của chủ nghóa tư bản, là sự khốn cùng của giai cấp công nhân. Sự bóc
lột tàn bạo của chủ nghóa tư bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân ngày càng trở nên sâu sắc. Bò
áp bức bóc lột tàn khốc, công nhân đứng lên đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp mình. Những phong trào
đất tranh trong những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX như khởi nghóa Lyon (1831;1834); phong trào hiến
chương ở Anh; khởi nghóa ở Selerien (1844) ở Đức), đã chứng tỏ rằng giai cấp công nhân đã bước lên vũ
đài chính trò với tư thế của một giai cấp độc lập. Nhưng vì chưa có tỏ chức vững mạnh và không được
tranh bò bằng bằng lý luận khoa học cách mạng, nên phong trào công nhân không thể giành được những
thắng lợi.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã tác động ít nhiều vào ý thức của một số nhân vật
tiến bộ trong các tầng lớp “hữu sản lớn“. Họ đã nhận thấy mặt trái của xã hội tư bản, tìm cách xây dựng
cuộc sống mới tốt đẹp không có áp lực bóc lột. Họ nêu lên những luận điểm xã hội chủ nghóa và kế hoạch
xây dựng chủ nghóa xã hội nhưng đó mới chỉ là chủ nghóa xã hội không tưởng mà những người đại diện
xuất sắc trong nữa đầu thế kỷ XIX là: Saimt Simon, Fourier ở Pháp và Robet Owen ở Anh.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 31 -
Các ông đã chỉ trích, kết tội tư bản chủ nghóa, mơ ước xóa bỏ nó và tưởng tượng ra một chế độ xã
hội tốt đẹp hơn. Nhưng chủ nghóa xã hội không tưởng không thể vạch ra một lối thoát thật sự. Nó không
giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong chế độ tư bản chủ nghóaNó không phát hiện
được quy luật phát triển của chế độ ấy và cũng không tìm thấy lực lượng xã hội có khả năng xây dựng
nên một xã hội mới là giai cấp công nhân. Tuy nhiên trong điều kiện lòch sử lúc đó chủ nghóa xã hội
không tưởng là một trào lưu tư tưởng tiến bộ và trở thành một trong những nguồn gốc của thuyết học
Maxx.
VI. TỪ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG TƯỞNG ĐẾN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
KHOA HỌC.
Học thuyết về chủ nghóa cộng sản khoa học do Marx và Engel đế xướng vào những năm 40 của
thế kỷ XIX là một sự kiện lòch sử trọng đại to lớn. Nó ra đời trong những điều kiện lòch sử nhất đònh của
sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghóa và của mối mâu thuẫn giai cấp giữa tư sản và vô sản ngày càng
tăng, sự phát triển của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng sâu rộng. Dựa vào những
tri thức khoa học về tự nhiên và xã hội cũng như quá trình đấu tranh không mệt mỏi của mình Marx và
Engels đã nghiên cứu xây dựng nền tảng đầu tiên cho học thuyết cộng sản khoa học. Bước chuyển biến
từ chủ nghóa xã hội không tưởng sang chủ nghóa cộng sản khoa học được đánh dấu bằng tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản” được công bố vào tháng 2 năm 1842.
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đó chính là cương lónh cách mạng của giai cấp vô sản.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản bao gồm những nội dung chính:
Lời mở đầu: Marx và Engels nói lên mục đích khi viết tuyên ngôn là “công khai trình bày trước toàn
thể thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình để đập lại quan điểm của giai cấp tư sản về bóng
ma cộng sản”.
Chương I : nêu lên một cách khái quát quy luật phát triển cơ bản của xã hội tư sản, vạch rõ lợi ích đối
lập giữa giai cấp tư sản và vô sản và sứ mệnh lòch sử của giai cấp vô sản.
Chương II : Marx và Engels nêu lên muốn hoàn thành sứ mệnh lòch sử chôn vùi giai cấp tư sản và xây
dựng xã hội mới, giai cấp vô sản cần phải có một chính đảng vô sản, một nền chuyên chính vô sản và
phải dùng những biện pháp bạo lực cách mạngđể chống lại bạo lực phản cách mạng
Chương III : Để phát triển và bảo vệ chân lý của chủ nghóa cộng sản khoa học, Marx và Engels phê
phán các quan điểm xã hội chủ nghóa không mang tính giai cấp vô sản. Đặc biệt các ông đánh giá rất cao
cống hiến của chủ nghóa không tưởng Pháp nửa đấu thế kỷ XIX.
Chương IV : Marx và Engels đề ra những nguyên lý cơ bản về sách lược của Đảng cộng sản trong
cuộc đấu tranh cho nhân dân và chủ nghóa xã hội.
Phần kết thúc Tuyên ngôn đã công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách
dùng BẠO LỰC LẬT ĐỔ TẤT CẢ TRẬT TỰ XÃ HỘI HIỆN CÓ. Mặc cho giai cấp thống trò run sợ khi
nghó đến một cuộc cách mạng vô sản. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 32 -
ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng ấy, họ giành được cả thế giới về mình.Tuyên
ngôn kết thúc bằng lời kêu gọi – một khẩu hiệu
VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC ĐOÀN KẾT LẠI.
CHƯƠNG VI : PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TƯ SẢN CHÂU ÂU GIỮA THẾ
KỶ XIX
Cuộc cách mạng chống chế độ phong kiến thối nát, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân
dân chống ách bóc lột tư bản chủ nghóa âm ỉ trong những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX và cuộc khủng
hoảng kinh tế 1845 – 1847 đã đặt Châu u vào tình thế cách mạng.
Đầu năm 1848, ngọn lửa cách mạng đã bùng lên ở Pháp rồi lan ra Châu u, tạo nên một cao trào
đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, có ảnh hưởng rất lớn đến lòch sử châu u giữa thế kỷ XIX.
I. CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP.
1.Cách mạng tháng 2.
Năm 1845 – 1846, khủng hoảng kinh tế đã diễn ra ở nước Pháp. Khủng hoảng kinh tế đã tác động và
làm chín muồi cuộc khủng hoảng chính trụ, đẩy nền thống trò của Louis Philippe đến chỗ mục ruỗng, thối
nát, và cách mạng đã bùng nổ.
Ngày 22 – 2 – 1848, quần chúng nhân dân Pa-ri, nòng cốt là những người công nhân tiên tiến đã
kéo xuống đường biểu tình đòi cách chức thủ tướng Gizo và tiến hành cải cách tuyển cử. Nhiều cuộc xung
đột đã xảy ra giữa cảnh sát, binh lính với những người biểu tình. Các chiến lũy đã được dựng lên khắp các
ngả đường. Hội viên các đoàn thể cách mạng bí mật, công nhân và những người dân chủ tiêu tư sản đã
đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang của quần chúng.
