1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay ở nước ta, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là vấn đề quan
trọng, cấp bách diễn ra sôi nổi về lí luận cũng như thực tiễn. Định hướng đổi mới
PPDH được nghị quyết TW lần 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII khẳng định
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện nết tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp
tiên tiến, các PPDH hiện đại vào quá trình dạy học đảm bảo thời gian tự học, tự
nghiên cứu của học sinh (HS)”. Từ định hướng này và đáp ứng yêu cầu của xã hội,
Đảng ta đã ban hành Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2015 của Thủ
tướng Chính Phủ về việc phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa (SGK)
phổ thông. Chương trình mới, SGK mới lấy HS làm trung tâm, phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo, khả năng tự học của HS; tăng cường tính tương tác trong dạy
và học giữa thầy với trò, trò với trò và giữa các thầy giáo, cô giáo đòi hỏi phải có
PPDH tích cực để thực hiện được mục tiêu đó.
Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột (PPDH BTNB) là PPDH tích cực, thích
hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, đặc biệt là đối với bậc tiểu
học khi HS đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các kiến thức khoa học, hình
thành khái niệm cơ bản về khoa học tập trung phát triển khả năng nhận thức của HS,
giúp các em tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ, từ đó khám phá ra bản chất
của vấn đề. Phương pháp này giúp các em hiểu rõ câu trả lời mình tìm được và quan
trọng hơn các em biết cách tự tìm ra tri thức, HS trở thành chủ thể của việc tìm kiếm
tri thức phát huy hết khả năng của mình. Qua đó HS sẽ hình thành khả năng suy luận
theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác phong, phương pháp làm việc
khi trưởng thành. Tạo lập cho HS thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm
say mê sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề.
Môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học là môn có chương trình nội dung phù hợp để
vận dụng PPDH BTNB. Kiến thức được đánh giá là nhẹ nhàng, thực tế, gần gũi với
HS. Nhiều nội dung áp dụng dễ kiếm mẫu vật có thể làm thí nghiệm hoặc quan sát
thực tế. Bước đầu hình thành cho HS phương pháp học tập mang tính chất tìm tòi
nghiên cứu rèn luyện nếp tư duy sáng tạo. Thực tiễn trong dạy học môn Tự nhiên và
2
Xã hội ở trường Tiểu học cho thấy, giáo viên (GV) còn gặp nhiều khó khăn trong việc
sử dụng PPDH. Các PPDH truyền thống vẫn chiếm ưu thế, HS học tập còn thụ động,
không phát huy tính tích cực, tự giác, pháp triển tư duy cho các em. Việc vận dụng
PPDH BTNB, PPDH tích cực vẫn chưa thực sự được áp dụng nhiều và hiệu quả.
Xuất phát từ lí luận và thực tiễn trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Sưu tầm và
thiết kế một số bài dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 ở tiểu học theo
phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Khảo sát được thực trạng sử dụng PPDH BTNB trong dạy học môn Tự nhiên và
Xã hội lớp 1, 2, 3 ở một số trường Tiểu học.
- Sưu tầm được các bài dạy học theo PPDH BTNB trong dạy học môn Tự nhiên
và Xã hội đã triển khai ở tiểu học.
- Thiết kế được một số bài dạy học theo PPDH BTNB trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội ở lớp 1, 2, 3.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tác dụng của việc sử dụng PPDH BTNB
và sự hợp lí của các bài thiết kế theo PPDH này trong dạy học môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 1, 2, 3 ở tiểu học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của PPDH BTNB.
- Khảo sát thực trạng sử dụng PPDH BTNB trong dạy học môn Tự nhiên và Xã
hội của GV ở một số trường Tiểu học.
- Sưu tầm các bài dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 đã được thiết kế
theo PPDH BTNB.
- Thiết kế một số bài dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 theo PPDH BTNB.
- Thực nghiệm sư phạm dạy học theo PPDH BTNB.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lí luận của PPDH BTNB.
- Thực tiễn của việc sử dụng PPDH BTNB trong dạy học môn Tự nhiên và Xã
hội ở tiểu học.
- Sưu tầm các bài dạy học theo PPDH BTNB đã được sử dụng ở tiểu học.
- Vận dụng PPDH BTNB trong thiết kế một số bài dạy học môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 1, 2, 3.
3
- Đánh giá tác dụng của PPDH BTNB trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp
1, 2, 3 ở tiểu học.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
PPDH BTNB trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3.
5.2. Khách thể nghiên cứu
- Quá trình giáo dục và dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 1, 2, 3.
- GV và HS khối lớp 1, 2, 3.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phân tích các tài liệu có liên quan đến phạm vi, nội dung nghiên cứu để thu thập
thông tin, tổng hợp các vấn đề mà xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở
trường Tiểu học để thu thập thông tin cần thiết cho đề tài.
6.2.2. Phương pháp điều tra: Điều tra được tiến hành theo mẫu phiếu hỏi để thu được
những thông tin làm rõ việc vận dụng dạy học Bàn tay nặn bột trong tổ chức cho HS
khám phá nội dung môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3.
6.2.3. Phương pháp thực nhiệm sư phạm: Từ kết quả tìm hiểu tài liệu và các bài viết
có liên quan về PPDH BTNB, tôi sử dụng phương pháp thực nghiệm sư phạm để thử
nghiệm một số tiết dạy vào thực tế sư phạm với mục đích khẳng định tính hiệu quả,
tính khả thi của vấn đề nghiên cứu.
6.3. Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng thống kê toán học để tổng hợp kết quả
điều tra nhằm chứng minh độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Sưu tầm và thiết kế một số bài dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 theo
PPDH BTNB và tiến hành thực nghiệm tại trường Tiểu học Thanh Lãng A (TT Thanh
Lãng huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc).
8. Giả thuyết khoa học
Nếu trong quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội GV biết sưu tầm, thiết kế
và vận dụng PPDH BTNB theo một quy trình hợp lí và phù hợp với điều kiện cụ thể ở
trường Tiểu học trong dạy học một số nội dung trong chương trình môn Tự nhiên và
4
Xã hội thì sẽ góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của HS, phát triển tư duy hệ
thống và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học.
9. Cấu trúc của đề tài
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung.
+ Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
+ Chương 2: Sưu tầm và thiết kế một số bài dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp
1, 2, 3 ở tiểu học vận dụng PPDH BTNB.
+ Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
- Kết luận và kiến nghị.
- Tài liệu tham khảo.
- Phụ lục.
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Đặc điểm tâm lý của HS tiểu học
1.1.1.1. Đặc điểm hoạt động nhận thức của HS tiểu học
HS tiểu học thuộc lứa tuổi từ 6 đến 11 tuổi (từ lớp 1 đến lớp 5). Điều kiện sống
và hoạt động của HS tiểu học có những thay đổi lớn, do đó đặc điểm tâm lý nói chung
và đặc điểm nhận thức của các em cũng có những thay đổi cơ bản.
