Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư? Vận dụng để giải thích những biện pháp kích cầu đầu tư ở nước ta.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.87 KB, 23 trang )

Đề tài 1: Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chi tiêu đầu
tư? Vận dụng để giải thích những biện pháp kích cầu đầu tư ở nước
ta.
Bản thảo hoàn chỉnh của đề tài
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi chính thức thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986, Việt Nam từ một
nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đã có nhiều thay đổi to lớn, chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn này, có rất nhiều vấn đề lớn
nhỏ được đặt ra cho nền kinh tế nước nhà. Một trong những vấn đề đó là hoạt động đầu
tư. Có thể nói đầu tư là yếu tố quan trọng trong nền kinh tế, đầu tư không chỉ là cơ sở để
nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế mà cũng nâng cao trình độ khoa học công
nghệ, hiện đại hoá đất nước. Nó vừa phụ thuộc lại vừa có tác động lớn đến nền kinh tế
của một quốc gia. Sự tác động đó là tích cực hay tiêu cực lại phụ thuộc vào nhận thức của
nhà nước, nhân dân, và các thành phần kinh tế về vấn đề đầu tư có đúng đắn hay không,
và làm sao để có các giải pháp cho hoạt động đầu tư hiệu quả. Muốn vậy trước hết phải
xem xét tới một số khía cạnh quan trọng liên quan đến đầu tư, cụ thể là sự chi tiêu cho
đầu tư thế nào là hợp lý, bên cạnh đó nhà nước đã và đang có những hoạt động nào để
kích thích đầu tư dựa trên những nghiên cứu về lý thuyết. Có vậy, sự chi tiêu cho đầu tư
mới đem lại hiệu quả, tạo đà cho nền kinh tế phát triển tốt. Điều này có ý nghĩa đặc biệt
cần thiết cho một nước đang phát triển như Việt Nam. Trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thử thách trong việc thu hút các nguồn lực
trong và ngoài nước để đưa đất nước phát triển đi lên. Ý thức được điều trên trong những
năm vừa qua nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc thu hút vốn đầu
tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhằm đạt được và duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và
bền vững. Có thể nói vần đề đầu tư, kích cầu đầu tư nhất là kích cầu đầu tư nước ngoài
đang là một trong những vấn đề rất được quan tâm hiện nay.

1



Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư.
1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.Đầu tư:
- Khái niệm:
Là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động đó nhằm thu về
cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để
đạt các kết quả đó.
- Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư thường rất lớn.
Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá tŕnh thực hiện đầu tư.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm
quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đăi ngộ cần tuân thủ một kế
hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu
tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự
án” tạo ra như việc bố trí lao động, giải quyết lao động dôi dư…
+ Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến
khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công tŕnh đầu tư phát triển có thời
gian đầu tư kéo dài hàng chục năm.
+ Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian này tính từ khi dưa
công tŕnh vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn hoạt động và đào thải công tŕnh. Nhiều
thành quả đầu tư phát huy kết quả lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn như các Kim tự tháp Ai
Cập, Nhà thờ La Mă ở Rôm, Vạn Lư Trường Thành ở Trung Quốc, ĂngCoVát ở Campu-chia… Trong suốt quá tŕnh vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai mặt,
cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xă hội…
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công tŕnh xây dựng
thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá tŕnh thực hiện
đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố
về tự nhiên, kinh tế xă hội vùng.
+ Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo
dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt

động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó, có
nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lư kém, chất lượng sản phẩm
không đạt yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản
phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế…
1.2. Chi tiêu đầu tư:
Thực chất là các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư của nhà nước, doanh
nghiệp và các đơn vị kinh tế bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư vốn lưu động. Chi

2


tiêu đầu tư là quá trinh nhà đầu tư quyết định thời điểm thực hiện đầu tư và kết hợp các
nguồn lực với tỉ lệ như thế nào để quá trình thực hiện đầu tư đạt được kết quả cao nhất.
1.3. Các nguồn lực đầu tư:
Nguồn lực đầu tư bao gồm:Vốn, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động trí tuệ.

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư.
2.1. Lợi nhuận kỳ vọng
- Lợi nhuận kỳ vọng là một nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu đầu tư. Là
phần lợi ích mà nhà đầu tư mong muốn có được sau khi kết thúc quá trình đầu tư. Những
kết quả này có thể là sự tăng thêm các tài sản chính (tiền vốn), tài sản trí tuệ (trình độ văn
hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học..), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá,bệnh
viện,trường học) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao
hơn trong nền sản xuất xã hội.
- Theo lý thuyết của Keynes, Lợi nhuận kỳ vọng là một trong hai nhân tố cơ bản
ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Nếu Lợi nhuận kỳ vọng lớn hơn lãi
suất vay thì nhà đầu tư sẽ quyết định đầu tư và ngược lại. Theo ông, tỷ suất lợi nhuận vốn
cận biên giảm dần do vậy việc so sánh giữa tỷ suất lợi nhuận vốn cận biên và lãi suất vay
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định đầu tư của nhà đầu tư.
- Mặt khác, cũng theo ông thì hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ suất