Quân đội của chính phủ bò đánh tan, vua Luis Philippe phải thoái vò và chạy trốn sang Anh. Cách
mạng đã giành được thắng lợi bước đầu. Một chính phủ lâm thời được thành lập gồm tuyệt đại đa số đại
biểu của giai cấp tư sản, hai đại biểu của giai cấp vô sản là là Luois Blanche và Anberre, còn lại là đại
biểu của tầng lớp tiểu tư sản. Đó là biểu hiện của sự thỏa hiệp giữa các giai cấp khác nhau đã cùng nhau
lật đổ nền Quân chủ tháng Bảy, nhưng lợi ích thì vẫn đối lập nhau.
Trước áp lực của quần chúng nhân dân và thái độ kiên quyết của giai cấp công nhân, chính phủ lâm
thời buộc phải thực thi một số biện pháp.
•
Tuyên bố thành lập nền cộng hòa (25 – 2 – 1848), nhưng thực chất đó là nền cộng hòa tư sản.
•
Thông qua quyết nghò thành lập y ban lao động do Luis Blanche và Anbrre phụ trách.
•
Cho xây dựng các công xưởng quốc gia để giải quyết việc làm cho những người thất nghiệp và
giảm bớt giờ làm cho công nhân.
Đứng trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản đã dùng nhiều
thủ đoạn bòp bợm để tấn công lại phong trào công nhân. Chúng cho ban hành chính sách thuế trực thu
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 33 -
45% đánh mạnh vào nông dân, làm cho nông dân hiểu lầm rằng chỉ vì sự cải thiện cho công nhân, giải
quyết nạn thất nghiệp của công nhân mà họ phải chòu tăng thuế, từ đó sinh ra thù óan giai cấp công nhân.
Chính phủ Lâm thời cũng đã cho thành lập một đội vệ binh biệt động – đội quân chống vô sản nằm ngay
trong lòng giai cấp vô sản.
2. Chế độ cộng hòa và khởi nghóa tháng sáu.
Ngày 4 – 5 – 1848, Quốc hội lập hiến khai mạc, mở đầu thành lập xây dựng nền cộng hòa tư sản.
Quốc hội lập hiến thành lập một chính phủ gọi là y ban chấp hành. Những đại biểu của công nhân
bò gạt ra khỏi chính phủ, Bộ Lao động bò bãi bỏ, hạn chế quyền đưa kiến nghò, quyền tự do báo chí,
ngăn cản hoạt động của những câu lạc bộ dân chủ.
Một thời kỳ mới của cuộc đấu tranh bắt đầu.
Ngày 15 – 5 – 1848, hàng nghìn công nhân tổ chức tuần hành trên đường phố Paris, tuyên bố
thành lập chính phủ mới và đòi phải lập lại những tổ chức của công nhân, đưa quân đội ra khỏi Pa-ri, giúp
đỡ những người thất nghiệp và nghèo đói, viện trợ cho quân cách mạng ở Ba Lan… Nhưng không một đề
nghò nào của công nhân được chính phủ chấp thuận.
Hành động khiêu khích của quốc hội lập hiến đã đẩy công nhân đi tới cuộc khởi nghóa ngày 22
tháng sáu.
Nhưng cuộc khởi nghóa tháng sáu của giai cấp vô sản đã thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là vì giai
cấp vô sản không có một chính đảng độc lập để đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất. Cuộc khởi nghóa cũng
thiếu sự ủng hộ và phối hợp chặt chẽ chẽ của quần chúng nhân dân.
Dẫu bò thất bại, nhưng khởi nghóa tháng sáu có ý nghóa rất lớn. Marx nhận đònh; đó là cuộc giao
chiến lớn đầu tiên giữa hai giai cấp đối lập trong xã hội hiện đại. Đó là cuộc đấu tranh để duy trì hoặc để
tiêu diệt chế độ tư sản.
Sau thất bï của giai cấp công nhân Pháp trong khởi nghóa Tháng Sáu, chính phủ cộng hòa thiết
lập chế độ chính trò phản động khủng bố gắt gao, tước bỏ quyền dân chủ, tập trung quyền hành độc đoán
vào tay Louis Ponaparte (danh hiệu Napoleon III). Tháng 12 – 1982, nền cộng hòa thứ hai ở Pháp hoàn
toàn sụp đổ. Đế chế thứ hai được xác lập. Chính sách bành trước thuộc đòa của nền đế chế hai được thi
hành ráo riết hơn ở khu vực châu Phi và châu Á.
II. CÁCH MẠNG 1848 VÀ CÔNG CUỘC THỐNG NHẤT NƯỚC ĐỨC.
1. Cách mạng 1848 ở Đức.
Trong hoàn cảnh lòch sử chung của châu u, nước Đức cũng rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế – chính
trò ngày càng trầm trọng. Tình trạng đất nước bò chia cắt đã làm cản trở rất lớn cho sự phát triển của đất
nước. Nó không những cản trở sự phát triển của chủ nghóa tư bản mà còn gây khó khăn cho phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân vì thống nhất dân tộc, vì dân chủ và đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc bò áp bức.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 34 -
Tháng 2 năm 1848, cách mạng đã nổ ra ở hấu hết các tiểu vương quốc ở miền Nam nước Đức. Những
cuộc nổi dậy ở miền Nam nước Đức đã thu được một số thắng lợi nhất đònh buộc giai cấp phong kiến phải
thay các chính phủ phản động cũ bằng nội các tư sản tự do.
Kế tiếp các sự kiện cách mạng trên, khắp các thành phố và nông thôn Đức đều nổi dậy đấu tranh và
đông đảo công nhân, nông dân ngày càng được lôi cuốn vào phong trào cách mạng. Có ảnh hưởng lớn
đến tình hình toàn nước Đức là cuộc cách mạng ở Béc Lin- thủ đô nước Phổ. Trước khí thế sục sôi của
cách mạng của quần chúng, ngày 17 – 3, chính phủ Phổ phải nhượng bộ hứa từng bước sẽ triệu tập quốc
hội liên bang và bãi bỏ chế độ kiểm duyệt. Đó là những thủ đoạn hoãn binh để tranh thủ thời gian tập
trung lực lượng đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân.
Trước áp lực của nhân dân, ngày 19 – 3 Friedrich Winhelm IV đã chấp nhận thành lập một chính
phủ mới do đại biểu của giai cấp tư sản tự do tham gia. Nhưng sau khi nắm được chính quyền, giai cấp tư
sản tự do đại diện cho tầng lớp đại tư sản liền phản bội lại cuộc cách mạng, từng bước bắt tay, thương
lượng với chế độ quân chủ.