Tri giác của các em HS đầu tiểu học còn thiên về cảm xúc, việc tri giác thiếu mục
đích, kế hoạch rõ ràng, tri giác vẫn thường gắn với hoạt động. HS cuối cấp tiểu học đã
biết tìm các dấu hiệu đặc trưng, chi tiết để đi đến so sánh, tổng hợp, xác định mối liên
hệ giữa các sự vật. Tri giác của các em mang tính mục đích, phương hướng rõ ràng,
khả năng quan sát tinh tế, nhạy bén, tìm ra được những nét đặc thù của đối tượng. Tuy
nhiên tri giác về thời gian, không gian cũng như ước lượng về thời gian, không gian
của các em còn hạn chế.
HS tiểu học mang lối tư duy trực quan cụ thể, lấy các đối tượng cụ thể thay cho
định nghĩa về đối tượng. Hoạt động phân tích, tổng hợp của các em còn sơ đẳng. Các
em thường gặp một số khó khăn nhất định khi cần phải xác định mối quan hệ nhân
quả; dễ bị nhầm lẫn mối quan hệ nguyên nhân – kết quả.
Ngôn ngữ của HS tiểu học phát triển mạnh cả về ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng.
Chỉ khi bước vào tiểu học các em mới được làm quen với hình thức mới của hoạt động
ngôn ngữ đó là ngôn ngữ viết. Nhờ tham gia các hoạt động trong và ngoài nhà trường,
tiếp xúc rộng rãi với những người xung quanh và tiếp thu tri thức các môn học mà vốn
từ ngữ của các em trở nên phong phú, chính xác. Trong quá trình học tập ở trường Tiểu
học, các em sẽ được học các quy tắc ngữ pháp cơ bản và rèn luyện cách phát âm, dùng
từ, trên cơ sở đó khả năng ngôn ngữ và năng lực nhận thức của trẻ được phát triển.
Ở lứa tuổi này tưởng tượng của HS tiểu học đã phát triển và phong phú hơn trẻ
mẫu giáo. Song quá trình tưởng tượng của trẻ còn tản mạn và ít có tổ chức. Hình ảnh
tưởng tượng chưa được gọt giũa, còn hay thay đổi, chưa bền vững. Càng về những
năm cuối bậc tiểu học, vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú hơn nên tưởng tượng
của trẻ càng hiện thực hơn.
6
Cùng với đó, HS tiểu học có trí nhớ trực quan phát triển, chiếm ưu thế hơn từ
ngữ lô-gic. Dần dần cùng với quá trình học tập lên các lớp cao hơn việc ghi nhớ có ý
thức hình thành và phát triển, các em dần hiểu được mối liên hệ có ý nghĩa bên trong
các tài liệu các em cần ghi nhớ. Trí nhớ của HS phát triển phụ thuộc vào nội dung và
PPDH. Cần chú ý đặc biệt tới việc hình thành kiểu hoạt động học tập mới, phù hợp với
những nguyên tắc của cách dạy học dựa trên cơ sở khái quát nội dung để phát triển
toàn bộ trí tuệ, nhân cách trong đó có trí nhớ của HS.
Khả năng chú ý có chủ định của HS tiểu học còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý
một cách có ý chí chưa mạnh. HS cấp đầu tiểu học thường chú ý khi có động cơ gần,
cấp cuối tiểu học các em đã có thể duy trì chú ý có chủ định ngay cả khi có động cơ
xa. Chính vì vậy, HS các lớp 1, 2, 3 thường quên những điều GV dặn dò vào cuối buổi
học, thường bỏ sót chữ cái trong từ… HS tiểu học có khả năng phát triển chú ý có chủ
định trong quá trình học tập. Chính quá trình học tập đòi hỏi HS phải rèn luyện thường
xuyên chú ý có chủ định, rèn luyện ý chí [12].
1.1.1.2. Đặc điểm nhân cách của HS tiểu học
Nhân cách của HS tiểu học là nhân cách đang được hình thành. Trong giai đoạn
này, các em lớn dần, hoàn thiện về cơ thể, đồng thời phát triển về tâm lý. Nhu cầu
nhận thức của các em là nhu cầu tinh thần. Nhu cầu tham quan, đọc sách cũng tăng lên
với sự phát triển của kỹ năng quan sát, kỹ năng đọc. Lúc đầu là nhu cầu có tính chất
chung, sau đó là nhu cầu có tính chọn lọc theo nhu cầu, sở thích của các em.
Ở lứa tuổi này dễ nhận ra tính xung động trong hành vi của các em. Do vậy mà
hành vi của HS tiểu học dễ có tính tự phát, dễ có những phản ứng nhanh chóng, dễ vi
phạm nội dung và bị xem là “vô kỷ luật”. Các em rất hồn nhiên trong quan hệ với mọi
người, với thầy cô, với người lớn, với bạn bè.
HS tiểu học rất hồn nhiên nên các em rất cả tin, trẻ thường tin tuyệt đối vào thầy
cô, tin vào sách, tin vào người lớn. Đặc biệt tính bắt chước của các em vẫn còn đậm
nét. Các em bắt chước hành vi, cử chỉ của GV, của những người được các em coi như
thần tượng, kể cả những nhân vật trong truyện, trong phim ảnh. Tính cách của HS tiểu
học có nhược điểm thường bất thường, bướng bỉnh, thích hoạt động và thích làm việc
gì đó phù hợp với mình, nên có thể sớm hình thành ở các em thói quen đối với lao
động. HS tiểu học thường thể hiện cảm xúc mạnh mẽ, dễ xúc động, khó kiềm chế, khó
7
làm chủ tình cảm của mình. Tình cảm của HS tiểu học thường chưa bền vững. Tình
cảm đạo đức phát triển mạnh mẽ.
Tóm lại, HS tiểu học là độ tuổi nhiều xúc cảm. nhiều tình cảm mới đang được
hình thành nhưng chưa bền vững. Vì thế, trong dạy học và giáo dục GV cần chú ý đầy
đủ những đặc điểm này để hình thành những tình cảm tích cực phong phú, đa dạng cho
các em [12].
1.1.2. Khái quát về môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3
1.1.2.1. Mục tiêu môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3
Môn Tự nhiên và Xã hội là một bộ phận của hệ thống các môn học chính khóa
trong chương trình tiểu học. Cũng như các môn học khác ở tiểu học, mục tiêu môn Tự
nhiên và Xã hội được thể hiện ở các mục tiêu thành phần sau:
* Kiến thức
Có một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về:
- Con người và sức khoẻ (cơ thể người, cách giữ vệ sinh cơ thể và phòng tránh
bệnh tật, tai nạn).
- Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội.
* Kĩ năng
Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng:
- Tự chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, ứng xử hợp lí trong đời sống để phòng
tránh một số bệnh tật và tai nạn.
- Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt những hiểu
biết của mình về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong Tự nhiên và Xã hội.
* Thái độ
Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi:
- Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và
cộng đồng.
- Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương [2].
1.1.2.2. Nội dung chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3
Nội dung chương trình môn Tự nhiên và Xã hội được cấu trúc đồng tâm từ lớp 1
đến lớp 3 theo ba chủ đề lớn: Con người và sức khỏe, Xã hội, Tự nhiên. Các chủ đề
này được mở rộng và nâng cao theo nguyên tắc từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức
8
tạp, giúp HS có cách nhìn về con người, thiên nhiên và cuộc sống xung quanh dưới
dạng tổng thể đơn giản.