đầu tư mới. Hiệu quả biên của vốn đầu tư được tính bằng tỷ lệ hoàn vốn dự kiến thu được
từ 1 đồng vốn đầu tư tăng thêm do đó vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên của vốn
giảm dần. Điều này có thể giải thích do 2 nguyên nhân sau:
+ Khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư sẽ tăng. Cầu về vốn tăng dẫn đến sự gia
tăng của lãi suất cho vay (giá của đồng vốn). Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi đó,
lợi nhuận giảm nên hiệu quả biên của vốn đầu tư giảm.
+ Xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường, khi gia tăng đầu tư và kết quả
đầu tư đã đi vào hoạt động, phát huy kết quả trong thực tiễn thì cung sản phẩm sẽ tăng,
nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào nền kinh tế. Cung tăng giá sản phẩm sẽ
giảm, chi phí sản xuất coi như ổn định, lúc đó hiệu quả biên của vốn đầu tư sẽ giảm.
- Theo Keynes, tỷ suất vốn cận biên là một đại lượng khó xác định do vậy triển
vọng của dự án rất khó xác định nếu nhà đầu tư quyết định dựa trên cơ sở kỳ vọng và
hiệu quả của khoản đầu tư. Tuy nhiên, chính đại lượng đó là động lực thúc đẩy các nhà
đầu tư quyết định đầu tư.
- Chính vì hiểu được tỉ suất lợi nhuận có xu hướng giảm nên các doanh nghiệp
thường xuyên phải linh động thay đổi hình thức quản lý cũng như quy mô đầu tư sao cho
phù hợp nhất.
Các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư không căn cứ vào tỉ suất lợi nhuận theo
cách tính thông thường mà dựa vào tỉ suất lợi nhuận biên của vốn. Họ chỉ tiếp tục đầu
tư khi mà tỉ suất lợi nhuận biên của vốn còn lớn hơn tỉ lệ lãi suất tiền vay. Có nghĩa là
phải thấu được cái lợi chắc chắn trước mắt thì họ mới quyết định mở rộng đầu tư.
Trong thực tế tỉ suất lợi nhuận là đại lượng khó xác định nhưng chính đại lượng khó
xác định này lại là động lực thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư. Bởi lẽ tỉ suất

3


lợi nhuận chỉ là mong muốn của họ đạt được sau khi kết thúc quá trình đầu tư. Nên
không thể dự đoán chính xác đại lượng này bằng bao nhiêu khi mà hoạt động đầu tư
chưa xảy ra.

-Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng: cung cầu hàng hóa, mức độ rủi
ro, các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất, thuế.
2.2. Tỷ lệ lãi suất thực tế.
Vốn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là chi phí
sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu tài chính của dự
án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi suất phản ánh giá của khoản tiền vay
mượn đó. Nếu giá vay tiền (giá của vốn) cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân thì nhà đầu
tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại.
Cần phân biệt các loại lãi suất: lãi suất cơ bản (do ngân hàng nhà nước quy
định,các tổ chức tài chính không được cho vay với lãi suất lớn hơn 150% so với lãi suất
cơ bản); lãi suất cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay đầu tư tài chính, lãi suất tái
cấp vốn. Sự chênh lệch giữa các loại lãi suất góp phần điều tiết sự phân bổ vốn trong nền
kinh tế.
- Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được công bố đối với một khoản vay hoặc
một khoản đầu tư. Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên
thị trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng thu nhập
quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự cân bằng trên thị trường
vốn. Ngoài ra lãi suất cũng chịu ảnh hưởng của sự điều tiết của ngân hàng nhà nước
thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết
khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
- Lãi suất thực tế (lãi suất hiệu quả) là lãi suất thực sự thu được từ một khoản đầu
tư hoặc phải trả cho một khoản vay sau khi tính đến tác động của lãi suất ghép.
- Lãi suất thực tế không chỉ phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa mà còn phụ thuộc
vào tỉ lệ lạm phát.

Trong đó: r là lãi suất thực tế; i là lãi suất danh nghĩa; π là tỷ lệ lạm phát
- Chủ đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi IRR của dự án lớn hơn lãi suất thực tế. Do đó
khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn, nhu cầu đầu tư sẽ giảm.
Đồ thị:


i

i1

i0

D
O

I
I0
I1
Hình 1: Lãi suất tiền vay là 4biến nội sinh của hàm cầu đầu tư


2.3. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia
- Đầu tư có mối quan hệ trực tiếp tới sự gia tăng sản lượng. Nhu cầu về việc thay
đổi sản lượng ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm qui mô vốn đầu tư.
Ví dụ: Khi GDP tăng nhanh sẽ làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích
tiêu dùng lại vừa làm tăng tiết kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cũng tăng; tiết kiệm
tăng thì cung vốn tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư.
Hơn nữa, khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về đầu tư. Quá
trình này sẽ tạo ra hiệu ứng “số nhân”, tức là: một sự tăng thêm ban đầu trong sản lượng
sẽ làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần.
- Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn đề này
được đề cập trong lý thuyết gia tốc đầu tư.
Theo lý thuyết này, để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn
đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo
công thức:
x = Kt / Yt

