Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương mại năm 2005. Thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.64 KB, 53 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Kinh tế - Luật Trường Đại Học Thương Mại và
sự đồng ý của Cô giáo hướng dẫn - Tiến sĩ Nguyễn Thị Tình, tác giả đã thực hiện đề
tài: “Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương mại
năm 2005. Thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ
Hùng Hòa”.
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp cuối khóa với đề tài: “Pháp luật về
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương mại năm 2005. Thực
tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa”, bên
cạnh sự nỗ lực của bản thân, trong thời gian thực tập tại công ty, tác giả đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình từ phía cán bộ và nhân viên của công ty. Xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ, công nhân viên công ty đã giúp tác giả
có được một khoá thực tập thật bổ ích .
Về mặt kiến thức chuyên ngành, tác giả xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới cô giáo
– Tiến sĩ Nguyễn Thị Tình, sự tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện của cô đã giúp tác giả
rất nhiều trong quá trình hoàn thành khóa luận.
Mặc dù đã cố gắng, tuy nhiên do trong thời gian thực tập chưa nhiều, việc nắm
bắt thực tế chưa sâu nên bài khóa luận thực tập tổng hợp không thể tránh khỏi một số
thiếu sót. Vì vậy tác giả kính mong nhận được sự quan tâm và giúp đỡ từ Quý Thầy
Cô để bài khóa luận của tác giả được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

1

1


MỤC LỤC

2


2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Trách nhiệm hữu hạn

TNHH

Bộ luật Dân sự

BLDS

Luật Thương mại

LTM

Hợp đồng mua bán hàng hóa

HĐMBBHH

3

3


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Từ trước tới nay, hoạt động thương mại luôn giữ vai trò quan trọng và là nền
tảng cho sự phát triển của mọi quốc gia. Vì vậy, tất cả các nước trên thế giới đều nỗ
lực nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại trong và ngoài nước. Việt Nam cũng không

nằm ngoài xu hướng đó, điều đó đã được thể hiện rõ trong quá trình xúc tiến gia nhập
tổ chức thương mại quốc tế WTO trong năm 2006
Bản chất của hoạt động thương mại chính là việc giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa. Nhất là trong quan hệ mua bán hàng hóa hiện nay, thì việc
mua bán cung ứng dịch vụ với nhau thường được thể hiện dưới nhiều cách thức và nội
dung khác nhau nên các hành vi mua bán trong thương mại được thể hiện bằng một
hình thức nhất định đó là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa
rất phong phú, được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật và khá phổ biến trong hoạt động
kinh doanh của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Vì vậy, hoạt động thương mại của một
cá nhân, tổ chức hay tổng thể của cả một quốc gia chỉ có thể phát triển khi quốc gia đó
có một hành lang pháp lý , các quy định pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán
hàng hóa. Trong hệ thống pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể về sự điều
chỉnh quan hệ hợp đồng ngay từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, tiếp đến là Bộ luật
Dân sự (BLDS) 1995, Luật Thương mại (LTM) 1997….và hiện tại, tiêu biểu là hai
văn bản pháp luật mới được ban hành: BLDS 2015 và LTM 2005. Kể từ khi gia nhập
WTO, tầm quan trọng của hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh tế nói chung
và hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng đối với nước ta càng được thể hiện rõ ràng.
Như vậy, có thể nói hợp đồng mua bán hàng hóa là một nội dung không thể thiếu
trong hoạt động kinh doanh. Việc nắm vững, hiểu rõ các quy định của pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ giúp các chủ thể kinh doanh ký kết và thực hiện hợp
đồng được thuận lợi, an toàn và hiệu quả, tránh các tranh chấp, rủi ro đáng tiếc.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa
là một công ty đang phát triển trong lĩnh vực bàn ghế cắt tóc gội đầu, giường thẩm mỹ
mát xoa, các loại máy phục vụ làm đẹp cho tóc và da dùng trong các Beauty Saloon,
Spa. Trong thời gian thực tập tại công ty, tác giả đã nhận thấy rằng việc ký kết và thực
hiện hợp đồng diễn ra thường xuyên, có tầm quan trọng lớn trong quá trình hoạt động
kinh doanh và sản xuất, trong đó hợp đồng mua bán hàng hoá chiếm tới 90% tổng số
các loại hợp đồng tại công ty. Qua xem xét việc ký kết và thực hiện hợp đồng tại công
ty, tác giả thấy có nhiều điều cần quan tâm, xem xét và tìm hiểu. Bởi vậy, tác giả đã
chọn đề tài: "Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá theo Luật

4


-

-

-

Thương mại năm 2005. Thực tiễn thực hiện tại công ty Trách nhiệm hữu hạn Bàn
ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa" để làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vị trí quan
trọng trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa được hình thành và phát triển với các quy định tại Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
năm 1989 (đã hết hiệu lực) và đặc biệt sau đó là Bộ luật Dân sự năm 1995 (đã hết hiệu
lực), Luật Thương mại 1997 (đã hết hiệu lực), và hai văn bản pháp luật hiện hành là
Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) và Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005). Vấn đề
pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu, dưới những góc độ khác nhau.
Trên thực tế đã có nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ… Nghiên cứu các đề
tài liên quan đến hợp đồng, như đề tài:
“Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, luân án tiến sỹ luật
học năm 2010 của Lê Minh Hùng.
“Quyền tự do giao kết hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam”, luận án
Tiễn sĩ luật học năm 2006 của Phạm Hoàng Giang.
“Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu”,luận án
tiến sỹ năm 2002 của TS. Lê Thị Bích Thọ.
“Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” luận văn Thạc sỹ năm
2010 của Nguyễn Thị Hường.

Ngoài ra còn có sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu, các giáo trình có đề
cập đến các khía cạnh pháp lý của hợp đồng như:
Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam (2001), Giáo trình Luật Thương Mại( năm 2002),
của khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Giáo trình pháp luật kinh tế (2005), của khoa Luật kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân.
Giáo trình Luật kinh tế của đại học Luật Hà Nội.
“Chế định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh
(2007).
“Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án” của TS. Đỗ Văn Đại (2010).
“Chế độ hợp đồng kinh tế - Tồn tại hay không tồn tại” của GS.TS Lê Hồng Hạnh
(2005).
Cùng với các công trình nghiên cứu và các sách, giáo trình nêu trên, đã có nhiều
bài báo khoa học đăng trên các tạp trí, như:
“Một số bất cập của chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005”, của tác giả Trần
Thị Huệ, tạp chí dân chủ và pháp luật số định kỳ tháng 6 (255) năm 2013.