Lớp 1:
* Gồm 3 chủ đề lớn:
- Chủ đề Con người và sức khỏe: gồm 9 bài mới, 1 bài ôn tập và kiểm tra.
- Chủ đề Xã hội: gồm 10 bài mới, 1 bài ôn tập và kiểm tra.
- Chủ đề Tự nhiên: gồm 13 bài mới, 1 bài ôn tập và kiểm tra.
Môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 1 dạy 1 tiết/tuần x 35 tuần = 35 tiết.
* Nội dung của các chủ đề:
- Con người và sức khoẻ:
+ Cơ quan vận động: cơ, xương, khớp xương; một số cử động vận động, vai trò
của cơ và xương trong cử động vận động; phòng cong vẹo cột sống; tập thể dục và vận
động thường xuyên để cơ, xương phát triển.
+ Cơ quan tiêu hoá: nhận biết trên sơ đồ; vai trò của từng bộ phận trong hoạt
động tiêu hoá; ăn sạch, uống sạch, phòng nhiễm giun.
- Xã hội:
+ Gia đình: công việc của các thành viên trong gia đình; cách bảo quản và sử
dụng một số đồ dùng trong nhà; giữ sạch môi trường xung quanh nhà ở và khu vệ sinh,
chuồng gia súc; an toàn khi ở nhà (phòng tránh ngộ độc).
+ Trường học: các thành viên và công việc của họ; cơ sở vật chất của nhà trường;
giữ vệ sinh trường học; an toàn khi ở trường.
+ Huyện hoặc quận nơi đang sống: Cảnh quan tự nhiên; Nghề chính của nhân
dân; Các đường giao thông và phương tiện giao thông; Một số biển báo trên đường bộ,
đường sắt; An toàn giao thông (quy tắc đi những phương tiện giao thông công cộng).
- Tự nhiên:
+ Thực vật và động vật: một số cây cối và một số con vật sống ở trên mặt đất,
dưới nước và trên không.
+ Bầu trời ban ngày và ban đêm: Mặt Trời, cách tìm phương hướng bằng Mặt
Trời; Mặt Trăng và các vì sao.
Lớp 2:
* Gồm 3 chủ đề lớn:
- Chủ đề Con người và sức khỏe: gồm 9 bài mới, 1 bài ôn tập và kiểm tra.
9
- Chủ đề Xã hội: gồm 12 bài mới, 1 bài ôn tập và kiểm tra.
- Chủ đề Tự nhiên: gồm 10 bài mới, 2 bài ôn tập và kiểm tra.
Môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 dạy 1 tiết/tuần x 35 tuần = 35 tiết
* Nội dung của các chủ đề:
- Con người và sức khoẻ:
+ Cơ quan vận động: cơ, xương, khớp xương; một số cử động vận động, vai trò
của cơ và xương trong cử động vận động; phòng cong vẹo cột sống; tập thể dục và vận
động thường xuyên để cơ, xương phát triển.
+ Cơ quan tiêu hoá: nhận biết trên sơ đồ; vai trò của từng bộ phận trong hoạt
động tiêu hoá; ăn sạch, uống sạch, phòng nhiễm giun.
- Xã hội:
+ Gia đình: công việc của các thành viên trong gia đình; cách bảo quản và sử
dụng một số đồ dùng trong nhà; giữ sạch môi trường xung quanh nhà ở và khu vệ sinh,
chuồng gia súc; an toàn khi ở nhà (phòng tránh ngộ độc).
+ Trường học: các thành viên và công việc của họ; cơ sở vật chất của nhà
trường; giữ vệ sinh trường học; an toàn khi ở trường.
+ Huyện hoặc quận nơi đang sống: cảnh quan tự nhiên; nghề chính của nhân dân;
các đường giao thông và phương tiện giao thông; một số biển báo trên đường bộ,
đường sắt; an toàn giao thông (quy tắc đi những phương tiện giao thông công cộng).
- Tự nhiên:
+ Thực vật và động vật: một số cây cối và một số con vật sống ở trên mặt đất,
dưới nước và trên không.
- Bầu trời ban ngày và ban đêm: Mặt Trời, cách tìm phương hướng bằng Mặt
Trời; Mặt Trăng và các vì sao.
Lớp 3
* Gồm 3 chủ đề lớn:
- Chủ đề Con người và sức khỏe: gồm 16 bài mới, 2 bài ôn tập và kiểm tra.
- Chủ đề Xã hội: gồm 18 bài mới, 3 bài ôn tập và kiểm tra.
- Chủ đề Tự nhiên: gồm 29 bài mới, 2 bài ôn tập và kiểm tra.
Môn tự nhiên và xã hội lớp 3 dạy 2 tiết/tuần x 35 tuần = 70 tiết.
* Nội dung các chủ đề:
- Con người và sức khoẻ:
10
+ Cơ quan hô hấp: nhận biết trên sơ đồ; tập thở sâu; thở không khí trong sạch;
phòng một số bệnh lây qua đường hô hấp).
+ Cơ quan tuần hoàn: nhận biết trên sơ đồ; hoạt động lao động và tập thể dục thể
thao vừa sức.
+ Cơ quan bài tiết nước tiểu: nhận biết trên sơ đồ; giữ vệ sinh.
+ Cơ quan thần kinh: nhận biết trên sơ đồ; ngủ, nghỉ ngơi và học tập, làm việc
điều độ.
- Xã hội:
+ Gia đình: mối quan hệ họ hàng nội, ngoại (cô dì, chú bác, cậu và các anh chị
em họ), quan hệ giữa sự tăng số người trong gia đình và số người trong cộng đồng, an
toàn khi ở nhà (phòng cháy khi đun, nấu).
+ Trường học: một số hoạt động chính ở nhà trường Tiểu học, vai trò của GV và
HS trong các hoạt động đó; an toàn khi ở trường (không chơi các trò chơi nguy hiểm).
+ Tỉnh hoặc thành phố nơi đang sống: một số cơ sở hành chính, giáo dục, y tế,
kinh tế…; làng quê và đô thị; giữ vệ sinh nơi công cộng; an toàn giao thông (quy tắc đi
xe đạp).
- Tự nhiên:
+ Thực vật và động vật: đặc điểm cấu tạo cơ thể thực vật và động vật; thực vật và
động vật là những cơ thể sống.
- Mặt Trời và Trái Đất:
+ Mặt Trời: nguồn sáng và nguồn nhiệt; vai trò của Mặt Trời đối với sự sống trên
Trái Đất; Trái Đất trong hệ Mặt Trời; Mặt Trăng và Trái Đất
+ Trái Đất: hình dạng, đặc điểm bề mặt và sự chuyển động của Trái Đất; Ngày
đêm, năm tháng, các mùa [5].
1.1.3. Một số vấn đề về PPDH BTNB
1.1.3.1. Khái niệm về PPDH BTNB
Theo Gioerges Charpak: PPDH BTNB là PPDH mà trong đó trẻ em hành động,
thí nghiệm, nghiên cứu, tìm kiếm và có những câu hỏi đi kèm, hướng tới xây dựng nên
những kiến thức cơ bản để hiểu biết thế giới tự nhiên và kỹ thuật [1].