(*)
Trong đó: K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu
Y: sản lượng tại thời kì nghiên cứu
x: hệ số gia tốc đầu tư
Từ công thức thức trên ta suy ra: K = x * Y
Như vậy nếu x không đổi thì khi qui mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu
vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản lượng phải tăng liên tục
mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ hoặc không đổi so với thời kì trước.
* Đặc điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
- Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì kế hoạch thì có
thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
- Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tứ. Khi kinh tế tăng trưởng cao,
sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư
tăng nhiều.
- Tuy nhiên, nó còn có 1 số hạn chế :
Thứ nhất, ở đây giả định quan hệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế đại
lượng này (x) luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác.
Thứ hai, thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ
không phải sư biến động của tổng đầu tư do sự thay đổi của sản lượng. Thật vậy, từ công
thức (*) ở trên có thể viết:
Tại thời điểm t: Kt = x . Yt
(1)
Tại thời điểm (t-1): Kt-1 = x . Yt-1
(2)
Lấy (1) trừ (2) ta có :
Kt –Kt-1 = x .Yt – x .Yt-1 = x.(Yt –Yt-1)

5



Trong đó: (Yt –Yt-1) là đầu tư ròng và bằng (It – D), với D là khấu hao
Do đó, (It – D) = (Yt –Yt-1) = x .(Yt – Yt-1) = x . ∆Y
Và đầu tư ròng :
∆I = x.∆Y
Như vậy theo lí thuyết này thì đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra.
Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần
sẽ âm.
Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng
không. Khi ∆Y = 0 thì ∆I = 0.
Thứ ba, theo lí thuyết này thì toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện
ngay trong cùng 1 thời kì. Điều này không đúng vì nhiều lí do, chẳng hạn như do việc
cung cấp các yếu tố có liên quan đến vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung…
Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lí thuyết đầu
tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng
hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong thời gian
dài hạn.
2.4. Chu kì kinh doanh:
Chu kì kinh doanh là những dao động của nền kinh tế xung quanh xu thế tăng
trưởng dài hạn, bao gồm cả những thời kì tăng trưởng nhanh xen kẽ với những thời kì suy
thoái của nền kinh tế.
-Mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu đầu tư khác
nhau.

0
t
Hình 2. Chu kỳ kinh
doanh
+ Khi Chu kì kinh doanh ở thời kì tăng trưởng nhà đầu tư sẽ mở rộng quy mô.
Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mô, trong những điều kiện nhất định thì việc
gia tăng quy mô sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết kiệm chi phí sản

xuất, gia tăng đầu tư.
Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở
rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp tư nhân gia

6


tăng. Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì đi xuống, qui mô nền kinh tế thu
hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh nghiệp tư nhân thu hẹp lại.
+ Khi Chu kì kinh doanh ở vào thời kì suy thoái thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm đầu tư. Tuy
nhiên đây cũng là giai đoạn để Doanh Nghiệp đương đầu thử thách bằng cách đa dạng
hóa sản phẩm hoặc chuyển hướng đầu tư.
Khi nền kinh tế đi xuống thì tổng đầu tư giảm, nhưng xét từng nhà đầu tư lại chưa
chắc đã giảm. Không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các doanh nghiệp cũng
thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Bởi
vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp vẫn đầu tư phát triển sản phẩm
mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ đã mất chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết
thúc một chu kì sống, hoặc cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài
nước trong khi nền kinh tế của quốc gia đang trên đà đi xuống.
2.5. Đầu tư của Nhà nước
Tổng đầu tư nhà nước là tổng phần vốn đầu tư của chính phủ vào trong nền kinh
tế. Đầu tư của nhà nước bao gồm: đầu tư cơ sở hạ tầng và đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước.
- Các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không nhằm mục đích thu lợi mà
tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn xã hội. Thông qua ngân sách,
chính phủ có thể đầu tư phát triển mạng lưới giao thông, viễn thông, cơ sở hạ tầng, các
khu công nghiệp…điều này nhằm cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các cá nhân,
tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào các vùng, ngành theo quy hoạch của chính phủ, hướng
nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn

vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp nhà nước.
Ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhà nước vấn giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế, nguồn vốn của họ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội,
tổng vốn vay từ các ngân hàng thương mại và từ nước ngoài. Vì vậy mỗi động thái trong
hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp này đều có tác động ít nhiều đến các hành vi của
các chủ đầu tư khác trong nền kinh tế. Nói cách khác, đầu tư nhà nước dẫn đường cho
đầu tư của tư nhân, của các doanh nghiệp đi sau.
- Đầu tư nhà nước chịu ảnh hưởng của các yếu tố như thâm hụt ngân sách, nợ
nước ngoài, các quy hoạch kinh tế xã hội, tỷ lệ thất thoát, tham nhũng, tốc độ giải ngân
vốn, các thủ tục khi sử dụng vốn nhà nước.
2.6. Các nhân tố ảnh hưởng khác
- Môi trường đầu tư:
Có thể nói môi trường đầu tư như một chất xúc tác ban đầu cho quyết định bỏ vốn
của nhà đầu tư, sự cải thiện môi trường đầu tư có ảnh hưởng vô cùng quan trọng và tác
động tích cực đến nền kinh tế, làm tăng nguồn vốn đầu tư và tăng chi tiêu đầu tư toàn xã