5


-

“Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng những vấn đề đặt ra khi sửa đổi Bộ
luật Dân sự năm 2005”, của tác giả Phạm Văn Bằng, tạp chí dân chủ và pháp luật Số
định kỳ tháng 4 (253) năm 2013…
Tất cả các công trình nghiên cứu, các bài viết, các luận án, luận văn nêu trên
đều có những thành công nhất định về một số khía cạnh pháp lý của hợp đồng mua
bán hàng hóa. Mặc dù cũng có nhiều công trình đã nghiên cứu về những vấn đề cụ thể
trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá, tuy nhiên tác giả vẫn mong
muốn bài nghiên cứu của bản thân có thể đem đến một khía cạnh mới mẻ và rõ ràng
hơn về vấn đề này, vì vậy, tác giả đã quyết định chọn đề tài "Pháp luật về thực hiện

hợp đồng mua bán hàng hoá theo Luật Thương mại năm 2005. Thực tiễn áp dụng
tại công ty TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa" để thể hiện được những
quan điểm, đánh giá riêng của bản thân về hợp đồng mua bán hàng hóa qua tìm hiểu
các cơ sở lý thuyết và thực tiễn thực hiện tại một công ty cụ thể.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
- Phân tích một số nội dung pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa,
tìm hiểu về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa như:
giao hàng, nhận hàng, chuyển giao quyền sở hữu, chuyển giao rủi ro, thanh toán và
thanh lý hợp đồng.....
- Nghiên cứu về thực tiễn thực hiện các quy phạm pháp luật về thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa. Liên hệ với bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhìn nhận cả về lý luận và thực tiễn, em chọn đề
tài: “Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại
năm 2005. Thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ
Hùng Hòa”.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề liên quan đến việc thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật Thương mại 2005, thực tiễn áp dụng tại
công ty TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu.

6


-


-

-

Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát
thực trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn áp dụng Luật Thương mại trong hợp đồng
mua bán hàng hóa tại doanh nghiệp, để có thể:
Tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của Luật thương
mại về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên cũng như thực tiễn thi hành các quy
định trong luật này;
Đánh giá việc thực hiện Luật thương mại 2005 trong hợp đồng mua bán hàng hóa của
doanh nghiệp;
Lập luận đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật cũng như tính
hiệu quả của hợp đồng mua bán hàng hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung và hướng tiếp cận: Tên đề tài nghiên cứu khóa luận là : “Pháp luật
về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại năm 2005. Thực
tiễn áp dụng tại công ty TNHH bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa”. Vấn đề
về hợp đồng mua bán hàng hóa rất rộng cho nên trong giới hạn của khóa luận này, em
chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các khía cạnh pháp lý của quá
trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong Luật thương mại 2005.
Đối tượng phân tích là Luật Thương mại 2005, bổ sung kèm theo là các hợp đồng
mua bán hàng hóa tại Công ty TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề
lý luận và pháp lý liên quan đến các quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa. Một số
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như phương pháp tổng hợp và phân tích,
phương pháp so sánh luật học, phương pháp logic…. Dưới đây là hai phương pháp em

sử dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu đề tài:
Phương pháp thu thập thông tin: Mục đích của việc thu thập tông tin là làm cơ sở lý
luận khoa học hay luận cứ để đi sâu vào vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa.
+ Thu thập các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu tổng
quan quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán
hàng hóa nói riêng như Luật Thương mại 2005, các văn bản quy phạm pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa theo các giai đoạn lịch sử của nước ta. Từ đó đưa ra một
số nội dung pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa trong chương 1 về: Khái niệm, đặc
điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
+ Thu thập sổ sách, số liệu có liên quan đến thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa tại Công ty TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa. Để làm rõ thực trạng
7


-

áp dụng Luật Thương mại 2005 trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
tại công ty, Chương 2 của đề tài đã thu thập các tài liệu của Công ty TNHH bàn ghế và
thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa như: Điều lệ, các Quy chế, quy trình, Báo cáo tài chính,
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh từ năm 2013- 2015, các hợp đồng mua bán hàng
hóa của công ty.
Phương pháp phân tích- tổng hợp: Dựa trên cơ sở các tài liệu đã thu thập được, em
phân tích đánh giá nội dung các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
được thực hiện trong Chương 1 và thực trạng áp dụng chúng trong giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty TNHH bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ
Hùng Hòa.
Từ những kết quả đã phân tích, tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn,
tìm ra được bản chất, quy luật vận động của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
nói chung cũng như Luật thương mại nói riêng và đề xuất giải pháp hoàn thiện.

6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp.
Với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu như đã nêu ở trên, đề tài ngoài tóm lược, lời
cảm ơn, lời mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung, thì khóa luận
gồm có 3 chương:
Chương 1. Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa
Chương 2. Thực trạng các quy định của Luật thương mại năm 2005 điều
chỉnh về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại công ty
TNHH Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của luật thương
mại năm 2005 về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong công ty TNHH
Bàn ghế và thiết bị thẩm mỹ Hùng Hòa.
Kết luận

8


CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA.
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1. Khái niệm về hàng hóa, mua bán hàng hóa.

Hàng hoá theo nghĩa rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con người,
được tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thoả mãn những nhu cầu mang tính xã hội. Nhu
cầu của con người rất phong phú và biến thiên liên tục vì vậy hàng hoá luôn phát triển
phong phú và đa dạng. Theo định nghĩa của pháp luật hiện hành Việt Nam tại Điều 3 khoản 2 - LTM năm 2005 thì “Hàng hoá bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả bất
động sản hình thành trong tương lai, những vật gắn liền với đất đai”.
Theo cách hiểu phổ biến thì mua bán hàng hóa là những hoạt động trao đổi hay
giao lưu hàng hóa, dịch vụ dựa trên cơ sở thuận mua vừa bán. Đối với các doanh
nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, khi nói đến hành vi mua bán chính là nói đến hoạt

động giao dịch buôn bán liên quan đến việc mua sắm vật tư kỹ thuật cho sản xuất
(thương mại đầu vào) và quá trình tiêu thụ sản phẩm (thương mại đầu ra). Đối với
doanh nghiệp, mỗi sản phẩm được sản xuất ra là nhằm để bán cho người tiêu dùng.
Hoạt động mua bán hàng hóa là một bộ phận chủ yếu của hoạt động thương mại và
được định nghĩa tại Khoản 8 - Điều 3 - LTM 2005 thì: Mua bán hàng hoá là hoạt
động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng
hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán,
nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận". Hàng hóa theo quy định của
LTM 2005 có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai;
hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
Về cơ bản, hoạt động thương mại ở tất cả các nước đều diễn ra dưới hai hình
thức: mua bán nội địa và mua bán quốc tế, về bản chất đều là những hoạt động mà
trong đó người bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng hóa, dịch vụ cho người mua. Còn
người mua có nghĩa vụ chuyển cho người bán một khoản ngang bằng với giá trị hàng
hóa, dịch vụ được trao đổi.
Như vậy dựa vào khái niệm tại khoản 8 - Điều 3 LTM 2005 thì hành vi mua
bán hàng hóa thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa các cá nhân, các đơn vị kinh doanh
hợp pháp có khả năng và nhu cầu về hàng hóa và đồng thời đó cũng là quan hệ pháp
luật ràng buộc trách nhiệm giữa người mua và người bán. Mối quan hệ này có sự
tương xứng về quyền và nghĩa vụ.