Tác giả Chu Hồng Vân (Phương pháp Bàn tay nặn bột dành cho HS tiểu học, GD
– ĐT) thì mô tả PPDH BTNB là cách thức GV tổ chức cho HS tự nghiên cứu để tìm ra
11
cách lý giải thuyết phục cho những kiến thức trong chương trình học thông qua việc đề
xuất, thảo luận và thực hiện các phương án thí nghiệm [3].
Trong cuốn sách “Tài liệu học tập Phương pháp dạy học Tự nhiên xã hội và khoa
học” của trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh do giảng viên Kim Thị Hân và Đỗ Thị
Loan viết thì cho rằng: PPDH BTNB là phương pháp dưới sự giúp đỡ của GV, chính
HS tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành
thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra, để hình thành kiến thức cho
mình [2].
Trên cơ sở các khái niệm trên, người nghiên cứu nhận định: PPDH BTNB là
cách thức tổ chức dạy học trong đó GV đưa ra các tình huống hay vấn đề; HS nghiên
cứu, tự giải quyết tình huống/vấn đề bằng cách tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên
cứu tài liệu hay điều tra… để chính các em tự tìm ra tri thức khoa học.
Thuật ngữ “Bàn tay nặn bột”
Bàn tay nặn bột được hiểu đơn giản là GV đưa ra cho HS “bột”, yêu cầu các em
làm ra một cái “bánh”. Để làm ra cái bánh theo một khuôn mẫu, người ta phải tự tay pha
chế, tự tay nặn bột. Nhưng với HS trong PPDH BTNB, để làm ra được “cái bánh” thì
ngoài việc tự tay nặn bột, các em phải biết thiết kế nó theo ý nghĩ sáng tạo của mình mà
không dựa vào một khuôn đúc nào cả. Có nghĩa là GV cung cấp cho HS các nguyên vật
liệu cần thiết như các dụng cụ thí nghiệm, các đồ dùng dạy học…; HS phải phán đoán,
lập kế hoạch, tiến hành thí nghiệm để tìm ra tri thức và chân lí khoa học [1].
1.1.3.2. Đặc trưng của PPDH BTNB
- Trẻ em, một nhà nghiên cứu… được đỡ đầu tức là cũng giống như một nhà
nghiên cứu thực sự, các em có thể tiến hành những nghiên cứu dẫn đến sự hiểu biết.
Nhưng các em cần được hướng dẫn và giúp đỡ bởi các câu hỏi của GV và hoạt động
trong khuôn khổ một đề tài đã được xây dựng chứ không phải chỉ lựa chọn theo các
“cơ hội”. Việc phát hiện, tiếp thu kiến thức của HS thông qua việc GV giúp HS tự đi
lại chính con đường mà các nhà khoa học đã nghiên cứu tìm ra chân lý (kiến thức).
- Dạy học theo PPDH BTNB giúp HS biết cách tự học, tự khám phá, tìm hiểu
nghiên cứu cuộc sống xung quanh.
- Dạy học theo PPDH BTNB nhằm tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, say
mê khoa học của HS.
12
- Giúp HS rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói, làm việc nhóm,
trao đổi và khả năng viết cho HS.
- PPDH BTNB đặt HS làm trung tâm của quá trình nhận thức, các em tự tìm câu
trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm,
quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra…
- Có sự tham gia của những dụng cụ nhưng những dụng cụ đó không đắt tiền. Đó
là những vật dụng hành ngày và vài vật liệu đơn giản. Thí nghiệm tiến hành đơn giản
và không cần có hiểu biết kỹ thuật gì đặc biệt.
- Trong quá trình nghiên cứu, HS phải sử dụng các giác quan để tìm ra tri thức
mới. HS huy động cả năm giác quan: xúc giác cũng như thị giác, thính giác và có cả
khứu giác và vị giác để phát triển trong các em sự tiếp xúc kì diệu với thế giới bao
quanh, để các em khám phá và tìm hiểu nó.
- Có vở ghi chép cá nhân: vở ghi chép cho phép HS ghi lại những ý tưởng của
mình, những điểm đã được sửa chữa lại, đánh dấu được tiến trình nghiên cứu. Vở ghi
chép được HS lưu giữ lại trong suốt thời gian học tiểu học và cuối cấp học sẽ hình
thành một tập ghi nhớ đặc biệt quý báu dành cho các em [3].
1.1.3.3. Các nguyên tắc cơ bản của PPDH BTNB
Dưới đây là 10 nguyên tắc cơ bản của PPDH BTNB được đề xuất bởi Viện Hàn
lâm Khoa học và Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp.
* Nguyên tắc về tiến trình sư phạm:
- HS quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với
đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó.
- Trong quá trình tìm hiểu, HS lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể
thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà nếu
chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên.
- Những hoạt động do GV đề xuất cho HS được tổ chức theo tiến trình sư phạm
nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học
tập được nâng cao lên và dành cho HS một phần tự chủ khá lớn.
- Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự
liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt
thời gian học tập.
13
- HS bắt buộc có mỗi em một quyển vở thí nghiệm do chính các em ghi chép
theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em.
- Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của HS các khái niệm khoa học và kĩ
thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.
* Những đối tượng tham gia:
- Các gia đình hoặc khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học.
- Ở địa phương, các đối tác khoa học (Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên
cứu…) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
- Ở địa phương, các viện đào tạo GV (Trường Cao đẳng Sư phạm, Đại học Sư
phạm) giúp các GV kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy [3].
1.1.3.6. Tiến trình dạy học theo PPDH BTNB
Tiến trình sư phạm của PPDH BTNB theo 5 bước cụ thể sau đây.
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do GV chủ
động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn,
gần gũi dễ hiểu đối với HS. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề.
Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ.
Tuy nhiên có những trường hợp không nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề
xuất được câu hỏi nêu vấn đề (tùy vào từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể).
Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học (hay môdun kiến thức mà HS sẽ
được học). Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu
thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của HS nhằm chuẩn
bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. GV phải dùng câu hỏi mở,
tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu
vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên thì ý đồ dạy học
của GV càng dễ thực hiện thành công.
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu
Hình thành biểu tượng ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của PPDH BTNB.
Bước này khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước
khi được học kiến thức. Hình thành biểu tượng ban đầu, GV có thể yêu cầu HS nhắc
lại kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu HS
trình bày biểu tượng ban đầu, GV có thể yêu cầu nhiều hình thức biểu hiện của HS, có
14
thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện
suy nghĩ.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm
Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của HS, GV giúp HS đề
xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên
quan đến kiến thức trọng tâm của bài học (hay mô đun kiến thức).
Ở bước này GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong
lớp để giúp HS so sánh, từ đó giúp HS đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Đây
là một bước khá khó khăn vì GV cần phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu
trong số hàng chục biểu tượng của HS một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học,
đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của HS nhằm giúp HS đề xuất các câu hỏi từ
những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Việc chọn lựa các biểu tượng ban đầu không
tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của HS gặp khó khăn.