7


hội. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu
quả đầu tư. Có thể nói đến hai khái niệm:
+ Môi trường cứng: bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục
vụ cho sự phát triển kinh tế, ví dụ như hệ thống thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng giao
thông,…
+ Môi trường mềm: bao gồm hệ thống thủ tục hành chính, dịch vụ pháp lý liên
quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống tài chính – ngân hàng…
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính tiên phong, định hướng, xúc tác cho các hoạt động
đầu tư, nó mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển. Vì vậy cần chú ý đến
công tác đầu tư chuẩn bị hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút các nhà đầu tư, tạo cho họ sự

tin cậy để bỏ vốn đầu tư.
Một môi trường đầu tư ổn định cả về kinh tế, xã hội và chính trị sẽ thúc đẩy các
nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong đó, việc đưa ra các chính sách nhằm tăng
lòng tin cho các nhà đầu tư cần được chính phủ quan tâm. Chính sách và hành vi của
chính phủ có ảnh hưởng mạnh thông qua tác động của nó đến chi phí, rủi ro và các rào
cản cạnh tranh.
- Lợi nhuận thực tế:
+ Lợi nhuận thực tế là yếu tố quyết định đến qui mô đầu tư.
+ Lợi nhuận thực tế ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư theo tỉ lệ thuận.
- Dự báo cung cầu thị trường về sản phẩm của dự án đầu tư trong tương lai:
+ Cầu tăng sẽ kích thích các doanh nghiệp bỏ thêm vốn sản xuất đầu tư tăng.
+ Cung thị trường gồm cung đầu vào và cung đầu ra. Doanh nghiệp thường chọn
ngành sản xuất thuận lợi về cung đầu vào để giảm bớt chi phí sản xuất.
- Rủi ro đầu tư: Các quyết định đầu tư luôn tiềm ẩn sự rủi ro.
Rủi ro có 2 loại: + Rủi ro có thể đa dạng hóa.
+ Rủi ro không thể đa dạng hóa.
- Công nghệ và đổi mới:
+Tỉ lệ tăng trưởng của sản lượng tỉ lệ thuận với tiến bộ của công nghệ và tỉ lệ tăng
trưởng của vốn và lao động.
+Công nghệ càng phát triển thì càng thu hút được đầu tư.
- Yếu tố thời gian:
+ Thời gian ở đây chính là thời gian để nhà đầu tư thu hồi vốn và có lãi.
+ Các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào những ngành thương mại, dịch vụ,
những ngành cần ít vốn mà thời gian thu hồi vốn nhanh.

3. Kích cầu đầu tư:
3.1. Khái niệm.
- Cầu đầu tư: Cầu đầu tư là lượng nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế đối với hoạt động đầu
tư.
- Kích cầu đầu tư: Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các công

cụ pháp lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng nhiều

8


vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong một giai
đoạn hay thời kì nhất định.
- Một số hoạt động kích cầu đầu tư:
+ Tạo điều kiện huy động các nguồn vốn đầu tư.
+ Tạo điều kiện thuận lợi và quản lí các dự án đầu tư cho có hiệu quả.
3.2. Mục tiêu của hoạt động kích cầu đầu tư:
- Kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ (hay còn gọi tiêu dùng
công cộng) để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Biện pháp kích cầu cụ thể có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai. Kích cầu
thường chỉ được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái, đang cần vực dậy.
Kích cầu đặc biệt hay được sử dụng khi nền kinh tế rơi vào trạng thái bẫy thanh khoản, là
khi mà chính sách tiền tệ trở nên mất hiệu lực vì lãi suất đã quá thấp.
- Làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm, nhằm thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay một địa phương.
3.3. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư:
Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, nhất là một
nước đang phát triển như Việt Nam. Ở các nước dang phát triển hiện nay tồn tại "cái
vòng luẩn quẩn" với đặc điểm là: thu nhập thấp – tích lũy thấp – trình độ công nghệ lạc
hậu – năng suất thấp, và cần các biện pháp kích cầu đầu tư để phá vỡ nó, tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Có những biện pháp kích cầu đầu tư cụ thể và thích hợp sẽ làm tăng lượng vốn đầu
tư toàn xã hội, tăng nhu cầu đầu tư xây dựng và cải thiện mức sống của người dân. Đầu
tư tăng sẽ làm tăng tổng cung, kích cầu tiêu dùng. Đầu tư vừa là yếu tố duy trì sự ổn định,
vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả sẽ có
tác động đến tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo ngành, vùng lãnh thổ

và theo thành phần kinh tế. Đầu tư nước ngoài còn thu hút khoa học công nghệ hiện đại,
làm thay đổi bộ mặt của toàn bộ nền kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội. Như vậy kích
cầu đầu tư có tác dụng rất quan trọng ở mỗi quốc gia, và mang tính tất yếu trong chiến
lươc phát triển kinh tế xã hội dài hạn.