9


Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa.
Có thể nói, hợp đồng nói chung cũng như hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng
xuất hiện từ rất lâu đời; nó được điều chỉnh bởi rất nhiều văn bản luật khác nhau theo
sự phát triển của đất nước
1.1.2.1.
Lịch sử hình thành pháp luật về hợp đồng.

- Những quy định của pháp luật về hợp đồng ở giai đoạn trước 1995:
Trong những năm đầu dành được chính quyền, pháp luật của Việt Nam dân
chủ cộng hoà còn sử dụng nhiều hình thức pháp luật cũ, do vậy pháp luật hợp đồng
cũng tồn tại trong nhiều văn bản pháp luật của giai đoạn Pháp thuộc để lại.
Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 90/SL cho phép tạm
sử dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc - Trung - Nam cho đến khi ban hành những bộ
luật duy nhất cho toàn quốc nếu "những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập
của nước Việt Nam và chỉnh thể dân chủ cộng hòa". Đồng thời, các Bộ luật Dân sự
Nam Kỳ giản yếu 1883; Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng
Việt Trung Kỳ Hộ luật) 1936 được tiếp tục thi hành. Như vậy, tại ba miền Bắc - Trung
- Nam tồn tại ba bộ dân luật 1883, 1931, 1936.
Tiếp đó, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 97/SL "Sửa đổi
một số quy lệ và chế định trong dân luật", việc này có ý nghĩa đặc biệt trong sự phát
triển của luật dân sự. Sắc lệnh này một mặt không hủy bỏ nhưng quy định của các bộ
dân luật cũ, mặt khác nó bổ sung, thay đổi làm cho các bộ luật của "đế quốc phong
kiến" có nội dung mới, đáp ứng yêu cầu hiện tại của các vấn đề luật dân sự và đặc biệt
là các vấn đề về hợp đồng, đem đến những biến đổi thực sự trong cách thức sinh hoạt
và tư tưởng của nhân dân Việt Nam; đặt cơ sở, những nguyên tắc cơ bản cho sự hình
thành và phát triển của luật dân sự - pháp luật dân sự của một nhà nước độc lập, có chủ
quyền. "Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế
của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể bị coi là vô hiệu" (Điều 13)…
Đây cũng là giai đoạn các đơn vị kinh tế cơ quan, xí nghiệp nhà nước, kinh tế
thị trường tiến hành song song với hoạt động kinh tế tư nhân. Để thu hút mọi hoạt
động kinh tế và xây dựng quan hệ sản xuất mới – qun hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Thủ tướng đã ban hành Nghị định 735/TTg ngày 10/4/1957, kèm theo nghị định là bản
điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh. Nội dung chính của bản điều lệ quy định tính
chất các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế kinh doanh hợp tác xã, công ty hợp
doanh, tư doanh Việt Nam và ngoại kiều kinh doanh trên đất Việt Nam. Nội dung
chính của điều lệ kèm theo Nghị định 735/TTg đã đề cập tới hợp đồng kinh doanh,
hợp đồng kinh doanh được thiết lập trên phương thức hai hay nhiều đơn vị kinh doanh

tự nguyện ký kết với nhau để thực hiện các mục đích nhất định, nhằm phát triển kinh
1.1.2.

10


doanh công nghiệp và thương nghiệp, góp phầm thực hiện những công việc của nhà
nước giao cho. Hợp đồng kinh doanh được xây dựng trên nguyên tắc các bên tự
nguyện ký kết, cùng có lợi và đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Nội dung của
điều lệ còn quy định thêm một bên tham gia ký kết hợp đồng kinh doanh là tư doanh,
tuy nhiên các hợp đồng kinh doanh có tư doanh tham gia phải được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (thông thường là cơ quan công thương tỉnh hay Ủy ban
hành chính cấp huyện). Điều lệ tạm thời về hợp dòng kinh doanh của Nghị định
735/TTg ngày 10/04/1975 đã đóng góp một phần nhất định trong viẹc khai thác các
thành phần kinh tế vào phát triển chung của nền kinh tế đất nước, cải tạo quan hệ cũ và
từng bước xây dựng quan hệ mới
Hiến pháp năm 1959 ra đời đánh dấu một giai đoạn phát triển của quá trình lập
pháp Việt Nam, Hiến pháp của Nhà nước dân chủ cộng hòa, Hiến pháp của thời kỳ
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đã đặt ra yêu cầu "xoá bỏ lối quản lý hành chính cung cấp,
thực hiện phương pháp quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, … xây
dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền
kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa". Ngày
10/3/1975 Chính phủ đã ban hành bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh doanh (ban
hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 của hội đồng chính phủ). Nội dung
chính của Nghị định 54/CP chủ yếu gồm các vấn đề: Vai trò của hợp đồng kinh tế,
nguyên tắc ký kết, và thực hiện hợp đồng kinh tế, giải quyết tranh chấp và trách nhiệm
do vi phạm chế độ hợp đồng … Đặc điểm chính của hợp đồng theo Nghị định 54/CP
là khi ký kết hợp đồng phải bảo đảm hai yêu cầu: bảo đảm yếu tố trao đổi tài sản và
bảo đảm tính kế hoạch của nhà nước. Việc quy định hợp đồng phải bảo đảm yếu tố kế

hoạch của nhà nước đã làm cho bản chất của hợp đồng bị thay đổi và hợp đồng trở
thành công cụ của nhà nước để can thiệp vào các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nội
dung quy định Nghị định 54/CP về hợp đồng cũng đã đáp ứng yêu cầu của công việc
của công cuộc cải cách kinh tế, đưa quan hệ hợp đồng trở thành nề nếp.
Từ đầu những năm 80, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để áp
dụng các quan hệ hợp đồng. Đặc trưng của các quy định pháp luật áp dụng các quan hệ
hợp đồng trong giai đoạn này là chịu ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp cao độ, biện pháp hành chính được sử dụng phổ biến làm sai
lệch bản chất của các quan hệ hợp đồng với những đặc trưng của nó bình đẳng, tự định
đoạt giữa các chủ thể. Phương pháp áp dụng của luật hành chính đã phổ cập trong các
quan hệ dân sự.