Đối với các biểu tượng ban đầu được HS biểu hiện bằng lời, GV cần chọn lựa
một số ý kiến tiêu biểu và ghi chú lên bảng. GV khuyến khích các HS có ý kiến khác
so với các ý kiến đã được nêu bằng cách đưa ra các gợi ý như: "Em nào có ý kiến khác
với ý kiến trên?"; "A, em có suy nghĩ khác bạn B, C, D không?"; "Ngoài các ý kiến
vừa rồi, em nào có ý kiến khác?"… Những gợi ý như vậy vừa kích thích các HS có ý
kiến khác nêu lên quan điểm của mình đồng thời tránh mất thời gian với các ý kiến
trùng nhau của các HS. Đối với biểu tượng ban đầu được HS đưa ra bằng hình vẽ
trong vở thí nghiệm, GV có thể chọn một số HS có biểu tượng ban đầu tiêu biểu để
yêu cầu vẽ lại trên bảng hoặc mượn một số cuốn vở rồi vẽ lại nhanh trên bảng hình vẽ
của HS hoặc nhận xét nhanh rồi ghi chú những điểm đặc trưng đó. Tùy thuộc vào thời
gian, điều kiện thực tế mà GV lựa chọn phương án thích hợp.
Đối với các biểu tượng ban đầu phức tạp, nên cho HS làm việc theo nhóm hai
người hoặc nhóm nhỏ sau khi làm việc cá nhân (với thời gian ngắn) để chọn lọc lại ý
tưởng. Với cách làm như trên, GV yêu cầu HS làm việc cá nhân (viết, vẽ ý kiến ban
đầu vào vở thí nghiệm), sau đó GV yêu cầu HS trao đổi theo nhóm hai người hoặc cả
nhóm, rồi vẽ chung cho một hình vẽ phóng to cho cả nhóm trên một tờ giấy khổ lớn
(cỡ A2 hoặc A3) cho cả nhóm. GV lưu ý thêm với HS cần ghi chú những điểm không
thống nhất nếu có các ý kiến chưa đồng thuận, còn tranh cãi. Trong trường hợp này,
việc vẽ hay viết các ý kiến ban đầu mất thời gian lâu hơn, vì vậy chỉ áp dụng đối với
15
các kiến thức phức tạp và khi có nhiều thời gian. Thời gian cho hoạt động viết, vẽ biểu
tượng ban đầu trong những trường hợp này nên thực hiện tối đa 5 phút sau khoảng 2
phút làm việc cá nhân.
* Một số chú ý khi lựa chọn biểu tượng ban đầu:
- Không chọn hoàn toàn các biểu tượng ban đầu đúng hoặc sai với câu hỏi.
- Nên lựa chọn các biểu tượng vừa đúng vừa sai, chỉ cần chọn một biểu tượng
ban đầu đúng với câu hỏi (nếu có).
- Tuyệt đối không có bình luận hay nhận xét gì về tính đúng sai của các ý kiến
ban đầu (biểu tượng ban đầu) của HS.
- Giữ nguyên các biểu tượng ban đầu này để đối chiếu và so sánh sau khi hình
thành kiến thức cho HS ở bước 5 của tiến trình phương pháp.
* Lưu ý khi so sánh, phân nhóm biểu tượng ban đầu của HS:
- Phân nhóm biểu tượng ban đầu chỉ mang tính tương đối.
- Không nên đi quá sâu vào chi tiết vì càng chi tiết thì càng mất thời gian.
- GV nên gợi ý, định hướng cho HS thấy những điểm khác biệt giữa các ý kiến
liên quan đến các kiến thức chuẩn bị học.
- GV tùy tình hình thực tế ý kiến phát biểu, nhận xét của HS để quyết định phân
nhóm biểu tượng ban đầu.
- GV nên khéo léo giải thích cho HS đưa ra ý kiến về đặc điểm khác biệt nhưng
không liên quan đến bài học.
* Đề xuất thí nghiệm nghiên cứu:
- Từ các câu hỏi được đề xuất, GV nêu câu hỏi cho HS, đề nghị các em đề xuất
thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó.
- Tùy theo kiến thức hay vấn đề đặt ra trong câu hỏi mà HS có thể đề xuất các
phương án thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu. Các phương án thí nghiệm mà HS đề xuất
có thể rất phức tạp và không thể thực hiện được nhưng GV cũng không nên nhận xét
tiêu cực để tránh làm HS ngại phát biểu.
- Nếu ý kiến của HS nêu lên có ý đúng nhưng ngôn từ chưa chuẩn xác hoặc diễn
đạt chưa rõ thì GV nên gợi ý và từng bước giúp HS hoàn thiện diễn đạt.
- Sau khi HS đề xuất phương án thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, GV nêu nhận
xét chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. Trường hợp
16
HS không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu thích hợp, GV có
thể gợi ý hoặc đề xuất cụ thể phương án nếu gợi ý mà HS chưa nghĩ ra.
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
Từ các phương án thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo
nhận xét và lựa chọn thí nghiệm để HS tiến hành. Ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực
tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm trên vật thật có
thể làm cho mô hình hoặc cho HS quan sát tranh vẽ. Đối với phương pháp quan sát,
GV cho HS quan sát vật thật trước, sau đó mới cho HS quan sát tranh vẽ khoa học hay
mô hình để phóng to những đặc điểm không thể quan sát rõ trên vật thật.
Khi tiến hành thực hiện thí nghiệm, GV nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm
hoặc yêu cầu HS cho biết mục đích thí nghiệm chuẩn bị tiến hành để làm gì? Lúc này
GV mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt động.
Tiến hành thí nghiệm tương ứng với môđun kiến thức. Làm lần lượt các thí
nghiệm nếu có nhiều thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm thực hiện xong nên dừng lại để HS
rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng). GV lưu ý HS ghi
chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ
đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thí
nghiệm. Đối với các thí nghiệm phức tạp và nếu có điều kiện, GV nên thiết kế một
mẫu sẵn để HS điền kết quả thí nghiệm, vật liệu thí nghiệm. Khi HS làm thí nghiệm,
GV bao quát lớp, quan sát từng nhóm. Nếu thấy nhóm hoặc HS nào làm sai theo yêu
cầu thì GV chỉ nhắc nhở trong nhóm đó hoặc với riêng HS đó, không nên thông báo
lớn tiếng chung cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến
công việc của các nhóm HS khác. GV chú ý yêu cầu HS thực hiện độc lập các thí
nghiệm trong trường hợp các thí nghiệm được thực hiện theo từng cá nhân. Nếu thực
hiện theo nhóm thì cũng yêu cầu tương tự như vậy.
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức
Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được
giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa
chuẩn xác một cách khoa học.
GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là
kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của
HS cho kết luận sau khi thực hiện thí nghiệm (rút ra kiến thức của bài học). GV khắc
17
sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu
(biểu tượng ban đầu) trước khi học kiến thức. Như vậy từ những quan niệm ban đầu
sai lệch, sau quá trình thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình
sai hay đúng mà không phải do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện
những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những
thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
Nếu có điều kiện, GV có thể in sẵn tờ rời tóm tắt kiến thức của bài học để phát
cho HS dán vào vở thí nghiệm hoặc tập hợp thành một tập riêng để tránh mất thời gian
ghi chép. Vấn đề này hữu ích cho HS các lớp nhỏ tuổi (lớp 1, 2, 3). Đối với các lớp 4,
5 thì GV nên tập làm quen cho các em tự ghi chép, chỉ in tờ rời nếu kiến thức phức tạp
và dài.