9


Chương 2: Thực trạng kích cầu đầu tư ở Việt Nam
1. Đánh giá tình hình chi tiêu đầu tư của Việt Nam.
Trên góc độ nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển có thể huy động từ hai nguồn:
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó mỗi nguồn lại
được chia thành các nguồn nhỏ hơn. Nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn
Nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư nhân và nguồn vốn khác. Vốn đầu tư nước ngoài lại
bao gồm vốn FDI, vốn tài trợ phát triển chính thức, vốn vay thương mại, vốn ngoại tệ
thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã có những thành tựu rất đáng hy vọng
trong hoạt động huy động vốn đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội liên tục tăng
trưởng mạnh về qui mô. Đây chính là yếu tố quyết định nhất tới những thành tựu về kinh
tế của nước ta trong giai đoạn vừa qua. Điều này được thể hiện qua số liệu thông kê vốn
đầu tư phát triển giai đoạn 1996-2005:
Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam giai đoạn 1996 – 2005.
Đơn vị : Nghìn tỷ đồng,%
Năm
Tổng vốn
Lượng tăng tuyệt
Tốc độ tăng vốn
Vốn đầu
đầu tư
đối

tuyệt đối (%)
tư/GDP
1996
88.8
11.48
10.2
32.1
1997
105.9
17.1
19.2
34.5
1998
108.8
2.9
2.7
32.4
1999
119.4
10.6
9.8
32.8
2000
132.2
12.8
10.7
32.9
2001
160.4
28.2

10.4
34.0
2002
173.2
12.8
8.0
34.3
2003
189.3
16.1
9.3
35.5
2004
216.0
26.7
14.1
36.2
2005
236.9
20.9
9.7
36.8
Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trong chi tiêu cho đầu tư phát triển, khoản chi tiêu của chính phủ Nước ta luôn
chiếm một tỷ trọng lớn nhất, là một nguồn quan trọng nhất trong đầu tư phát triển. Nguồn
vốn này bao gồm nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước nguồn vốn tín dụng đầu tư phát
triển và nguồn vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Theo số liệu thống kê, tổng
chi đầu tư phát triển đã đạt 85,7 ngàn tỷ (2006), dự toán năm 2007 là 99,5 ngàn tỷ, với đà
thực hiện vượt dự toán như hàng năm thì chi đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước
chắc chắn sẽ vượt ngưỡng 100 ngàn tỷ đồng trong năm 2007.

Vốn Ngân sách Nhà nước gia tăng liên tục qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng
vao trong các nguồn vốn đầu tư phát triển. Sở dĩ có được kết quả này là vì trong những
năm gần đây, quy mô Ngân sách Nhà nước không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều
nguồn thu khác nhau mà chủ yếu là thông qua huy động thuế và phí (chiếm 90%), trung
bình tăng 17% năm. Tỷ lệ động viên GDP vào Ngân sách Nhà nước bình quân đạt 23,5%,

10


nhờ đó chi cho đầu tư phát triển cũng tăng lên. Tỷ lệ chi đầu tư phát triển trong tổng
Ngân sách bình quân năm đạt khoảng 29.8%.
Đặc điểm nổi bật về đầu tư trong nước giai đoạn 2006-2010 là sự tăng lên mạnh
mẽ của đầu tư từ khu vực tư nhân và dân cư. Do tác động tích cực của luật doanh nghiệp,
đầu tư của khu vực tư nhân diễn ra mạnh mẽ. Tỷ trọng đầu tư của khu vực này tăng liên
tục và đã cao hơn cả tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước.Tốc độ tăng bình
quân năm của nguồn vốn này khỏang 12,25% năm.
Trong cơ cấu vốn đầu tư giai đoạn 2006-2010 vốn tư nhân và dân cư là nguồn
chiếm tỷ trọng cao nhất. Điều này đã cho thấy đây thực sự là nguồn vốn quan trọng, có
thể khai thác với khối lượng đáng kể của nền kinh tế song việc khai thác tiềm năng này
thật sự còn rất nhiều điều đáng bàn. Theo tổng cục thống kê, hiện chỉ có khoảng 1,53 tỷ
USD từ khu vực này dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư và lại chủ yếu là ngắn hạn trong
tổng số vốn khê đọng trong dân khoảng 8 tỷ USD.
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo nguồn huy động minh họa trong bảng 2.
Bảng 2. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 2006 – 2010
(Đơn vị: ngàn tỷ VND)
2006 2007 2008 2009 2010
(dự kiến)
Tổng vốn đầu tư
404,7 532,1 616,7 714,8 805,5
1.Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà

nước
100,2 107,3 119,5 180
140
- Tỷ trọng
24,8% 20,2% 19,4% 25,2% 17,4%
2. Vốn trái phiếu Chính phủ
7,6
7,0
20
46
56
- Tỷ trọng
1,9% 1,3% 3,2% 6,4% 7,0%
3. Vốn đầu tư theo kế hoạch nhà
nước
34,9
35,1
35
35,7
55
- Tỷ trọng
8,6% 6,6% 5,7% 5,0% 6,8%
4. Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước
55,1
60
56
54,1
66
- Tỷ trọng

13,6% 11,3% 9,1% 7,6% 8,2%
5. Vốn đầu tư của dân cư và doanh
nghiệp tư nhân
154
204,7 217
235
281,5
- Tỷ trọng
38,1% 38,5% 35,2% 32,9% 34,9%
6. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 52,5
110
160
154
182
- Tỷ trọng
13%
20,7% 25,9% 21,5% 22,6%
7. Các loại vốn khác
0,4
8,0
9,2
10
25
- Tỷ trọng
0,1% 1,5% 1,5% 1,4% 3,1%
Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Số liệu thống kê cho thấy tỷ trọng vốn đầu tư của nhà nước tuy có xu hướng giảm
dần nhưng vẫn còn ở mức rất cao. Xem xét trong trường hợp cụ thể là vốn đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước thì tỷ trọng chỉ giảm nhẹ từ 13,6% năm 2006 xuống còn 8,2%
năm 2010. Quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư giai đoạn 2006 – 2010 của các doanh

nghiệp tư nhân và dân cư hầu như không có tiến triển nào đáng kể xét về tỷ trọng trong