Do sự phản bội của chính quyền tư sản và sự thất bại của cuộc khởi nghóa tháng Mười ở Viên
(thủ đô nước o) đã làm nghiêng cán cân có lợi cho bọn phản cách mạng.
Tháng 12- 1848, Winhelm IV quyết đònh xóa sổ nội các tư sản và lập ra một nội các mới gồm
đồng bọn phong kiến quan liêu phản động, và từng bước mở rộng các quyền hạn của bọn đòa chủ, quân
đội quý tộc như việc giải tán quốc hội Béc-lin (5 – 12 – 1848) và quốc hội Phrangphua (mùa xuân 1849)
đã kết thúc cuộc cách mạng đầu tiên ở nước Đức. Vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng Đức là thống nhất
đất nước vẫn chưa được giải quyết.
2. Cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức.
Sau cuộc cách mạng 1848, nền công nghiệp Đức phát triển nhanh chóng. Sự phát triển của công
thương nghiệp và của chủ nghóa tư bản trong nông nghiệp gặp phải trở ngại lớn là tình trạng phân tán của
nước Đức. Việc thống nhất nước Đức trở thành vấn đề trung tâm, đòi hỏi cần phải được giải quyết cấp
bách.
Do đó, vấn đề cơ bản của sự phát triển của chủ nghóa tư bản Đức là vấn đề thò trường dân tộc, tức
là vấn đề thống nhất đất nước, và việc thống nhất có thể thông qua hai con đường hoàn toàn khác nhau,
hoặc bằng một cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo thành lập một nước cộng hòa bao gồm tất cả
các bang ở Đức, hoặc bằng một cuộc chiến tranh của triều đình Phổ, tăng cường bá quyền của quý tộc
Phổ trong nước Đức thống nhất.
1848 – 1871 thời kỳ đấu tranh giữa hai con đường thống nhất: con đường “từ dưới lên” là con
đường cách mạng của quần chúng và con đường “từ trên xuống” là con đường chiến tranh vương triều
phản cách mạng do giai cấp quý tộc phong kiến- tư sản Gioongke tiến hành. Giai cấp công nhân Đức còn
đang trong giai đoạn hình thành, lực lượng phân tán nên chưa thể lãnh đạo công cuộc thống nhất đất
nước. Hai quốc gia lớn là o và Phổ đang tranh chấp nhau, đều muốn giữa đòa vò lãnh đạo nước Đức
thống nhất sau này.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 35 -
Quá trình thống nhất nước Đức được bắt đầu từ khi Bismak, người đại diện cho quan điểm và
quyền lợi cho tầng lớp Gioongke lên làm thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao Phổ. Bismak theo chủ
nghóa dân tộc Phổ, đặt nước Phổ đứng đầu quốc gia Đức, chủ trương dùng bạo lực để chống o và các
nước khác cản trở việc thống nhất Đức theo ý ông ta.
Năm 1864, Bismak đã khai chiến với Đan Mạch. Năm 1866, chiến tranh Pháp – Phổ bùng nổ và
Phổ giành được thắng lợi. Bò thua o phải rút khỏi liên bang Đức (thành lập từ 1815) thừa nhận Phổ có
quyền xây dựng một tổ chức chính trò mới là liên bang Bắc Đức.
Bismak xem việc thành lập liên bang Bắc Đức chỉ là một giai đoạn trên con đường đi đến thống
nhất hoàn toàn. Bismak vội vàng lợi dụng tình hình do các chiến thắng vừa thu được để tiến hành cuộc
chiến tranh với Pháp nhằm sáp nhập luôn miền Tây Nam vào Đức, hoàn thành thống nhất nước Đức.
Ngày 19 – 7 – 1790, chiến tranh bùng nổ. Tháng 11 -1870, các quốc gia Nam Đức đã gia nhập
liên minh Bắc Đức. Pháp thất bại thảm hại trong cuộc chiến tranh và sau đó còn bò Đức đưa quân sang
xâm lược. Tính chất của cuộc chiến tranh đã hoàn toàn thay đổi: lúc đầu, chính nghóa của cuộc chiến
tranh thuộc về phía Đức, nhưng khi Đức đưa quân sang xâm chiếm nước Pháp. Khi đó, đứng về phía Đức
thì cuộc chiến tranh trở thành xâm lược, phi nghóa.
Như vậy, việc thống nhất nước Đức (sự thống nhất là một tiến bộ của lòch sử, vì nó mở đường cho
chủ nghóa tư bản phát triển) được thực hiện bằng con đường chiến tranh vương triều “từ trên xuống” dưới
sự lãnh đạo của quý tộc Phổ, duy trì chế độ quân chủ và những đặc quyền quý tộc, đồng thời phát triển
chủ nghóa tư bản. Phương thức ấy làm cho nước Đức trở thành một nguồn gốc quan trọng của chủ nghóa
quân phiệt và là lò lửa của cuộc chiến tranh sau này.
III. CÁC NƯỚC CHÂU ÂU GIỮA THẾ KỶ XIX.
1. Phong trào cách mạng 1848 – 1849 ở đế quốc phong kiến Áo.
Đến giữa thế kỷ XIX, đế quốc o vẫn ở trong tình trạng lạc hậu dưới sự thống trò của triều đại phong
kiến Hapxbua. Đế quốc o là nhà tù của các dân tộc bao gồm nhiều vùng đất đai ởTrung u.
Tin tức về cuộc cách mạng tháng Hai năm 1848 ở Paris đã thổi bùng lên ngọn lửa “đang âm ỉ”
nhiều năm ở đế quốc Áo.
a. Cách mạng Viên
Cuộc biểu tình cách mạng đầu tiên nổ ra ở Braha ngày 8 – 3 – 1848 và tiếp theo làn sóng đó tràn
về Viên (ngày 13 – 3) thành trì của chế độ quân chủ Áo. Trước áp lực của quần chúng nhân dân, nhà vua
đã phải lập ra một nội các gồm các nhân vật thuộc phái tư sản tự do. Mặc dù có ít nhiều nhượng bộ với
quần chúng như thừa nhận quyền bầu cử của công nhân và tuyên bố phế bỏ thượng nghò viện. Nhưng mặt
khác chính phủ và nghò viện tư sản tự do không chòu tiếp tục giải quyết những yêu sách của quần chúng,
đặc biệt là vấn đề ruộng đất.