1.1.3.7. Ưu điểm của PPDH BTNB
Là một PPDH tích cực dựa trên nghiên cứu thí nghiệm, áp dụng cho việc giảng
dạy các môn thuộc khoa học tự nhiên, PPDH BTNB chú trọng đến việc hình thành
kiến thức cho HS thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay
điều tra, để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống.
Cũng như các PPDH tích cực khác, PPDH BTNB luôn coi HS là trung tâm của quá
trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự
giúp đỡ của GV.
Mục tiêu của PPDH BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và
say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, PPDH BTNB
còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt bằng nhiều hình thức khác nhau:
lời nói, bài viết, sơ đồ, hình vẽ… Ngoài ra, một trong những công cụ quan trọng của
trẻ trong quá trình học tập với PPDH BTNB là quyển vở thí nghiệm. Đây là phương
tiện để trẻ em có thể tự đánh giá sự tiến bộ của bản thân cũng như rèn các kĩ năng thể
hiện sự hiểu biết bằng nhiều cách khác nhau: viết chữ, vẽ hình, lập sơ đồ hay bảng
biểu… Đây cũng là một trong những yêu cầu của dạy học liên môn: rèn ngôn ngữ cho
trẻ thông qua những môn học không có nhiệm vụ chính là dạy tiếng mẹ đẻ. Và đây
cũng chính là ưu điểm vượt trội của PPDH BTNB so với những PPDH khác.
Dạy học bằng PPDH BTNB khơi gợi óc tưởng tượng, tính tò mò ở trẻ. Đây là
tiền đề của sự sáng tạo và phát triển tư duy khoa học, đồng thời là một động cơ để một
con người – bắt đầu là một đứa trẻ học tập không ngừng trong suốt cuộc đời mình [1].
18
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Khảo sát, điều tra thực tiễn
1.2.1.1. Mục đích khảo sát thực tiễn
Điều tra, tìm hiểu thực tiễn dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 và việc
vận dụng PPDH BTNB trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội; trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn học.
1.2.1.2. Phạm vi khảo sát thực tiễn
Người nghiên cứu tiến hành thu thập thông tin chủ yếu điều tra GV và HS ở 3
trường Tiểu học thuộc huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc (danh sách xem bảng 1.2) và
tổng kết các tài liệu, báo cáo có liên quan đến việc sử dụng PPDH BTNB hiện nay ở
tiểu học.
1.2.1.3. Nội dung khảo sát thực tiễn
Những thông tin cần thu thập qua điều tra có liên quan đến việc dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 bao gồm:
Bảng 1.1: Tổng hợp nội dung điều tra thực tiễn
Nội dung điều tra
Nghiên
cứu tài
liệu
Những thuận lợi khi sử dụng PPDH
BTNB ở tiểu học.
Những khó khăn khi sử dụng PPDH
BTNB ở tiểu học.
Nhận thức của GV về vai trò, đặc
trưng, ý nghĩa khi sử dụng PPDH
BTNB ở tiểu học.
Nhận thức của GV về sự cần thiết sử
dụng PPDH BTNB ở tiểu học.
Mức độ sử dụng PPDH BTNB ở tiểu
học.
1.2.1.4. Phương pháp khảo sát thực tiễn
* Nghiên cứu tài liệu:
Cách thức điều tra
Quan
Phiếu
sát, dự
điều tra
giờ
Phỏng
vấn
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
19
Nghiên cứu giáo án của GV, SGK, sách GV, sách thiết kế môn Tự nhiên và Xã
hội, sách giáo trình và tài liệu có liên quan…
* Điều tra:
Người nghiên cứu thiết kế phiếu điều tra, mỗi phiếu gồm 6 câu hỏi, tổng là 100
phiếu và gửi cho GV ở các trường Tiểu học theo danh sách sau:
Bảng 1.2: Danh sách phát phiếu điều tra gửi cho GV ở các trường Tiểu học
STT
Trường Tiểu học
1
Tiểu học Thanh Lãng B
2
Tiểu học Thanh Lãng A
3
Tiểu học Tân Phong
Địa chỉ
TT Thanh Lãng – Bình Xuyên – Vĩnh Phúc
TT Thanh Lãng – Bình Xuyên – Vĩnh Phúc
Xã Tân Phong – Bình Xuyên
– Vĩnh Phúc
Tổng
Số phiếu
30
40
30
100
( Nội dung phiếu điều tra xem trong phụ lục 1)
* Quan sát, dự giờ
Nhằm tìm hiểu thực trạng tổ chức dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 hiện
nay, người nghiên cứu tiến hành quan sát, dự giờ các bài dạy môn Tự nhiên và Xã hội
lớp 1, 2, 3 sau:
Bảng 1.3: Danh sách quan sát, dự giờ các bài dạy môn Tự nhiên và Xã hội ở
trường Tiểu học
Lớp
Tên bài
GV giảng dạy
Tên trường
1
Con mèo
Nguyễn Thị Hằng
Tiểu học Thanh Lãng A
Một số loài vật
2
Nguyễn Thị Tâm
Tiểu học Thanh Lãng A
sống trên cạn
3
Chim
Nguyễn Thị Hải Yến Tiểu học Thanh Lãng A
Thời gian
23-3-2016
25-3-2016
26-3-2016
* Phỏng vấn:
Phỏng vấn sau dự giờ: Trao đổi với GV giảng dạy sau dự giờ về thuận lợi và khó
khăn khi sử dụng PPDH BTNB ở tiểu học và mức độ sử dụng PPDH BTNB trong dạy
học Tự nhiên và Xã hội.
Phỏng vấn GV ngoài giờ lên lớp: Trao đổi trực tiếp với một số GV để thu thập các
thông tin có liên quan đến thuận lợi và khó khăn khi sử dụng PPDH BTNB ở tiểu học.
Bảng 1.4: Danh sách GV tham gia phỏng vấn
STT
Tên GV
Tên trường
Số năm
Ngày
công tác
phỏng vấn
20
1
Nguyễn Thị Thắm
Tiểu học Thanh Lãng A
9
25-3-1016
2
Nguyễn Thị Tâm
Tiểu học Thanh Lãng A
4
25-3-2016
3
4
Nguyễn Hồng Phương
Nguyễn Thị Nhung
Tiểu học Thanh Lãng A
Tiểu học Thanh Lãng B
6
17
26-3-2016
26-3-2016
1.2.2. Kết quả khảo sát thực trạng
1.2.2.1. Những thuận lợi khi sử dụng PPDH BTNB ở tiểu học
Qua phỏng vấn GV và tổng hợp các tài liệu liên quan có thể rút ra kết luận sau:
- Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là một trong các nhiệm vụ cấp
bách. Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác đang được triển khai, PPDH
BTNB đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định đầu tư nghiên cứu, biên soạn tài
liệu, tổ chức tập huấn để tưng bước triển khai áp dụng trong các trường Tiểu học.
- PPDH BTNB là một phương pháp có tiến trình dạy rõ ràng, dễ hiểu, có thể áp
dụng được ở điều kiện của Việt Nam. Đội ngũ cán bộ quản lý và GV luôn nhiệt tình,
ham học hỏi là điều kiện tốt thúc đẩy việc áp dụng PPDH BTNB vào trong dạy học
các môn khoa học ở trường Tiểu học.