11


Các văn bản ban hành trong giai đoạn này có tính hiệu lực tương đối cao thể
hiện dưới dạng Luật, Pháp lệnh và các Nghị định hướng dẫn thi hành, các Luật và
Pháp lệnh được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước ban hành. Các văn bản pháp luật,
Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988): nội dung chính
của pháp lệnh là quy định các điều kiện của các dây chuyền công nghệ khi chuyển vào
Việt Nam, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (1991).
Đối với pháp lệnh hợp đồng kinh tế ở Việt Nam, nó đã thể chế hoá được những quan
điểm và tư tưởng về đổi mới trong quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, bảo đảm
tính chất bình đẳng và tự nguyện khi ký kết hợp đồng kinh tế, tách các quan hệ hợp
đồng kinh tế thành một loại hợp đồng độc lập và nhằm phục vụ cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Việc ban hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã đánh dấu sự ra đời của
loại hợp đồng mới trong hệ thống các loại hợp đồng đó là hợp đồng kinh tế " Hợp
đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về
viẹc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy

định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của bên đẻ thực hiện kế hoạch của mình" (Điều 1Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 25/09/1989). Pháp lệnh hợp đồng dân sự được ban hành đã
cụ thể hoá các quan hệ hợp đồng dân sự và tách biệt nó với các hợp đồng kinh tế.
- Những quy định của pháp luật hợp đồng ở giai đoạn 1996 đến 2005:
Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, hàng loạt
các văn bản pháp luật được ban hành, sửa đổi, áp dụng cho phù hợp với Hiến pháp.
Bộ luật Dân sự được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/1996. Sự ra đời của Bộ luật
Dân sự năm 1996 là một bước phát triển rất tiến bộ của khoa học pháp lý nói chung và
các quan hệ hợp đồng dân sự nói riêng cũng được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp
luật ở cấp độ bộ luật, trong Bộ luật dân sự có tới 204 điều quy định về hợp đồng bao
gồm nhiều nội dung như: giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa đổi chấm dứt
hợp đồng và quy định nhiều loại hợp đồng thông dụng trong đời sống kinh tế. Bộ luật
Dân sự năm 1996 đã đóng góp quan trong trong các giao dịch dân sự nói chung và hợp
đồng nói riêng, tách biệt cụ thể gữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Luật
Thương mại năm 1997, đã bổ sung những thiếu sót và bất cập của pháp lệnh hợp đồng
kinh tế năm 1989 như: chủ thể tham gia ký kết hợp đồng thương mại có thể là các cá
nhân là thương nhân mà không cần thiết phải là pháp nhân, mở rộng hơn phạm vi hình
thức của hợp đồng như: hợp đồn có thể ký kết qua fax, thư điện tử…. Như vậy, hệ
thống pháp luật về hợp đồng trong giai đoạn này chủ yếu được quy định trong Bộ luật
Dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, luật Thương mại. Do tính độc lập của Bộ luật
12


Dân sự với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại, hợp đồng đã hình thành hai
nhóm hợp đồng lớn đó là nhóm các hợp đồng dân sự và nhóm các hợp đồng kinh tế.
Việc quy định các tiêu chí để quy định thế nào là hợp đồng kinh tế và thế nào là hợp
đồng dân sự đã hình thành tác động tới tư duy pháp lý là phải phân biệt rành mạch
giữa hai nhóm hợp đồng này trong các hoạt động tư pháp. Đây là một trong những
điểm hạn chế và gây ra nhiều khó khăn cho việc xét xử khi có vi pham hợp đồng của
các bên.

- Những quy định của pháp luật hợp đồng từ 2006 cho đến nay:
Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 và có hiệu lực ngày 01/01/2006 đã chấm dứt
sự tồn tại của khái niệm hợp đồng kinh tế, bãi bỏ các tiêu chí để quy định thế nào là
hợp đồng kinh tế và thế nào là hợp đồng dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2005 khắc phục
được sự chồng chéo của các quy định pháp luật áp dụng quan hệ hợp đồng, và trở
thành luật chung của pháp luật về hợp đồng. Các quy định pháp luật về hợp đồng được
quy định trong bộ luật Dân sự năm 2005 được áp dụng đối với các quan hệ hợp đồng
dân sự và các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Cho đến thời điểm này, cùng với sự
ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005, đây là hai văn bản pháp
luật có vị trí và vai trò quan trọng trong việc áp dụng các quan hệ hợp đồng. Luật
Thương mại điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh nhưng đó thường là
các quan hệ kinh doanh có tính thương mại chuyên biệt hay các quan hệ thương mại
có yếu tố nước ngoài. Sự tồn tại song song của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005
không mang ý nghĩa tách biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng trong kinh doanh mà sự
tồn tại của nó vừa có tính lịch sử hệ thống pháp luật hợp đồng việt Nam vừa bảo đảm
quan điểm của Đảng là thúc đẩy nhanh sự phát triển các quan hệ kinh tế nước ta. Với
sự ra đời của Bộ luật Dân sự là một bước tiến quan trong và đóng góp to lớn đối với
các quan hệ dân sự, kinh tế đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình lập pháp của
Nhà nước ta. Bộ luật có tầm quan trọng "sau Hiến pháp" áp dụng các quan hệ hợp
đồng rất đa dạng, phức tạp, làm nền tảng và định hướng cho việc phát triển các quan
hệ dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao động.
1.1.2.2.
Hợp đồng mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại năm 2005.
Thực tế vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới cơ chế
kinh tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh. Quá trình đổi
mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu nổi bật. Tuy nhiên, nước
ta gặp phải những vấn đề trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này đòi hỏi
nước ta cần phải hoàn chỉnh khung pháp lý về Thương mại để có thể điều chỉnh hoạt
động đó đúng đường lối, chính sách của Đảng cũng như theo kịp xu thế phát triển của
thời đại.

13


Đứng trước yêu cầu đó, ngày 14/11/2005, Quốc hội đã ban hành Luật Thương
mại (LTM) số 36/ 2005- QH 11 quy định về hoạt động thương mại (chính thức có hiệu
lực từ ngày 01/01/2006, thay thế LTM năm 1997) nhằm tạo thành một hành lang pháp
lý hoàn chỉnh cho các thương nhân trong hoạt động thương mại. Cũng giống như Luật
Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định khá đầy đủ và chi
tiết về mua bán hàng hóa cũng như hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phương tiện quan trọng phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh, trao đổi vật tư, sản phẩm giữa các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau:
Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận
của hai bên. Hoạt động mua bán hàng hóa được thể hiện dưới hình thức pháp lý là các
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong Luật thương mại năm 2005 không đưa ra khái niệm cụ thể về hợp đồng
mua bán hàng hóa nhưng có thể hiểu rằng hợp đồng mua bán hàng hóa là thỏa thuận
giữa các thương nhân (hoặc một bên là thương nhân) về việc thực hiện hoạt động mua
bán hàng hóa nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định về hợp đồng mua bán tài sản: “ Hợp đồng
mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản
cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hóa là loại hợp đồng
giao kết giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên không
phải thương nhân trong việc mua bán tất cả các bất động sản, kể cả động sản được
hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai.
1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò rất quan

trọng, điều tiết, điều chỉnh quá trình lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Có thể xem xét các
đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ với hợp đồng mua bán tài
sản theo nguyên lý của mối quan hệ giữa luật riêng và luật chung.
Hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm chung của hợp đồng mua
bán tài sản trong dân sự như:
+ Là hợp đồng ưng thuận: tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên thỏa
thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ
thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành
động của bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
14