Cuộc khởi nghóa tháng 6 ở Paris thất bại đã làm cho tình hình cách mạng ở Viên chuyển sang
một giai đoạn mới. Sợ hãi trước sức mạnh to lớn của quần chúng, chính phủ đã liên kết với thế lực phản
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 36 -
động do Ferdinand I cầm đầu công khai đối lập với quần chúng nhân dân, gây ra nhiều vụ khiêu khích và
điều quân đội đến đàn áp phong trào cách mạng, dập tắt cuộc khởi nghóa tháng 10 của quần chúng nhân
dân ở Viên. Chúng công khai tuyên bố khôi phục lại nước Áo.
Như vậy, cuộc cách mạng 1848 không hoàn thành được nhiệm vụ lật đổ chế độ quân chủ và giải
phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của nhà nước Áo.
b. Phong trào giải phóng dân tộc ở Tiệp và Hunggari.
Mùa xuân năm 1848, cao trào cách mạng ở Châu Âu cũng tràn về Tiệp và Hunggari.
Vấn đề đặt ra đối với cách mạng ở Tiệp là giải phóng các dân tộc Xlavơ khỏi thống trò của đế
quốc Áo. Trong cao trào cách mạng chung ở châu Âu, ngày 11 – 3 – 1848, quần chúng Praha họp mít tinh
đòi những quyền tự do dân chủ. Một số người cấp tiến còn yêu cầu thủ tiêu chế độ phong kiến. Trước
phong trào mạnh mẽ của quần chúng, giai cấp tư sản tự do Tiệp triệu tập đại hội Xlavơ, nhưng không
thành bởi cuộc khởi nghóa ngày 2 – 6 của quần chúng nhân dân nhằm chống lại chủ trương biến nước Áo
thành một liên bang các dân tộc. Trước sức mạnh của kẻ thù, ngày 17 – 6 phong trào cách mạng bò dập
tắt.
- Đối với dân tộc Hunggari, cuộc đấu tranh đặt ra là chống lại triều đình phong kiến Hapxbua gắn
liền với những yêu cầu cải cách tư sản và những yêu sách của quần chúng. Ngày 15 – 3, cuộc khởi nghóa
bùng nổ ở Bunđapet do công nhân, thợ thủ công, sinh viên và nông dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của
nhà dân chủ cách mạng Sandro Pêtophi (nhà thơ). Lực lượng cách mạng đã đánh lùi quân đội chính phủ,
tràn vào thành phố và lập nên chính phủ độc lập đầu tiên của Hunggari do Cotchianni, một phần tử tự do
ôn hòa đứng đầu.
Trước những yêu cầu cách mạng của quần chúng, chính phủ mới đã không có ý đònh thật sự giải
quyết các vấn đề cơ bản của đất nước, không đem lại quyền bình đẳng và tự trò cho các dân tộc. Nó
không được sự ủng hộ của quần chúng và ngả dần sang lập trường phản động của nền quân chủ Áo.
Sau sự thất bại của khởi nghóa tháng sáu ở Paris, bọn phản cách mạng Áo chuyển sang thế tấn
công và Nga hoàng cũng đã kòp thời đem quân can thiệp. Đến cuối tháng 9, cuộc cách mạng Hunggari đã
bò các thế lực phong kiến phản động châu Âu dập tắt.
2. Phong trào cách mạng 1848 và cuộc đấu tranh thống nhất nước Ý.
a. Phong trào cách mạng 1848 – 1849.
Nhiệm vụ chủ yếu của cuộc cách mạng dân chủ tư sản Ý năm 1848 – 1849 là thống nhất đất
nước, giải phóng Longbacdia và Venedia khỏi ách thống trò của Áo, thủ tiêu chế độ chính trò và kinh tế
phong kiến lạc hậu.
Phong trào cách mạng bùng nổ bắt đầu từ miền Nam nước Ý. Ngày 12 – 1 – 1848, nhân dân lao
động trong thành phố Palecmo đã nổi dậy khởi nghóa vũ trang và chiếm được gần hết đảo XiXilia. Sau
đó phong trào cách mạng đã lan rộng trong cả nước, đặc biệt là vùng Bắc Ý, nơi chòu ách chiếm đóng của
quân đội Áo. Ngày 18 – 3, khởi nghóa vũ trang đã nổ ra ở Milano, quân Áo bò đuổi khỏi thành phố, chính
quyền chuyển sang tay chính pủh lâm thời mới thành lập gồm những người tư sản tự do.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 37 -
Ngày 22 – 3, sau hai ngày chiến đấu anh dũng, nhân dân Venedia đã làm chủ thành phố và
tuyên bố thành lập nước “cộng hòa thần thánh Mac ca”. ngày 15 – 9, quần chúng khởi nghóa ở Roma
đuổi giáo hoàng và tuyên bố thành lập nước cộng hòa Roma. Nhưng sau đó cả hai nước cộng hòa này đã
bò liên minh Pháp, Áo, Tây Ban Nha thủ tiêu, kết thúc phong trào 1848 – 1849 ở Ý.
b. Cuộc đấu tranh thống nhất nước Ý.
Cuộc cách mạng 1848 – 1849 ở Ý thất bại, vấn đề thống nhất đất nước chưa được giải quyết.
Nước Ý vẫn bò chia cắt thành 7 vướng quốc nhỏ, vừa chòu thống trò của Áo, Pháp lại vừa bò bọn vua chúa
phong kiến đã từng bỏ chạy trong những ngày cách mạng trở lại thống trò dưới ảnh hưởng của Áo. Như
vậy, giải quyết vấn đề thống nhất đất nước tức là đáp ứng nguyện vọng giải phóng dân tộc khỏi ách thống
trò của đế quốc Áo và thực hiện yêu cầu xóa bỏ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghóa tư bản phát
triển chưa được giải quyết.
Vấn đề thống nhất nước Ý trở thành một yêu cầu cấp thiết của giai cấp tư sản và toàn thể quần
chúng nhân dân. Trước vấn đề này có hai khuynh hướng giải quyết.
1. Giai cấp tư sản tự do ở các vương quốc đều muốn tiến hành chiến tranh chống Áo nhưng không
phát động quần chúng nhân dân mà dựa vào Piemông là vương quốc có nền kinh tế tư bản chủ
nghóa phát triển nhất ở Ý do Cavua làm thủ tướng. Cavua chủ trương thống nhất nước Ý bằng con
đường “từ trên xuống”, tiến hành những cuộc chiến tranh vương triều, tiến tới thành lập nước Ý
dưới quyền lãnh đạo của triều đại Xavoa.
2. Những người có khuynh hướng tư sản dân chủ được quần chúng ủng hộ, xác đònh con đường tiến
hành cách mạng coi đấu tranh vũ trang là biện pháp cơn bản để giải phóng và thống nhất nước Ý.
Matdini là đại biểu cho khuynh hướng này.