11


tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đây được coi là một hạn chế của cơ cấu đầu tư do nguồn
vốn tư nhân thường có hiệu quả đầu tư cao hơn nhưng tỷ trọng lại không được cải thiện.
Ngoài ra, có một số diễn biến đang chú ý về các lĩnh vực, ngành nghề tiếp nhận
đầu tư tại Việt Nam trong thời gian 2006 – 2010 bao gồm:
- Khoảng 72% tổng đầu tư xã hội tập trung vào 20 ngành nghề chính nhưng trong
nhóm ngành này lại không có công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, nông nghiệp và chế
biến nông lâm thủy sản.
- Xét riêng đầu tư của nhà nước thì 65% nguồn vốn được dành cho 10 ngành là
vận tải đường bộ, cung cấp nước, vận tải đường thủy, sản xuất điện và khí đốt, khai thác
dầu khí, quản lý nhà nước, y tế và trợ cấp xã hội, dịch vụ viễn thông, văn hóa - thể thao
và thủy lợi.
Trong vài năm gần đây, Việt Nam cũng đã bắt đầu xúc tiến phát hành trái phiếu
chính phủ ra nước ngoài và đã đạt được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, hoạt
động này chưa thật sự tác động nhiếu đến khả năng huy động vốn ngoài nước của nước
ta. Như vậy với đóng góp gần 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài thật sự rất cần thiết và quan trọng đối với Việt Nam.

2. Những biện pháp kích cầu đầu tư ở Việt Nam trong thời gian qua.
Trong những năm vừa qua chúng ta đã có được những bước tiến đáng kể trong
mọi mặt của nền kinh tế. Có được điều đó nhân tố đầu tiên mà chúng ta nhắc đến luôn là
nguồn vốn đầu tư (yếu tố vốn đóng góp vào tăng trưởng tới 60%), trong khi nước ta trong
điều kiện một nước đang phát triển nên rất khan hiếm nguồn vốn đầu tư, do vậy các giải
pháp kích cầu đầu tư luôn là điều được chú trọng nhất. Thực tế cho thấy Việt Nam đã
thực hiện rất nhiều các giải pháp và đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong hoạt
động kích cầu đầu tư.

Như trong phần lý luận chung đã nhắc đến , muốn thực hiện kích cầu đầu tư có
hiệu quả thì đầu tiên chúng ta phải tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền
vững cho nền kinh tế. Thực tế trong những năm gần đây chúng ta đã đạt được một nhịp
độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định.
Cụ thể hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của
Việt Nam liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, với mức tăng bình quân hàng năm
7,5%. Từ một nước có nền công nghiệp kém phát triển, nay từng bước xây dựng một nền
công nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời cơ cấu kinh tế không ngừng chuyển dịch
theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, tỷ trọng nông nghiệp
giảm dần tương ứng.
Trong giai đoạn 1996-2006, cơ chế chính sách trong lĩnh vực kích cầu đầu tư đã
có nhiều đổi mới góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khuyến
khích các chủ thể trong nền kinh tế bỏ vốn đầu tư. Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế,
chính sách nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật; nguồn vốn đầu tư phát triển được đa dạng hoá, cơ chế bao cấp trong hoạt động đầu
tư đã từng bước được hạn chế và dần xoá bỏ. Chính sách đầu tư qua ngân sách, đặc biệt

12


là đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã làm cho tổng tích lũy tài sản của Việt
Nam trong giai đoạn kích cầu tăng mạnh, từ 1,2% năm 1999 lên 10,6% năm 2002. Đầu tư
đã đóng góp 3,69 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng bình quân 7,16% bình quân
năm của giai đoạn này. Khai thác tiềm năng của yếu tố đầu tư cho tăng trưởng đã được
phân tích kỹ ở phần trên.
Trong những năm qua, chúng ta đã sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế chính sách trong
lĩnh vực này để cải thiện môi trường đầu tư.
Đồng thời, Nhà nước cũng có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Nhà
nước tự huy động thêm các nguồn vốn từ khấu hao cơ bản, từ nhà xưởng mặt bằng chưa
dùng đến hoặc dùng chưa có hiệu quả, từ các nguồn lợi nhuận sau thuế để đưa vào đầu