+ Có tính đền bù: Bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì sẽ
nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới
dạng khoản tiền thanh toán.
+ Là hợp đồng song vụ: Mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng buộc
bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia thực
hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ
chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán
phải bàn giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên
bán.
Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua
bán hàng hóa có những đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương mại của hành
vi mua bán hàng hóa:
- Thứ nhất, chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương
nhân. Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân
cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Hoạt động của bên chủ
thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua
bán hàng hoá phải tuân theo LTM khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại.
- Thứ hai, mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa khác với các hợp đồng

khác. Hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại chủ yếu là để kinh doanh thu lợi
nhuận cho các thương nhân. Vì chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá là
thương nhân, mà đã nói đến thương nhân thì khó có thể không nhắc đến lợi nhuận,
hoạt động chính của họ là kinh doanh và thu lợi nhiận, không có lợi nhuận họ không
thể tồn tại lâu dài dù vốn đầu tư có lớn đi nữa
- Thứ ba, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể giao kết bằng lời nói, văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể. Cũng tại điều 24 - LTM 2005 quy định về hình thức của hợp
đồng mua bán hàng hóa thì hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Chủ yếu các hợp đồng mua bán
hàng hóa được thành lập bằng văn bản, bởi việc giao kết hợp đồng bằng văn bản mang
tính đảm bảo cao hơn so với các hình thức khác. Hơn nữa, do hợp đồng mua bán hàng
hóa diễn ra là nhằm mục đích sinh lợi nên việc ký kết hợp đồng phải được giao kết
bằng văn bản.
- Thứ tư, đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Theo LTM 2005, hàng hóa được
định nghĩa “bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương
lai; các vật gắn liền với đất đai” ( khoản 2- điều 3 LTM 2005). Hàng hóa là đối tượng
mua bán phải không thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của Nhà
nước (Nghị định 59/2006/NĐ- CP ngày 12/06/2006). Nếu hàng hóa đó thuộc danh
15


mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tuân theo đầy đủ các
quy định của pháp luật về mua bán các loại hàng đó.
- Thứ năm, hợp đồng mua bán hàng hoá thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ mua bán. Bên bán thì có nghĩa vụ giao hàng và nhận tiền còn bên mua
thì có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền. Luật Thương mại 2005 không quy định hợp
đồng mua bán hàng hóa phải bao gồm nội dung bắt buộc nào. Những điều khoản cơ
bản của một hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm: tên hàng, số lượng, chất lượng, giá
cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng.
Khi các bên thỏa thuận được những nội dung chủ yếu thì hợp đồng mua bán

hàng hóa coi như đã có hiệu lực pháp lý. Nội dung khác các bên có thể thỏa thuận ghi
vào hợp đồng, khi các bên không ghi vào hợp đồng thì mặc nhiên chấp nhận những
quy định chung của pháp luật về vấn đề đó hoặc chấp nhận những thói quen trong hợp
đồng thương mại.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung của pháp luật điều chỉnh về thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa.
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã không mang lại được hiệu quả kinh tế cao, do
vậy Đại hội VI tháng 12/1986 của Đảng đã quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội đồng nhà nước lần lượt thông qua các văn bản pháp
lý mới là: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989, Nghị định số 17/HĐBT ngày
16/1/1990, Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 và nhiều văn bản hướng dẫn khác.
Sau đó, Quốc hội thông qua BLDS ngày 28/10/1995, LTM ngày 10/5/1997. Sự ra đời
của các văn bản này một phần nào đó đã giải quyết được những bức xúc trên tuy nhiên
những quy định còn chồng chéo mâu thuẫn, mập mờ, chất lượng văn bản còn chưa
cao. Do đó đã gây ra hậu quả bất lợi về nhiều mặt, cả thể chế, thiết chế và thực tiễn
hoạt động của các cơ quan Nhà nước có liên quan, làm kìm hãm, trì trệ các hoạt động
kinh doanh của các chủ thể. Những bất cập đó đã dẫn đến một yêu cầu cấp bách phải
xây dựng lại các quy định về hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Để giải
quyết vấn đề này, đồng thời để đáp ứng nhu cầu hội nhập WTO, BLDS 2005 và LTM
2005 ra đời với những quy định thống nhất đã đánh dấu bước phát triển mới của hợp
đồng.
BLDS được quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực ngày
01/01/2006 là nguồn luật chung điều chỉnh hợp đồng. Đây là luật chung điều chỉnh,
nêu nguyên tắc áp dụng chung chủ thể, giao dịch dân sự, nghĩa vụ dân sự được áp
dụng các quan hệ hợp đồng dân sự (nghĩa hẹp), hợp đồng kinh doanh thương mại…
16



trên cơ sở những quy định áp dụng chung thì có luật áp dụng riêng đối với từng lĩnh
vực LTM, Bộ luật Lao động.
LTM thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006
được dùng có quan hệ hợp đồng trong thương mại. Với hợp đồng mua bán hàng hóa,
Luật Thương mại đóng vai trò là luật riêng áp dụng, BLDS là luật chung áp dụng.
Trình tự áp dụng được tuân theo quy định chung, áp dụng luật riêng trước, nếu không
có những quy định liên quan thì sẽ áp dụng đến luật chung tức là BLDS.
Hiện nay, các văn bản điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là hai
văn bản này. Ngoài ra, còn có các hệ thống các văn bản khác có liên quan như:
+ Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết LTM về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh.
+ Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết LTM về hoạt
động mua bán hàng hóa.
+ Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính phủ quy định chi tiết
Luật Thương mại về mua bán hàng hóa quốc tế và các đại lý mua bán, gia công và quá
cảnh với nước ngoài.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Luật Thương mại năm 2005 là một trong số những văn bản quan trọng quy định
đầy đủ nhất cho đến thời điểm này về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó
nổi bật là những nội dung chính:
- Giao hàng: Luật thương mại năm 2005 quy định rõ bên bán phải giao hàng hoá phù
hợp với quy định của hợp đồng; trong các hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên
thường có thoả thuận với nhau về điều kiện kèm theo việc giao hàng thoả thuận về
điều kiện giao nhận hàng hoá nhằm mục đích xác định trách nhiệm và chi phí giao
hàng của các bên như đối với vận tải, bảo hiểm hàng hoá, gánh chịu rủi ro… Ngoài ra,
trong hoạt động mua bán hàng hoá, việc giao hàng còn liên quan đến việc giao nhận cả
các chứng từ liên quan đến hàng hoá. Nếu các bên không có sự thoả thuận hoặc sự
thoả thuận không cụ thể, thì bên bán phải có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan
kèm theo.
Các bên có thể thoả thuận về địa điểm, thời hạn và phương thức giao hàng tuỳ

theo tính chất của các hàng hoá trong hợp đồng khi đã thoả thuận về địa điểm giao
hàng thì các bên phải tôn trọng thoả thuận và phải thực hiện đúng thoả thuận đó. Bên
bán phải có nghĩa vụ giao hàng, bên mua phải có nghĩa vụ nhận hàng đúng địa điểm đã
thoả thuận. Giao hàng là một nghĩa vụ cơ bản của bên bán, ngoài việc bên bán phải
chịu trách nhiệm giao hàng chuẩn về mặt địa điểm, thời gian, thì bên bán phải chịu
trách nhiệm về việc hàng hóa phải phù hợp về cả số lượng và chất lượng, cách thức
17