- Qua quá trình thử nghiệm, áp dụng PPDH BTNB vào trong các lớp học, có thể
nhận thấy sự ham thích của HS. Các em hứng thú với những hoạt động tìm hiểu kiến
thức mới. Điều này chứng tỏ HS luôn ham thích được học tập, hăng say tìm tòi và
sáng tạo.
1.2.2.2. Những khó khăn khi sử dụng PPDH BTNB ở tiểu học
Qua phỏng vấn GV và tổng hợp các tài liệu liên quan có thể rút ra kết luận sau:
- Về điều kiện, cơ sở vật chất:
Trong các lớp học hiện nay, bàn ghế được bố trí theo dãy, nối tiếp nhau, không
thuận lợi cho việc tổ chức học theo nhóm. Trong khi đó, phần lớn các trường học chưa
có phòng học học bộ môn và phòng thí nghiệm để thuận lợi cho việc giảng dạy các bộ
môn khoa học.
Trang thiết bị nói chung trong các lớp học chưa đầy đủ phục vụ cho việc tổ chức
các hoạt động dạy học, nhất là còn thiếu các phương tiện hỗ trợ hoạt động báo cáo,
thảo luận của HS như máy tính, projector, máy chiếu sách, flip chart, máy chiếu bản
21
trong... Dụng cụ thí nghiệm còn chưa đồng bộ và thiếu chính xác. Nguồn tài liệu bổ
trợ cho hoạt động tìm tòi – khám phá của HS còn hạn chế.
Mặt khác, số HS trên một lớp quá đông nên việc tổ chức học tập theo nhóm rất
khó khăn. Điều này cũng gây khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động tham quan, dã
ngoại, điều tra tế cho HS.
- Về đội ngũ GV:
Trình độ GV hiện nay chưa đồng đều cả về chuyên môn và năng lực sư phạm.
Kiến thức chuyên sâu về khoa học của một bộ phận không nhỏ GV còn hạn chế. Vì
vậy, GV thường gặp nhiều khó khăn trong việc trả lời, giải đáp các câu hỏi cũng như
khó khăn trong việc lí giải thấu đáo các thắc mắc của HS nêu ra trong quá trình học.
Đây là một trở ngại rất lớn trong việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nói
chung và PPDH BTNB nói riêng.
Năng lực sư phạm của GV trong việc áp dụng các phương pháp dạy học mới nói
chung còn hạn chế. Điều đó thể hiện ở việc GV thường gặp nhiều khó khăn trong việc
nêu ra tình huống mở đầu cho mỗi bài dạy trong PPDH BTNB. Thường thì tình huống
đưa ra phải gắn với nội dung bài dạy, làm sao đảm bảo được vấn đề khơi sự tò mò,
ham thích trước vấn đề sắp học nhưng vẫn "giấu kín được kết quả của bài học". Đây là
việc làm gây nhiều lúng túng cho người dạy. Trong tiến trình dạy học, ở một số bài
học, GV không có đủ kiến thức, khả năng để tìm ra một số thí nghiệm chứng minh cho
kiến thức bài học trong trường hợp HS không tự nêu ra được thí nghiệm kiểm chứng
cho biểu tượng ban đầu của mình.
- Về công tác quản lí:
Hiện nay, một vấn đề còn nổi cộm, gây nhiều cản trở cho công tác đổi mới
phương pháp dạy học ở trường phổ thông là vấn đề đánh giá hoạt động dạy học của
GV. Trong khi Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai áp dụng các phương pháp dạy
học mới, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức hoạt động học tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS nhưng một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lí chuyên môn ở
các Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo chưa theo kịp với tiến trình
đổi mới đó. Vì thế, quan điểm đánh giá giờ dạy của họ vẫn mang nặng tính hình thức
với các tiêu chí đánh giá như: GV có dạy hết kiến thức trong bài hay không; GV có sử
dụng công nghệ thông tin trong dạy học hay không; GV sử dụng thí nghiệm và các
phương tiện dạy có thành công hay không... mà chưa chú ý nhiều đến hiệu quả hoạt
động nhận thức cho HS. Vì vậy, GV thường rất dè dặt khi áp dụng phương pháp dạy
22
học mới, khi mà ở đó GV phải tổ chức cho HS hoạt động nên nhiều khi không thể chủ
động hoàn toàn về mặt thời gian. Trong quá trình HS hoạt động, thường có nhiều diễn
biến bất ngờ mà GV có thể không lường trước được dẫn đến có thể không hoàn thành
tất cả các khâu trong một tiết học và vì thế mà giờ dạy lại không được đánh giá cao.
Công tác kiểm tra, đánh giá kiến thức của HS hiện nay cũng là một vấn đề gây
cản trở đến việc đổi mới phương pháp dạy học. Các bài thi và kiểm tra hiện nay chủ
yếu vẫn là kiểm tra sự ghi nhớ và vận dụng lí thuyết của HS. "Thi gì, học nấy" luôn là
tiêu chí lựa chọn của đại đa số mọi người trên thế giới. Chính vì vậy mà các phương
pháp dạy học tích cực nói chung và PPDH BTNB nói riêng chưa có được "chỗ đứng"
vững chắc trong mỗi GV, HS và trong cả nền giáo dục Việt nam khi mà công tác kiểm
tra, đánh giá, thi cử chưa đổi mới theo hướng đánh giá kĩ năng và sự sáng tạo của HS.
- Về chương trình học:
Việc sắp xếp các tiết dạy trong tuần khó để GV và HS thực hiện bài dạy học theo
các bước của PPDH này.
- Về tài liệu:
Khó có thể tìm được các loại sách nói về PPDH BTNB. Trong thư viện chưa có
các loại sách tham khảo, các loại sách hưỡng dẫn về PPDH BTNB dành cho GV.
1.2.2.3. Nhận thức của GV về vai trò, đặc trưng, ý nghĩa khi sử dụng PPDH
BTNB ở tiểu học
Qua phiếu điều tra và tổng hợp các tài liệu liên quan, có thể rút ra các kết quả sau:
- Về vai trò: Nhận xét qua phiếu điều tra:
Bảng 1.5. Đánh giá của GV về vai trò của PPDH BTNB
STT
1
2
3
4
Mức độ
Rất quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng
Không có ý kiến gì
Ý kiến
SL
Tỉ lệ (%)
50
25
15
10
50
25
15
10
Nhận xét :
Khi được hỏi về vai trò của PPDH BTNB thì theo bảng 1.5 có 75% GV cho rằng
đây là một phương pháp quan trọng, cần thiết (rất quan trọng là 50%, quan trọng là
25%). Tuy nhiên, mức độ thường xuyên sử dụng PPDH này thì lại là 0%, thỉnh thoảng
sử dụng là 9% (bảng 1.8 ). Điều nay cho thấy sự mâu thuẫn giữa nhận thức của GV về
vai trò của môn học với việc vận dụng môn học trong thực tiễn.
23
Bảng 1.6: Nhận thức của GV về đặc trưng của PPDH BTNB
Ý kiến của thầy/cô
PPDH BTNB
Đồng ý
Là PPDH phát huy tính chủ động,
tự lực trong học tập của HS.
Kích thích động cơ, hứng thú học
tập của HS.