Quá trình thống nhất nước Ý có thể chia làm ba giai đoạn
1- cuộc đấu tranh chống Áo và sự thống nhất miền Bắc Trung Ý (4/1859 – 3/1860).
Khủng hoảng kinh tế ở Châu Âu 1857, gây tác hại nghiêm trọng đối với nền kinh tế và đời sống
nhân dân Ý. Làn sóng công phẫn của nhân dân dâng cao, tình thế cách mạng chín muồi; tình hình có lợi
cho nước Ý khi các nước Anh, Nga, Phổ đều không muốn giúp Áo và nhất là hiệp ước giữa Cavua và
Napo’le’ons III – hiệp ước liên minh chống Áo được ký kết vào tháng 7 – 1838. Cao trào cách mạng của
quần chúng nhân dân phát triển rất cao và giành được nhiều thắng lợi lớn, đẩy quân Áo có nguy cơ bò thất
bại hoàn toàn.
Nhưng trước phong trào cách mạng của nhân dân Ý, Napoleon III đã bội ước, trắng trợn chuyển
sang phe phản động, công khai thừa nhận duy trì sự chia cắt nước Ý. Nhân dân Ý hết sức căm phẫn trước
thái độ phản bội của Napoleon III đã nổi dậy cùng với những người dân chủ tư sản đứng đầu là Matdini
gây sức ép với các quốc hội Toxcana, Pacma, Modena và Romani phê chuẩn việc truất ngôi các triều đại
thân Áo và ra sắc lệnh sáp nhập vào vương quốc Piemong vào tháng 3 – 1860.
2-Cao trào cách mạng Nam Ý và sự thành lập nước Ý thống nhất (1860 - 1861).
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 38 -
Hòa nhòp cùng với phong trào đấu tranh ở miền Bắc Trung Ý. Ngay từ năm 1859, phong trào
khởi nghóa cũng đã bùng lên mạnh mẽ ở miền Nam nước Ý. Ngày 4 – 1 – 1860, cuộc khởi nghóa bắt đầu
từ Palemo và lan ra nhiều thành phố khác. Nông dân nổi lên đấu tranh, thành lập các đội du kích do
người phái Matdini lãnh đạo. Đặc biệt là các đội quân “Một nghìn” của Garibandie đã giành được nhiều
thắng lợi lớn. Vào cuối tháng 5 đã giải phóng hầu hết Xixinlia và tiến vào giải phóng Napoli, lập nên một
chính quyền mới do Garibandie làm chấp chính.
Tháng 3 – 1861, nghò viện Ý chính thức tuyên bố thành lập vương quốc Ý thống nhất do nhà vua
Pie’mong là Victor Emmanuen làm hoàng đế. Chính quyền tập trung trong tay quý tộc tư sản hóa và giai
cấp đại tư sản. Thò trường dân tộc được thống nhất, hàng rào quan thuế bò thủ tiêu.
3-Hoàn thành thống nhất nước Ý (1861 – 1870)
Đến năm 1861, chỉ còn vùng Venedia (thuộc Áo) và Romanie (thuộc giáo hoàng) chưa nằm
trong bản đồ Vương quốc Ý thống nhất. Chỉ đến khi chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870 dẫn đến sự sụp đổ
của nền đế chế II ở Pháp, giáo hoàng mất chỗ dựa quân Ý tiến chiếm được Roma, buộc giáo hoàng Pie
IV rút vào Vatican. Nước ý lấy lại thống nhất và lấy thủ đô Roma làm trung tâm.
3. Phong trào đấu tranh giành độc lập ở các nước vùng bán đảo Ban Căng.
Từ giữa thế kỷ XIX, các nước vùng bán đảo Ban Căng còn nằm dưới ách thống trò của Thổ Nhó
Kỳ. Sự tan rã của chế độ phong kiến và sự xuất hiện những nhân tố tư bản chủ nghóa đẩy mạnh quá trình
đấu tranh giải phóng dân tộc, chống đế quốc Thổ và ách thống trò phong kiến. Trong những năm 50 – 60
của thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Bungari và phong trào cách mạng ở Xécbi,
Anbani.
Mặc dầu còn có nhiều hạn chế, nhưng phong trào đấu tranh ở đây đã góp phần làm suy yếu sự
thống trò của đế quốc Thổ Nhó Kỳ và đưa công cuộc giải phóng dân tộc tiến lên một bước mới.
IV. KẾT LUẬN VỀ CUỘC CÁCH MẠNG 1848 – 1849 Ở CHÂU ÂU.
1. Tính chất của cuộc cách mạng.
Cách mạng 1848 – 1849 ở Châu Âu được khởi đầu từ nước Pháp và nhanh chóng lan tỏa ra hầu
hết các nước châu Âu. Nhìn chung, những cuộc cách mạng này đều nhằm thủ tiêu trật tự phong kiến là trở
lực chủ yếu của sự phát triển của chủ nghó a tư bản. Nhưng tùy theo điều kiện lòch sử của từng nước,
nhiệm vụ của cuộc cách mạng ở từng nơi được thể hiện khác nhau. Nhưng tính chất chung của cuộc cách
mạng 1847 – 1849 là cách mạng tư sản, có nhiệm vụ lật đổ chế độ phong kiến và giải phóng nhân dân
khỏi ách áp bức dân tộc. Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết đònh trong quá trình diễn biến của các
sự kiện. Sự tham gia của quần chúng làm cho cuộc cách mạng đó mang tính chất dân chủ tư sản nhiều
hay ít là tuỳ từng nơi.
Điều đặc biệt trong cuộc cách mạng này, giai cấp công nhân tham gia tích cực và trong nhiều
nước họ là đội quân chủ lực. Năm 1848, lần đầu tiên giai cấp công nhân chiến đấu với những yêu cầu
chính trò và kinh tế riêng của giai cấp mình. Cũng là lần đầu tiên, giai cấp công nhân đấu tranh trên một
quy mô rộng lớn, không chỉ chống chế độ phong kiến mà còn chống ngay với trật tự tư sản.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 39 -
2. Nguyên nhân thất bại.
- Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của cuộc cách mạng 1848 – 1849 là sự phản bội của giai
cấp tư sản tự do. Ban đầu những kẻ đại biểu cho tầng lớp này thường đóng vai trò lãnh đạo cách mạng với
ý đồ lợi dụng lực lượng quần chúng làm áp lực cho cuộc đấu tranh đòi quyền lợi giai cấp hẹp hòi của
chúng. Trong quá trình đấu tranh, bọn chúng sợ hãi những hoạt động tích cực của giai cấp công nhân nên
sẵn sàng thỏa hiệp với chính quyền quân chủ với bọn quân phiệt phản động và tất cả các thế lực của chế
độ cũ để chống lại nhân dân.