bảo quản đóng gói của hàng hóa. Số lượng, chất lượng hàng hoá là vấn đề quan tâm
của các bên khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Bởi vậy mà Luật Thương mại năm
2005 đã quy định một cách cụ thể về nghĩa vụ của bên bán khi thực hiện giao hàng cho
bên mua theo thỏa thuận trong hợp đồng
Kiểm tra hàng hóa: Để đảm bảo mục đích của hợp đồng được thực hiện một
cách tốt nhất, Luật thương mại năm 2005 cũng đã quy định từng trường hợp nếu các
bên có thoả thuận để bên mua hoặc đại diện của bên mua tiến hành kiểm tra hàng hoá
trước khi giao hàng thì bên bán phải đảm bảo cho bên mua hoặc đại diện cho bên mua
có điều kiện tiến hành việc kiểm tra. Nếu bên mua hay người đại diện bên mua không
tiến hành kiểm tra hàng hóa thì bên bán có quyền được giao hàng theo thỏa thuận trong
hợp đồng.
- Nhận hàng: Nhận hàng được hiểu là việc bên mua tiếp nhận trên thực tế hàng hóa từ
bên bán. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng thì bên
mua có nghĩa vụ nhận hàng. Trong quá trình nhận hàng này, bên mua tạo điều kiện
cũng như chuẩn bị kho xưởng hay bãi đỗ để bên bán có thể giao hàng theo đúng thỏa
thuận. Bên mua phải thực hiện những công việc hợp lý để bên bán giao hàng, tùy từng
trường hợp cụ thể công việc hợp lý đó có thể là: hỗ trợ bên bán về thủ tục giao hàng,
hướng dẫn về phương thức vận chuyển, điều kiện bốc dỡ hàng hóa,… Cần lưu ý rằng
việc nhận hàng trên thực tế không đồng nghĩa với việc bên mua đã chấp nhận về hàng
hóa được giao. Sau khi hoàn thành việc giao nhận, bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm
về những khiếm khuyết của hàng hóa đã được giao, nếu đó là những khiếm khuyết

không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường; và
bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó mà không thông báo cho bên
mua.
- Chuyển giao rủi ro: Rủi ro là sự kiện xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của con người,
xảy ra sau thời điểm ký kết hợp đồng mà tại thời điểm ký kết hợp đồng các bên không
thể tiên đoán được, không khắc phục hậu quả được. Rủi ro là hậu quả của tình huống
bất khả kháng. Vì vậy mà trong Luật Thương mại năm 2005, việc chuyển giao rủi ro
được quy định khá chi tiết từ Điều 57 đến Điều 61 LTM năm 2005.
- Chuyển quyền sở hữu: Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 thì khi bên
bán chuyển giao hàng hóa cho bên mua trên thực tế, đó cũng là thời điểm phát sinh
quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa của bên bán cho bên mua là việc bên bán
chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hàng hóa cho bên mua. Như vậy, sau khi
được chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa, bên mua sẽ trở thành người chủ thực sự
đối với những hàng hóa đó với đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu như đã nêu. Với
18


việc xác định quyền sở hữu hàng hóa đã được chuyển giao hay chưa, địa điểm, thời
gian chuyển quyền sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tài sản của cá
nhân, tổ chức để xác định trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hóa.
- Thanh toán: Thanh toán tiền hàng được coi là nghĩa vụ quan trọng mà người mua
phải thực hiện. Người bán và người mua có thể thoả thuận những biện pháp ràng buộc
chặt chẽ nhằm đảm bảo việc thanh toán được đầy đủ và đúng hạn theo thoả thuận
trong trường hợp đồng. Bên mua phải có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo thoả
thuận và các bên có thể thoả thuận về phương thức, thời hạn và thời điểm thanh toán.
Khi đó bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán và thực hiện thanh toán theo
đúng trình tự, thủ tục theo thoả thuận và các quy định của Luật thương mại năm 2005
về thanh toán.
1.3. Nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.

- Nguyên tắc thực hiện đúng: Chấp hành thực hiện đúng hợp đồng là không
được tự ý thay đối tượng này bằng một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc
thực hiện nó bằng cách trả một số tiền nhất định hoặc không thực hiện nó. Nguyên tắc
này đòi hỏi thỏa thuận cái gì thì thực hiện đúng cái đó.
- Nguyên tắc thực hiện đầy đủ: Nguyên tắc này có nghĩa là thực hiện đầy đủ tất
cả các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng, tức là tất cả các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ hợp đồng đều phải được thực hiện đầy đủ. Cụ thể là thực hiện đúng
đối tượng, đúng chất lượng, đúng thời gian, đúng số lượng, đúng phương thức thanh
toán và các thỏa thuận khác trong hợp đồng.
- Nguyên tắc hợp tác, trung thực, thiện chí, giúp đỡ nhau trong quá trình thực
hiện hợp đồng. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau, thường
xuyên theo dõi và giúp đỡ nhau để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh mọi điều khoản
của hợp đồng, giúp nhau khắc phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp
đồng.

19


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
NĂM 2005 ĐIỀU CHỈNH VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU
HẠN BÀN GHẾ VÀ THIẾT BỊ THẨM MỸ HÙNG HÒA.
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa.
2.1.1. Tổng quan tình hình.
Pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa của Việt Nam hiện nay, tuy có một số
hạn chế nhất định nhưng nhìn chung được coi là khá tiến bộ và phù hợp với xu hướng
phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung các chế
định về hợp đồng đã phần nào quán triệt, thể chế hoá các chủ trương, chính sách về
phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, cụ thể hoá các quyền về kinh tế, dân sự của

công dân được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và đáp ứng được các yêu cầu trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng đã thể
hiện quan điểm tăng cường quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được toàn
quyền quyết định về đối tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, nội dung
của hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi có vi phạm. LTM 2005 phù hợp với
nguyên tắc tự do hoạt động thương mại đã được khẳng định tại Điều 57 Hiến pháp
năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc khẳng định rõ và bảo
đảm quyền tự do hoạt động của thương nhân là động lực chủ yếu khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia tích cực vào hoạt động thương mại. Tự do ở đây được thể
hiện trong nội dung của hợp đồng, tức là các bên mua bán hàng hóa có thể tự do thỏa
thuận để tìm ra những điều khoản thuận lợi nhất cho các bên trong việc xác lập quyền
và nghĩa vụ khi thực hiện hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận bất kỳ nội dung mình
mong muốn nhưng không trái pháp luật, đây là điều kiện rất thuận lợi cho thương nhân
trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Bên cạnh đó, việc quy
định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa một các chi
tiết và chặt chẽ sẽ tạo cảm giác yên tâm cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động
thương mại. Việc quy định như vậy thể hiện ràng buộc đối với các bên khi thực hiện
nghĩa vụ của mình đối với bên còn lại giúp cho các thương nhân có ý thức tôn trọng
hợp đồng. Thực tiễn hoạt động mua bán hàng hóa ở nước ta từ khi thực thi LTM 2005
đã phát triển một cách đa dạng. Ví dụ như số hợp đồng được giao kết giữa các doanh
nghiệp ngày càng nhiều, trong khi đó số vụ tranh chấp trong lĩnh vực thương mại được
giải quyết một cách nhanh gọn do nghĩa vụ của các bên được quy định chi tiết và cụ
thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa.