Phát triển năng lực tự đánh giá.
Giúp HS tiếp cận dần với các khái
niệm khoa học và kĩ thuật thực
hành, kèm theo sự vững vàng
trong diễn đạt nói và viết.
Đặt người học vào vị trí của một
nhà nghiên cứu khoa học
Rèn luyện năng lực cộng tác
trong học tập của HS.
Phát triển khả năng sáng tạo của
HS.
Đồng ý 1 phần
Không đồng
ý
SL
%
SL
%
SL
%
100
100
0
0
0
0
78
78
20
20
2
2
41
41
50
50
9
9
88
88
12
12
0
0
99
99
1
1
0
0
100
100
0
0
0
0
89
89
10
10
1
1
Qua bảng tổng hợp trên, ta dễ dàng nhận thấy: 100% GV đồng ý PPDH BTNB là
PPDH phát huy tính chủ động, tự lực trong học tập của HS, phương pháp này đặt người
học vào vị trí của một nhà nghiên cứu khoa học và nó phát triển khả năng sáng tạo của
HS; 88% đồng ý PPDH BTNB giúp HS tiếp cận dần với các khái niệm khoa học và kĩ
thuật thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết; 100% GV cho rằng
phương pháp rèn luyện năng lực cộng tác trong học tập của HS; có 78% GV nhận thấy
PPDH BTNB kích thích động cơ, hứng thú học tập của HS và 41% đồng ý PPDH
BTNB phát triển năng lực tự đánh giá ở HS. Ta có thể nhận thấy đa số GV đều hiểu rõ
về bản chất của PPDH BTNB. Như vậy ở đây đã có sự mâu thẫn giữa nhận thức với
việc vận dụng phương pháp này của GV trong dạy Tự Nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3.
Nhận xét qua phỏng vấn:
Trên thực tế, thông qua phỏng vấn, trò chuyện trực tiếp với GV, người nghiên
cứu nhận thấy phần lớn GV chưa hiểu biết sâu sắc về PPDH BTNB. Họ chỉ hiểu đơn
giản đây là một phương pháp cho HS được thực hành nhiều GV chưa hiểu đây là
PPDH tạo điều kiện cho HS tiếp cận dần với các khái niệm khoa học, kĩ thuật thực
24
hành kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết và nó đặt người học vào vị trí
của một nhà nghiên cứu khoa học thực thụ.
- Về ý nghĩa:
Nhận xét qua nghiên cứu tài liệu và phỏng vấn GV:
Phần lớn GV đều hiểu được ý nghĩa quan trọng của việc vận dụng PPDH BTNB
trong dạy học Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học góp phần nâng cao chất lượng dạy và học,
thay đổi tư duy, nhận thức của HS. Giúp HS phát huy tính tích cực chủ động HS là
người tự tìm ra tri thức dưới sự hướng dẫn của GV.
1.2.2.4. Nhận thức của GV về sự cần thiết khi sử dụng PPDH BTNB ở tiểu học
Qua phiếu điều tra và tổng hợp các tài liệu liên quan có thể rút ra các kết quả sau:
Bảng 1.7. Đánh giá của GV về sự cần thiết của PPDH BTNB
STT
1
2
3
4
Mức độ
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Không có ý kiến
Nhận xét :
Ý kiến
SL
20
60
15
5
Tỉ lệ (%)
20
60
15
5
Khi được hỏi về sự cần thiết của PPDH BTNB thì theo bảng 1.4 có 80% GV cho
rằng đây là một phương pháp rất cần thiết, cần thiết (rất cần thiết là 20%, cần thiết là
60%). Tuy nhiên, mức độ thường xuyên sử dụng PPDH này thì lại là 0%, thỉnh thoảng
sử dụng là 9% (bảng 1.8). Điều nay cho thấy sự mâu thuẫn giữa nhận thức của GV về
sự cần thiết của môn học với việc vận dụng môn học trong thực tiễn.
Qua phiếu điều tra và nghiên cứu các tài liệu liên quan đều cho thấy: Phần lớn
GV đều cho rằng việc áp dụng PPDH BTNB vào dạy học Tự nhiên và Xã hội là rất
cần thiết. Tuy nhiên, việc vận dụng vào thực tế giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn, hạn
chế. Vấn đề khó khăn với nhiều GV là từ nội dung bài học GV phải tạo cho HS niềm
đam mê, hứng thú nghiên cứu khoa học không chỉ với các hoạt động trong bài học mà
còn trong cuộc sống của các em.
1.2.2.5. Mức độ sử dụng PPDH BTNB ở tiểu học
Qua phiếu điều tra và tổng hợp các tài liệu liên quan có thể rút ra các kết quả sau:
Bảng 1.8: Mức độ sử dụng các PPDH trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội
STT
Tên phương
pháp
Mức độ
25
Thường xuyên
SL
%
Thỉnh thoảng
SL
%
Hiếm khi
SL
%
1
Đàm thoại
91
91
9
9
0
0
2
3
4
5
6
7
8
9
Thuyết trình
Quan sát
Thảo luận nhóm
Thí nghiệm
Trò chơi
Nêu vấn đề
Động não
Bàn tay nặn bột
93
80
60
40
70
50
11
0
93
80
60
40
70
50
11
0
7
20
23
51
27
38
76
9
7
20
23
51
27
38
76
9
0
0
17
9
3
12
13
91
0
0
17
9
3
12
13
91
Nhận xét:
Qua bảng trên chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, PPDH được sử dụng thường
xuyên nhất ở tiểu học là phương pháp thuyết trình (93%), đàm thoại (91%) và quan sát
(80%). Sau thuyết trình, đàm thoại và quan sát, trò chơi (70%) và thảo luận nhóm
(60%) cũng được nhiều GV lựa chọn. Xếp theo thứ tự giảm dần về mức độ sử dụng thì
tiếp theo là đến các phương pháp: nêu vấn đề (50%), thí nghiệm (40%). Cuối cùng là
nhóm các PPDH động não (11%) và PPDH BTNB (8% thỉnh thoảng sử dụng).
Một số PPDH hiện nay được xem là các PPDH hiệu quả nhằm phát huy tính tích
cực học tập của HS như PPDH BTNB, động não song mức độ vận dụng còn rất hạn chế.
Nhận xét qua quan sát dự giờ và phỏng vấn GV:
Qua quan sát và dự giờ một số tiết dạy của GV và phỏng vấn GV sau tiết dạy,
người nghiên cứu nhận thấy hầu hết GV có nghiên cứu và sử dụng PPDH BTNB trong
dạy học Tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, việc vận dụng từng PPDH BTNB chưa linh
hoạt, còn dập khuôn, dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Nhận xét qua nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu giáo án giảng dạy cho thấy việc xác định mục tiêu, nội dung, các
phương pháp dạy học thường phụ thuộc vào hướng dẫn trong SGK, SGV và sách thiết
kế môn học.
Tổng hợp các báo cáo về PPDH BTNB ở tiểu học cho thấy PPDH BTNB không
được GV sử dụng thường xuyên mà rất ít, việc sử dụng PPDH BTNB trong môn Tự
nhiên và Xã hội chỉ được GV áp dụng trong các tiết dạy chuyên đề của tổ chuyên môn
hay tiết dạy có người dự giờ.