- Những người dân chủ tư sản và tiểu tư sản đã đóng vai trò đáng chú ý trong cuộc cách mạng. Nhưng
trong quá trình đấu tranh họ đã bộc lộ rõ tính dao động, do dự và thiếu quyết tâm. Tính chất không triệt
để và nửa chừng đã vạch rõ bản chất hai mặt của tầng lớp tiểu tư sản và trong thực tế, nó là nguyên nhân
làm cho phong trào cách mạng bò thất bại.
- Sự can thiệp của thế lực phản động quốc tế mà điển hình là “Đồng minh thần thánh” là một đòn
giáng nặng nề vào phong trào cách mạng, là một trong những nguyên nhân làm phong trào thất bại. Sự
phát triển kinh tế đầu những năm 50 sau cuộc khủng hoảng nặng nề 1845 – 1847 gây nên những ảnh
hưởng khách quan đối với chiều hướng thoái trào chung của phong trào cách mạng châu Âu.
- Về phía chủ quan, giai cấp tư sản chưa lớn mạnh, số lượng ít ỏi, và chưa thể tập trung, trình độ giác
ngộ và tổ chức còn nhiều hạn chế, đường lối chính trò chưa được xác đònh. Do đó, giai cấp vô sản chưa thể
giành được bá quyền lãnh đạo trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chưa thể tập hợp xung quanh mình
lực lượng dân chủ ở thành thò và nông thôn mà trái lại ở nhiều nơi còn bò cô lập với đông đảo quần chúng
nhân dân. Những nhược điểm đó cũng là nguyên nhân đưa phong trào đi đến thất bại.
3. Những bài học kinh nghiệm.
- Cuộc cách mạng 1848-1849 là những thử thách quan trọng sau khi “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
ra đời, là sự kiểm nghiệm tính chất đúng đắn của những nguyên lý của chủ nghóa Marx. Sự thất bại của
cuộc cách mạng đã vạch trần thực chất các trào lưu Chủ nghóa xã hội tiểu tư sản. Tuyên truyền cho sự
điều hoà giữa các giai cấp, thỏa hiệp với bọn tư sản tự do. Do vậy chỉ có học thuyết về chủ nghóa cộng
sản khoa học do Marx và Engels sáng lập ra mới là hoàn toàn đúng đắn cho phong trào đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản.
- Tất cả các cuộc cách mạng trước kia đều làm cho bộ máy nhà nước thêm hoàn bò và biến nó thành
công cụ đàn áp quần chúng. Còn nhiệm vụ của cuộc cách mạng vô sản là phải đập tan bộ máy nhà nước
cũ, xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản.
- Giai cấp vô sản tuy còn ảo tưởng vào giai cấp tư sản và bọn vua chúa phong kiến, nhưng đã nhiều cố
gắng để hoạt động với tư cách là một giai cấp độc lập, song trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, họ đã bò lẻ loi.
Giai cấp vô sản chưa biết xây dựng lực lượng cách mạng dân chủ và tiến bộ trong xã hội, đặc biệt liên
minh với giai cấp nông dân. Do vậy thiết lập khối liên minh công nông làm cơ sở cho nền chuyên chính
vô sản là điều kiện không thể thiếu để cho cách mạng giành được thắng lợi.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 40 -
- Thực tế cách mạng 1848-1849 đã vạch trần tính chất phản bội của giai cấp tư sản, tính chất bấp bênh
của những người tiểu tư sản. Giai cấp công nhân thấy rõ sự cấp bách phải thành lập chính đảng vô sản đã
khả năng lãnh đạo quần chúng đấu tranh cho lợi ích độc lập của giai cấp mình.
-Từ trong các cuộc đấu tranh quyết liệt, giai cấp vô sản đã sáng tạo ra phương pháp cách mạng của
mình: dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng thông qua con đường khởi nghóa vũ
trang, xem đó như là một nghệ thuật, phải tiến công kẻ thù để giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Những bài học của cuộc cách mạng: 1848-1849 đã được Marx và Engels tổng kết trong các tác
phẩm “đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Ngày 18 tháng sương mù của Louis Bouaparte”, “Cách mạng và phản
cách mạng ở Đức” và hàng loạt bài báo khác. Có thể coi đó là những tác phẩm mẫu mực về sự vận dụng
quan điểm duy vật lòch sử vào việc nghiên cứu những diễn biến của thời cuộc. Trải qua thực tiễn cách
mạng, nhất là từ sau công xã Paris, những luận điểm của chủ nghóa Marx ngày càng được bổ sung phong
phú.
4. Ý nghóa lòch sử
Cuộc cách mạng năm 1848 – 1849 bò thất bại trên hầu hết các nước châu u. Nhưng nó đã để lại
ý nghóa lòch sử lớn: chế độ phong kiến và những tàn dư của nó bò lung lay tận gốc rễ. Những cuộc cách
mạng đã tạo điều kiện để thiết lập và phát triển chủ nghóa tư bản. Trình độ giác ngộ và tổ chức của công
nhân có những bước trưởng thành mạnh mẽ tạo những tiền đề cần thiết đẩy mạnh phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân trong phạm vi một nước và trên toàn thế giới.
V. CUỘC CẢI CÁCH NÔNG NÔ Ở NGA GIỮA THẾ KỶ XIX
Trong khi hầu hết các nước châu u tiến hành cuộc cách mạng tư sản thì ở nước Nga diễn ra
cuộc cách mạng nông nô-1861, với mục đích nhằm điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa đòa chủ và nông dân
nhằm tạo ra điều kiện mới cho chủ nghóa tư bản ở Nga phát triển.
Nhưng giai cấp tư sản Nga yếu ớt không đảm đương được vai trò lòch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống phong kiến. Chính phủ Nga hoàng đứng ra ban hành một số cải cách nhằm xoa dòu phong trào đấu
tranh mạnh mẽ của quần chúng, duy trì đòa vò thống trò và bảo vệ lợi ích của giai cấp quý tộc, đòa chủ.
Về mặt khách quan, đạo luật thủ tiêu chế độ nông nô năm 1861 và những cải cách tiếp theo có
tác dụng tạo một số điều kiện nhất đònh cho sự phát triển chủ nghóa tư sản ở Nga. Nó làm tăng nguồn
cung cấp sức lao động cho công nghiệp, nâng cao một bước đòa vò chính trò của giai cấp tư sản, biến nước
Nga Sa hoàng thành một nước quân chủ tư sản.