20


Tuy nhiên, từ thực trạng của nền kinh tế thị trường đang diễn ra mạnh mẽ hiện
nay thì không ít những trường hợp vi phạm hợp đồng mua bán, không đúng với quy
định của pháp luật đã diễn ra, điều này đã và đang là vấn đề bức xúc của người dân,

làm cho không ít người rơi vào tình trạng tiền mất, hàng hóa mua lại không đúng như
mong muốn. Do đó cần sự quan tâm sâu rộng từ phía Nhà nước đề tình trạng này
không diễn ra và làm ảnh hưởng đến tình hình kinh tế đất nước.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
2.1.2.1. Nhân tố chủ quan.
* Nhân tố con người:
Con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể chính của mọi hoạt động, quyết
định trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Trình
độ, năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc tốt thì sẽ đảm bảo được
kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp đề ra, cho phép việc thực hiện các hợp đồng mua
bán hàng hóa có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn, nhanh nhạy với thị trường,
tận dụng các cơ hội có được và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiếp đó là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, đây
là những người trực tiếp thực hiên hoạt động mua bán hàng hóa. Họ trực tiếp đi giao
dịch ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa và thực hiện chúng, trong quá trình thực hiện
hợp đồng họ luôn giám sát và đôn đốc công việc cho tới khi hoàn thành. Chính vì vậy
mà họ là nhân tố quyết định hiệu quả của việc thực hiện hợp đồng.
* Nguồn tài chính:
Tài chính hay vốn là nhân tố cực kỳ quan trọng và quyết định đến sự tồn tại của
doanh nghiệp cũng như hoạt động mua bán hàng hóa. Có nguồn tài chính đồi dào sẽ
đảm bảo hoạt động mua bán hàng hóa được thực hiện và diễn ra liên tục.Với khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp tốt thì có thể tăng khả năng cạnh tranh bằng các biện
pháp như ứng trước tiền hàng, cho phép thanh toán chậm, đưa ra các điều khoản thanh
toán ưu đãi và dễ dàng hơn trong việc đàm phán ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
2.1.2.2. Nhân tố khách quan.
* Nhân tố kinh tế:
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi tham gia vào WTO tiêu thụ
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chính, là vấn đề tất yếu của hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra và
chiếm một số lượng chủ yếu trong các giao dịch dân sự. Sử dụng pháp luật là công cụ

thực hiện các giao dịch dân sự và gắn liền với các hoạt động mua bán hàng hóa là hợp
đồng mua bán hàng hóa. Các hoạt động trao đổi, mua bán của các doanh nghiệp hiện

21


nay dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều đã sử dụng hợp đồng mua bán
hàng hóa như một công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản giữa các bên.
* Nhân tố chính trị, pháp luật:
Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao, sự cân bằng các chính sách của
nhà nước, vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ, sự điều tiết
và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế xã hội, các quyết định
bảo vệ người tiêu dùng, hệ thống pháp luật, sự hoàn thiện và hiện thực thi hành
chúng... có ảnh hường rất lớn đến hoạt động mua bán hàng hóa của doanh nghiệp.
Các chính sách bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy phạm kỹ
thuật sản xuất tạo ra một hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động, các hoạt động
của doanh nghiệp như sản xuất kinh doanh hay hoạt động mua bán hàng hóa đều phải
dựa vào các quy định của pháp luật. Doanh nghiệp phải chấp hành các quy định của
pháp luật, phải thực hiện các nghĩa vụ của mình với nhà nước, với xã hội và với người
lao động như thế nào là do pháp luật quy định (nghĩa vụ nộp thuế, trách nhiệm đảm
bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp, tuân thủ các yêu cầu trong khi thực hiện hợp đồng …).
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa.
2.2.1. Giao hàng.
Giao hàng là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán trong hợp đồng mua bán hàng
hóa. Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên bán đều có liên quan và nhằm mục đích
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua. Cụ thể như sau:
- Giao chứng từ kèm theo hàng hóa: Theo điều 34 - LTM 2005, trường hợp có thỏa
thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng

hóa (như chứng nhận chất lượng, chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, vận đơn,…) cho bên
mua trong thời hạn, tại địa điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận. Nếu các bên
không thỏa thuận về thời hạn, địa điểm giao các chứng từ liên quan đến hàng hóa thì
bên bán phải giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua trong thời hạn và tại
địa điểm hợp lý để bên mua có thể nhận hàng. Theo quy định tại khoản 3 và 4 Điều 42
- LTM 2005, trong trường hợp bên bán giao chứng từ liên quan đến hàng hóa trước
thời hạn thỏa thuận, nếu có thiếu sót về chứng từ liên quan, bên bán có thể khắc phục
những thiếu sót của những chứng từ này trong thời hạn còn lại; khi bên bán thực hiện
việc khắc phục những thiếu sót của của các chứng từ này mà gây bất lợi hoặc làm phát
sinh chi phí bất hợp lý cho bên mua thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán khắc phục
bất lợi hoặc chịu chi phí đó.

22


- Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo thỏa thuận và quy định của pháp luật.
Theo quy định của điều 39 - LTM năm 2005, hàng hóa được coi là không phù hợp với
hợp đồng nếu thuộc các trường hợp sau:
+ Không phù hợp với mục đích sử dụng của các hàng hóa cùng chủng loại
+ Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán
biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng.
+ Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hóa mà bên bán đã
giao cho bên mua.
+ Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường.
Khi hàng hóa giao không phù hợp với hợp đồng, bên mua có quyền từ chối
nhận hàng. Tuy nhiên, bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào
của hàng hóa nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về
những khiếm khuyết đó (trong thời hạn khiếu nại theo luật định) và ngược lại. Và bên
bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh sau thời điểm
chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi phạm hợp đồng.

Nếu hợp đồng chỉ quy định thời hạn giao hàng, bên bán giao không hàng không
phù hợp, thiếu…thì trong thời hạn đó bên bán có quyền giao lại hàng hoặc giao phần
còn thiếu, chi phí phát sinh do bên bán chịu trách nhiệm.
+ Về tên hàng hóa: Tên hàng hóa mua bán phải được nêu chính xác trong hợp đồng
nhằm tránh nhầm lẫn trong quá trình thực hiện hợp đồng. Tùy theo từng hàng hóa mà
cách viết điều khoản này có sự khác nhau. Các bên có thể viết điều khoản cùng với tên
khoa học, tên thông dụng của hàng hóa. Trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, tên hàng còn được viết kèm theo tên của nhà sản xuất hàng hóa, tên địa danh sản
xuất ra hàng hóa, tên công cụng của hàng hóa…
+ Số lượng hàng hóa: có rất nhiều cách xác định số lượng và đơn vị tính số lượng khác
nhau tại mỗi quốc gia hay mỗi khu vực trên thế giới, có những cách xác định số lượng,
trọng lượng hàng hóa riêng. Song nhìn chung, có hai cách xác định số lượng, trọng
lượng hàng hóa, đó là xác định một cách chính xác hàng hóa và hàng hóa có dung sai.
Tỉ lệ dung sai các loại hàng hóa tại cá quốc gia khác nhau cũng có quy định khác nhau.
Do vậy, các bên cần thỏa thuận rõ một đơn vị đo lường hàng hóa của mình trong hợp
đồng.
+ Phẩm chất hàng hóa: được xác định bằng nhiều cách tùy thuộc tính chất của hàng
hóa. Các bên có thể thỏa thuận một tiêu chuẩn xác định cụ thể, hoặc xác định phẩm
chất hàng hóa theo mẫu. Việc xác định phẩm chất hàng hóa có thể dựa vào tiêu chuẩn
chất lượng đã đăng ký, hiện trạng hàng hóa, tài liệu kĩ thuật hoặc theo mẫu được các
bên thỏa thuận.
23


+ Giá cả: giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, nghĩa là số lượng tiền phải
trả cho hàng hóa đó. Về nghĩa rộng đó là số tiền phải trả cho một hàng hóa, một dịch
vụ, hay một tài sản nào đó. Giá cả của hàng hóa nói chung là đại lượng thay đổi xoay
quanh giá trị. Khi cung và cầu của một hay một loại hàng hóa về cơ bản ăn khớp với
nhau thì giá cả phản ánh và phù hợp với giá trị của hàng hóa đó, trường hợp này ít khi
xảy ra. Giá cả của hàng hóa sẽ cao hơn giá trị của hàng hóa nếu số lượng cung thấp

hơn cầu. Ngược lại, nếu cung vượt cầu thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị của hàng hóa .
Tuy nhiên, điều bất cập trong việc quy định của Luật Thương mại năm 2005 về
chào hàng hợp pháp là phải có đầy đủ 6 điều khoản: Tên hàng, số lượng, quy cách
chất lượng giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao hàng. Quy định
này được cho là quá cứng nhắc, gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh của các
thương nhân. Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều không quy định phương thức
thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng là điều khoản chủ yếu hợp đồng. Ví dụ:
Điều 1583 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: "Việc bán được xem là hoàn thành khi đã có
thoả thuận về vật và giá", hoặc Điều 14 Công ước Viên 1980 chỉ đòi hỏi ba điều khoản
(hàng hóa, số lượng, giá cả) cho một chào hàng hợp pháp. Việc quy định quá nhiều
điều khoản chủ yếu của hợp đồng không những không phù hợp với thông lệ quốc tế
mà còn làm xuất hiện nguy cơ mất an toàn pháp lý. Các bên có thể dựa vào việc thiếu
một điều khoản nhất định điều khoản về địa điểm giao hàng để cho rằng hợp đồng vô
hiệu hay dựa vào việc bên kia không thanh toán tiền hàng theo phương thức đã quy
định để tuyên bố huỷ hợp đồng. Điều này gây thiệt hại rất lớn cho bên bán và gây mất
ổn định cho quan hệ kinh tế.
- Giao hàng đúng thời hạn và địa điểm: Các bên thường thỏa thuận về thời điểm giao
hàng trong hợp đồng. Nếu các bên không thỏa thuận vấn đề này trong hợp đồng thì áp
dụng quy định của pháp luật hoặc theo tập quán. Nếu các bên không thỏa thuận về thời
điểm giao hàng cụ thể mà chỉ nêu thời hạn giao hàng thì bên bán có thể giao hàng vào
bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải báo trước cho bên mua. Nếu trong hợp
đồng không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì theo quy định tại Điều 37 LTM
2005, bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng.
Bên bán phải giao hàng đúng địa điểm theo thỏa thuận. Trong trường hợp các
bên không thỏa thuận trong hợp đồng thì địa điểm giao hàng sẽ được xác định như
sau:
+ Nếu hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có
hàng hóa đó.
+ Nếu hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ
giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên. Trong thực tế, bên bán có thể không trực

24


tiếp giao hàng cho bên mua mà việc giao hàng có thể được thực hiện thông qua người
thứ ba (như qua người làm dịch vụ vận chuyển hàng hóa…). Các bên có thể thỏa thuận
về vấn đề rủi ro đối với hàng hóa khi giao hàng qua người thứ ba. Nếu không có thỏa
thuận thì bên bán được coi là đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng sau khi đã giao hàng
cho người thứ ba theo các điều kiện giao hàng do hai bên thỏa thuận.
+ Nếu hợp đồng không quy định về vận chuyển hàng hóa; nếu vào thời điểm giao
kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi
sản xuất, chế tạo hàng hóa thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó.
+ Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh
của bên bán, nếu bên bán không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư
trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Trong khâu giao hàng, tùy vào thỏa thuận của hai bên mà có thể phải cần đến
việc thuê một bên thứ ba để vận chuyển hàng hóa. Công ty cũng thường xuyên phải ký
các hợp đồng thuê vận chuyển hàng hóa tới điểm giao hàng mà các bên đã thỏa thuận.
Dưới đây là một điều khoản về “phương thức giao nhận hàng hóa” được thỏa thuận và
giao kết giữa Bên Mua (Bên A) là: Công ty TNHH Bàn ghế và Thiết bị thẩm mỹ Hùng
Hòavà Bên Bán (Bên B): Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ Viettool Việt Nam.

ĐIỀU KHOẢN 3: PHƯƠNG THỨC GIAO NHẬN
+ Bên B giao hàng chậm nhất vào ngày 21/12/2015 tại kho bên B
+ Chất lượng hàng hóa do bên A kiểm định hoặc do bên A chỉ định
+ Bốc xếp, chi phí bốc xếp do bên B chịu
+ Phương tiện và chi phí vận chuyển do bên A chịu
Trong điều khoản về phương thức giao nhận trên thì quy định về thời gian giao
hàng, về kiểm định chất lượng hàng hóa, phương tiện và chi phí vận chuyển,…

Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có không ít bất cập

trong quá trình đi vào thực thi. Quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa mâu thuẫn
với nhau. Cụ thể quy định về địa điểm giao hàng khi không có trong thỏa thuận của
hợp đồng. Điều này được quy định tại các điều luật sau: Điều 433- Điểm b - khoản 2 Điều 284 BLDS 2005 và Điểm d - khoản 2 - Điều 35 LTM 2005. Theo quy định tại
BLDS thì khi không có thỏa thuận trong hợp đồng, địa điểm giao hàng được xác định
là trụ sở của người có quyền- tức là người mua; còn theo quy định của LTM 2005 thì
tại địa điểm kinh doanh của người bán. Điều này gây khó khăn cho các bên trong việc
xác định về địa điểm cũng như trách nhiệm của mỗi bên đối với việc giao hàng hóa.
Bên cạnh đó, quy định về nghĩa vụ thông báo thời điểm giao hàng của bên bán
chưa rõ ràng, cụ thể tại khoản 2- Điều 37 - LTM 2005: Nếu trong hợp đồng các bên
chỉ thỏa thuận thời hạn mà không thỏa thuận thời điểm giao hàng thì hàng hóa được
25


×