Nhưng cuộc cải cách nữa chừng không triệt để ở Nga còn duy trì nhiều dấu vết của trật tự phong
kiến, thể hiện trên các mặt của chế độ chính trò và kinh tế xã hội. Chính quyền chuyên chế vẫn ở trong
tay giai cấp quý tộc và đòa chủ. Các cơ quan tại đòa phương, viện Duma thành phố, toà án, báo chí… đều
bò phụ thuộc vào Nga hoàng. Hầu hết ruộng đất tốt vẫn thuộc về quý tộc. Còn nông dân vẫn phải chòu
các thứ tô thuế nặng nề, các đóng góp phức tạp như chế độ nghóa vụ tạm thời. Hàng triệu quần chúng
nông dân được “Giải phóng” về mặt danh nghóa không có quyền hành thật sự và vẫn bò lệ thuộc vào
ruộng đất của bọn quý tộc.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 41 -
Cải cách nông nô cũng không tạo nên cho người công nhân tự do trong nền sản xuất tư bản chủ nghóa
hay người nông dân tự do mà vẫn là người lónh canh lệ thuộc bò trói buộc trên lãnh đòa của lãnh chúa hay
đòa chủ.
Những trở lực của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghóa chưa được giải quyết căn bản.
IV. NỘI CHIẾN Ở NƯỚC MỸ 1861-1865
Cách mạng tư sản Mỹ giành được thắng lợi. Nhưng cho đến trước cuộc nội chiến, trong gần 100
năm, kinh tế Mỹ chủ yếu phát triển theo hai con đường: con đường công thương nghiệp ở miền Bắc và
con đường chế độ nô lệ đồn điền ở các bang miền Nam. Sự phát triển kinh tế ở hai miền tạo ra mâu thuẫn
không tránh khỏi.
Điều đáng chú ý khi nước Mỹ bước vào thời kỳ phát triển với đặc trưng nông nghiệp ở phía Bắc
theo mô thức kinh tế trại chủ nhỏ chiếm ưu thế sản xuất phục vụ thò trường công nghiệp. Nhưng ở miền
Nam, nền kinh tế nông nghiệp vẫn nằm trong tay các chủ đồn điền lớn dựa trên sự bóc lột nô lệ da đen.
Nhưng từ năm 1820, kinh tế “Trại chủ” đã tạo nên con đường khác với nhiều nước châu u,
được gọi là con đường “Kiểu Mỹ”. Nhưng con đường phát triển nông nghiệp tư bản Mỹ không thể dung
nạp chế độ nô lệ đồn điền miền Nam và bản thân những người nô lệ ngày càng đông sẽ đấu tranh đòi giải
phóng. Mâu thuẫn trên đã dẫn nước Mỹ một cuộc nội chiến không tránh khỏi. Cuộc nội chiến nhằm quét
sạch những tàn dư của chế độ nô lệ, của phương thức sản xuất lạc hậu mở đường cho chủ nghóa tư bản Mỹ
phát triển.
Bên cạnh đó, sau cuộc chiến tranh giành độc lập, Hiến pháp Mỹ đã mặc nhiên công nhận sự tồn
tại của chế độ nô lệ. Quyền lợi giữa hai tập đoàn tư bản công thương nghiệp và chủ nô và miền Nam
không thể điều hoà được nữa. Nội chiến ắt phải xảy ra.
Nội chiến ở Mỹ kéo dài từ 1861-1865, giữa hai phe Hiệp bang (gồm 11 bang ở miền Nam) và
liên bang do Abraham Lincoln làm tổng thống đứng đầu.
Cuộc nội chiến kết thúc vào tháng 4 năm 1865. Trong cuộc chiến tranh này, cả hai phe mất
chừng 60 vạn quân. Quân đội phe liên bang giành được thắng lợi cuối cùng. Chính trong lễ mừng chiến
thắng 14/4/1865, tổng thống Lincoln bò ám sát.
Sau thắng lợi của phe liên bang, chế độ nô lệ được tuyên bố huỷ bỏ. Trong tình hình nước Mỹ trở
nên khá phức tạp. Cuộc đấu tranh giữa các phe phái tư sản và chủ nô vẫn còn diễn ra vô cùng quyết liệt.
Sự kỳ thò chủng tộc vẫn chế ngự đời sống xã hội nhiều nơi trên đất Mỹ. Tuy nhiên kết quả to lớn của cuộc
nội chiến là chế độ nô lệ bò xoá bỏ, con đường phát triển tư bản kiểu Mỹ trong nông nghiệp được mở
rộng, cơ sở cho sự phát triển công nghiệp được tạo nên một cách đầy hứa hẹn. Nhờ vậy cuối thế kỷ XIX
nước Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp, nhanh chóng đưa nước Mỹ lên vò trí hàng đầu
của các nước tư bản trên thế giới.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 42 -
CHƯƠNG VI : QUỐC TẾ THỨ NHẤT
I. TIỀN ĐỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ.
Trong những năm 50-60 của thế kỷ XIX, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp,
thương nghiệp, giao thông vận tải, thò trường thế giới của chủ nghóa tư bản đã mở rộng. Tình hình đó tạo
nên điều kiện khách quan cho việc liên hệ, đoàn kết của giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước.
Tuy nhiên sự phát triển của chủ nghóa tư bản đã dẫn tới sự bần cùng hoá của giai cấp công nhân
ngày càng cao, nó làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng thêm sâu sắc.
Nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế 1857-1859-Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên trong lòch sử của chủ
nghóa tư bản đã tác động rất lớn trong việc nâng cao ý thức đấu tranh của giai cấp công nhân. Phong trào
công nhân phát triển ngày càng cao thì tình trạng thiếu một tổ chức vững vàng và bò ảnh hưởng những sắc
thái tư tưởng chính trò “Phi vô sản” là một nhược điểm đáng chú ý. Do vậy cần phải làm cho giai cấp vô
sản giác ngộ về vò trí, đặc điểm và trách nhiệm lòch sử của mình thì cần phải có một tổ chức tập trung
cách mạng.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất dân tộc phát triển mạnh mẽ. Nó cũng là
một nội dung hoạt động chủ yếu của phong trào công nhân trong giai đoạn này. Từ trong những cuộc mít
tinh, biểu tình đoàn kết với nhân dân Ba lan chống ách thống trò của một số nước phong kiến ở châu u
như Nga, o, Phổ… cũng đã làm nảy sinh tư tưởng thành lập “Hội liên hiệp lao động quốc tế” (Quốc tế
I).
Trong những ngày sôi sục cách mạng ở châu u, Marx và Engels đã theo dõi và tham gia phong
trào đấu tranh của công nhân. Sau khi bò thất bại, những lãnh tụ của giai cấp vô sản đã tổng kết kinh
nghiệm của cuộc cách mạng 1848-1849 ở châu u, tuyên truyền học thuyết chủ nghóa cộng sản trong
phong trào công nhân, chú ý bồi dưỡng cán bộ của phong trào nhằm xây dựng một tổ chức quốc tế của
giai cấp vô sản, thống nhất giai cấp vô sản trong từng nước và trên thế giới để chống lại “Những độc hại
của các khuynh hướng cơ hội chủ nghóa” trong phong trào công nhân và chủ nghóa tư bản trên toàn thế
giới.
II. SỰ THÀNH LẬP QUỐC TẾ THỨ NHẤT : TUYÊN NGÔN VÀ ĐIỀU LỆ.
Ngày 22-7-1863. Theo sáng kiến của hội đồng các hội công liên Anh và Pháp đã đi tới một quyết
đònh thành lập một tổ chức quốc tế của giai cấp vô sản. Và sau đó một y ban trù bò đã được thành lập,
có nhiệm vụ tổ chức một tổ chức quốc tế của giai cấp vô sản, thiết lập mối liên hệ quốc tế của giai cấp vô
sản để xúc tiến việc thành lập Hội.
Ngày 28-9-1864, tại hội trường Saint Martin ở Luân Đôn Hội liên hiệp lao động quốc tế (Quốc tế
I) được thành lập. Hội đã bầu ra một ban chấp hành Trung ương gồm 32 người. Việc khởi thảo tuyên
ngôn và điều lệ được trao cho một tiểu ban trong đó có Marx, nhà cách mạng lỗi lạc và có uy tín lớn lao
trong giai cấp vô sản.
Vận dụng một cách mềm dẻo và trung thành với những nguyên lý cơ bản đã được đề ra trong Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản Marx đã hoàn thành Tuyên ngôn và Điều lệ của Hội liên hiệp lao động Quốc tế,
và được Ban chấp hành Trung ương nhất trí thông qua vào ngày 1-11-1864.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 43 -
Nội dung tuyên ngôn bao gồm những vấn đề chính:
1. Tổng kết tình hình kinh tế – xã hội của các nước u – Mỹ từ 1948 đến năm 1864. Bóc trần bản chất
xấu xa của chủ nghóa tư bản.
2. Tổng kết phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Nhưng thành công và nguyên nhân thất bại.
Đáng chú ý tuyên ngôn đã nêu ra yêu cầu sự cần thiết có sự lãnh đạo của một chính Đảng và phong
trào công nhân “coi việc giành chính quyền là một nghóa vụ vó đại”!
3. Tuyên ngôn nhấn mạnh nhiệm vụ đoàn kết của giai cấp vô sản. Bản tuyên ngôn kết thúc bằng khẩu
hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.
- Điều lệ của Quốc tế I là bức phác họa đầu tiên về chế độ tập trung dân chủ trong tổ chức của công
nhân. Nội dung điều lệ bao gồm hai phần:
1. Phần mở đầu có tính chất cương lónh nên một số nhận đònh có tính chất quy luật tất yếu về mâu thuẫn
giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, cũng như vai trò của giai cấp công
nhân và sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân trên phạm vi toàn thế giới.
2. Phần cụ thể gồm 13 điều với nội dung cơ bản là mục đích của tổ chức hội và nguyên tắc của tổ chức
hội.
Việc thông qua bản Tuyên ngôn và Điều lệ đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào công
nhân mà trong đó Marx và Engels góp phần cống hiến rất lớn lao tập hợp được mọi tổ chức của công
nhân trong Quốc tế thứ nhất, Marx và Engels còn không ngừng tiếp tục đấu tranh nhằm nâng cao trình độ
của giai cấp công nhân và đánh bại mọi học thuyết xã hội chủ nghóa phi vô sản khác.
III. QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ ĐẤU TRANH CỦA QUỐC TẾ THỨ NHẤT.
- Quá trình đi tới thành lập Quốc tế I, cũng như quá trình hoạt động và tồn tại của tổ chức này (từ 1865 –
1872) là quá trình đấu tranh gay gắt, liên tục giữa đường lối đúng đắn của giai cấp vô sản được sự chỉ đạo
của chủ nghóa Marx với chủ nghóa cải lương, vô chính phủ – không cách mạng và khoa học như chủ nghóa
Brudhonce (ở Pháp), phái cơ hội công đoàn Anh và phái Lassalle ở Đức , phái Bakounine ở Nga và các
phân hội của nó ở Thụy só, Bỉ, Ý, Tây Ban Nha v.v… Cuộc đấu tranh xoay quanh các vấn đế về việc xác
đònh vai trò của giai cấp vô sản, vấn đề nội dung kinh tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghóa tư bản,
vấn đề thái độ của giai cấp vô sản trong phong trào giải phóng dân tộc và chiến tranh – hòa bình…
Đến năm 1870, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến, cuộc chiến tranh Pháp – Phổ bùng nổ đã
gây ra rất nhiều khó khăn cho cho hoạt động của Quốc tế I. Cuộc đấu tranh để chống lại hoàn toàn trào
lưu tư tưởng phi vô sản đang gieo rắc vào phong trào công nhân tạm thời bò gián đoạn.
Dẫu gặp nhiều khó khăn, nhưng cuộc đấu tranh đó đã đánh bại hoàn toàn phái Brudhonce, đã
giáng những đòn nặng nề vào bè lũ Lasselle và chủ nghóa cơ hội ở Anh, đã tấn công mạnh vào chủ nghóa
Balcounine. Nhờ đó, chủ nghóa Marx ngày càng đi sâu vào phong trào công nhân, tạo tư tưởng cho chủ
nghóa Mác dần dần chiếm đòa vò thống trò và đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức của giai cấp vô sản, thực
hiện nhiệm vụ vẻ vang và đoàn kết các lực lượng công nhân ở các nước, chuẩn bò tư tưởng và đội ngũ cho
cuộc đấu tranh lâu dài giải phóng hoàn toàn lao động. Le’nine đã đánh giá: Chính Quốc tế I đã đặt nền
tảng cho phong trào Cộng sản Quốc tế, và tấm gương cương quyết, kiên trì, sách lược mềm dẻo của Marx
và Engels trong cuộc đấu tranh chống các trào lưu xã hội chủ nghóa “dưới mọi màu sắc” phi vô sản là
những bài học vó đại trong lòch sử của phong trào công nhân chống lại những ảnh hưởng của các khuynh
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử
Lòch sử thế giới cận đại
- 44 -
hướng cơ hội chủ nghóa, không ngừng giương cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế, thực hiện lời kêu gọi vó đại
của Marx.
VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC, ĐOÀN KẾT LẠI.
Nguyễn Công Chất
Khoa Lòch Sử