tư.
Với việc ban hành các chính sách tín dụng ưu đãi phù hợp, chúng ta đã huy động
được phần đáng kể nguồn tiết kiệm trong dân cư (khoảng trên 50% số tiết kiệm có được)
để đưa vào đầu tư. Những đổi mới kịp thời trong chính sách huy động, nâng cao hiệu quả
sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư đã củng cố được lòng tin đối với các nhà
đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, huy động vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng phục hồi và gia
tăng.
Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy
trong lĩnh vực ĐTPT luôn được cập nhật, đổi mới phù hợp theo hướng phân cấp mạnh
hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời, tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát
của các cơ quan quản lý Nhà nước. Nhiều Nghị định mới, văn bản luật mới được ban
hành thay thế cho những nghị định không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế và
những đòi hỏi khắt khe của xu thế toàn cầu hoá (Như Nghị định 07/2003, Nghị định
16/2005; Luật đầu tư chung, luật đấu thầu, Luật doanh nghiệp thống nhất…).
Công tác quy hoạch cũng có nhiều đổi mới, thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư
và là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chất lượng công tác quy hoạch đã được chú
ý, các quy hoạch phát triển đã được lập, rà soát theo hướng gắn với thực tế, bám sát hơn
nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm, thế mạnh của từng địa phương.
Công tác quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài đã được từng bước kiện toàn
thông qua việc thành lập cục đầu tư nước ngoài với các trung tâm xúc tiến đầu tư; thực
hiện chủ trương phân cấp và uỷ quyền cấp phép, quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
cho các địa phương và ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh. Việc xây dựng quy hoạch,
pháp luật, chính sách, thẩm định, giải quyết vướng mắc của các dự án đầu tư nước
ngoài… đã có sự cộng tác, phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương cũng như
tăng cường gặp gỡ và đối thoại chính sách với các nhà đầu tư nước ngoài.
* Các chính sách kích cầu qua từng giai đoạn
- Giai đoạn 1986 – 1990:
Chính phủ VN đã sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ làm giải pháp chủ yếu để
chống và kiềm chế lạm phát. Cụ thể như sau:


13


+ Đối với chính sách tài khóa: bên cạnh sự đổi mới trong công tác và nguồn thu để tăng
cường nguồn thu cho NSNN, đặc biệt kiên quyết xóa bỏ dần bao cấp đối với DNNN.
+ Đối với chính sách tiền tệ: Bên cạnh việc đổi mới tổ chức hệ thống và cơ chế hoạt động
KD của Ngân hàng, VN đã từng bước sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để điều
hành nền KT, đặc biệt là các công cụ lãi suất tín dụng để kiểm soát cung tiền. Kết quả
bước đầu đã điều chỉnh khối lượng tiền tệ lưu thông góp phần tích cực vào việc lập lại
cân đối tiền – hàng, ổn định sức mua của đồng tiền, đáp ứng nhu cầu về tiền để mở rộng
SX và lưu thông hàng hóa.
- Giai đoạn 1991 – 1997:
+ Đối với chính sách tài khóa: tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, các công
cụ của chính sách tài khóa được sử dụng hiệu quả hơn đã góp phần rất lớn trong việc đẩy
lùi lạm phát ở VN. Cụ thể: Bằng việc áp dụng thuế ưu đãi đã thu hút được lượng VĐT
phát triển đặc biệt là các dự án VĐT trực tiếp nước ngoài FDI đã góp phần giải quyết tình
trạng thiếu VĐT và phải bù đắp bằng phát hành tiền. Về vấn đề chi NS, chủ trương là hạn
chế và tiến tới xóa bỏ hình thức bao cấp cho khu vực KTNN từ nguồn chi NS.
+ Đối với chính sách tiền tệ: Các công cụ như lãi suất tín dụng, lãi suất vay chiết khấu đã
được sử dụng hữu hiệu để kiểm soát và điều tiết lưu thông tiền tệ. Trong đó, việc Chính
phủ VN từng bước chuyển dần từ thực hiện chính sách lãi suất âm sang lãi suất dương
(tháng 6/1991 đã thực hiện triệt để lãi suất dương) đã góp phần quan trọng vào công cuộc
ổn định và phát triển KT.
- Giai đoạn 1998 – 2007:
Chính phủ VN đã sử dụng một số biện pháp kích cầu bắt đầu thực hiện từ năm 1999
được coi là chủ yếu giúp nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái. Trong đó có 2 công
cụ là lãi suất và chi tiêu đóng vai trò trọng tâm. Mặc dù thu ngân sách bị giảm gây khó
khăn lớn cho việc đảm bảo chi tiêu của chính phủ nhưng chính phủ vẫn quyết định tăng
chi tiêu của mình để giúp nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái. Các kế hoạch chi
tiêu lớn như chi cho các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo, đầu tư xây dựng phát

triển mạng lưới giao thông, bê tông hóa hệ thống kênh mương...đã thực hiện. Cùng với
việc tăng chi tiêu, chính phủ đã liên tục điều chỉnh lãi suất để kích thích đầu tư.
Trong giai đoạn này, cơ chế chính sách trong lĩnh vực kích cầu đầu tư đã có nhiều
đổi mới góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các
chủ thể trong nền kinh tế bỏ vốn đầu tư. Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách
nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật; nguồn
vốn đầu tư phát triển được đa dạng hoá, cơ chế bao cấp trong hoạt động đầu tư đã từng
bước được hạn chế và dần xoá bỏ. Chương trình kích cầu đầu tư được thực hiện với hàng
loạt chương trình và hoạt động: Chương trình kiên cố hóa hệ thống kênh tưới thủy lợi
liên huyện, liên xã; chương trình kiên cố hóa hệ thống kênh tưới thủy lợi liên thôn và nội
đồng; chương trình nâng cấp mặt bằng đường giao thông nông thôn; chương trình khuyến
khích xây dựng nhà ở khu vực đô thị và vùng khó khăn bão lụt; chương trình phát triển
hệ thống điện; khuyến khích dân cư hoặc các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm

14


hữu hạn đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở hạ tầng với quy mô thích hợp; triển khai
chương trình hỗ trợ giải quyết việc làm... Chính sách đầu tư qua ngân sách, đặc biệt là
đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã làm cho tổng tích lũy tài sản của Việt Nam
trong giai đoạn kích cầu tăng mạnh, từ 1,2% năm 1999 lên 10,6% năm 2002. Đầu tư đã
đóng góp 3,69 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng bình quân 7,16% bình quân năm
của giai đoạn này. Khai thác tiềm năng của yếu tố đầu tư cho tăng trưởng đã được phân
tích kỹ ở phần trên.
- Giai đoạn 2008 – đến nay:
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinhh tế toàn cầu năm 2009, ở
VN gói kích cầu thứ nhất trị giá 17000 tỷ đồng đã được chính phủ quyết định thông qua
và sớm đươc giải ngân nhanh chóng để hỗ trợ 4% lãi suất vay NHTM cho các khoản vay
ngắn hạn dưới 1 năm của các DN vừa và nhỏ, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng, sử dụng
không quá 300 công nhân, không nợ đọng thuế và nợ tín dụng quá hạn... Tiếp đó gói kích

cầu thứ 2 đã được công bố với quy mô lớn hơn, thời hạn cho vay dài hơn (tới 2 năm),
điều kiện mới lỏng hơn (DN và cả HTX có vốn dưới 20 tỷ đồng, sử dụng dưới 500 lao
động, có thể nợ thuế và tìn dụng quá hạn nhưng có dự án phù hợp vẫn được phép cho
vay) và lĩnh vực cho vay cũng mở rộng hơn.

3. Một số kết quả đạt được nhờ các giải pháp kích cầu ở Việt Nam:
Hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam
liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, với mức tăng bình quân hàng năm 7,5%. Từ
một nước có nền công nghiệp kém phát triển, nay từng bước xây dựng một nền công
nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời cơ cấu kinh tế không ngừng chuyển dịch theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, tỷ trọng nông nghiệp giảm
dần tương ứng.
Chính sách đầu tư qua ngân sách, đặc biệt là đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà
nước đã làm cho tổng tích lũy tài sản của Việt Nam trong giai đoạn kích cầu tăng mạnh,
từ 1,2% năm 1999 lên 10,6% năm 2002. Đầu tư đã đóng góp 3,69 điểm phần trăm vào
tốc độ tăng trưởng bình quân 7,16% bình quân năm của giai đoạn này.
Trong 10 năm trở lại đây, với việc ban hành các chính sách phù hợp, chúng ta đã
huy động được phần đáng kể nguồn tiết kiệm trong dân cư (khoảng trên 50% số tiết kiệm
có được) để đưa vào đầu tư. Những đổi mới kịp thời trong chính sách huy động, nâng cao
hiệu quả sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư đã củng cố được lòng tin đối với
các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, huy động vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng phục
hồi và gia tăng.
Tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt 830,3 nghìn tỷ đồng
+ Khu vực kinh tế nhà nước đạt 316,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,1%
+ Khu vực ngoài nhà nước đạt 299,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 31,6%
+ Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 214,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,8%.

15



4. Một số đánh giá về các biện pháp kích cầu đầu tư ở Việt Nam:
4.1. Một số hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu, hoạt động đầu tư ở Việt vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần
khắc phục như sau:
- Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của đất nước rất lớn nhưng khả năng đáp ứng các
nguồn vốn còn hạn chế, chưa huy động hết tiềm năng. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với
GDP còn thấp so với nhiều nước vào thời kỳ phát triển tương tự, tiềm lực trong dân còn
rất lớn nhưng huy động cho đầu tư thấp. Các thành phần kinh tế còn dè dặt trong việc bỏ
vốn đầu tư.
Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp
ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm
xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định
hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào
vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển chưa phù hợp.
Vốn đầu tư từ ngân sách còn nặng tính bao cấp. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà
nước bằng nguồn khấu hao tài sản cố định để lại chưa được quan tâm đúng mức. Nguồn
vốn tín dụng đầu tư chiếm tỷ trọng thấp so với tổng vốn đầu tư Nhà nước, đối tượng vay
không nhất quán, lãi suất vay ưu đãi cao, thiếu hấp dẫn.
- Cơ cấu hoạt động đầu tư chuyển dịch chậm, còn nhiều bất hợp lý cần khắc phục.
Cơ cấu vùng đã có những điều chỉnh nhưng chênh lệch về đầu tư giữa các vùng còn khá
lớn, đầu tư cho các công trình liên vùng liên tỉnh còn kém, bị chia cắt theo địa giới hành
chính địa phương.
Cơ cấu vốn FDI cũng có nhiều bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp
mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định nhưng đầu tư nước ngoài còn quá thấp
và tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký liên tục giảm. Chất lượng một số dự án đầu tư
nước ngoài chưa cao. Một số dự án khác nhất là các dự án thực hiện theo hình thức liên
doanh hoạt động kém hiệu quả. Một số dự án có trình độ trung bình, thậm chí lạc hậu và
theo hình thức gia công lắp ráp là chính.

- Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn chưa cao. Tình hình thất thoát lãng
phí trong hoạt động đầu tư còn lớn, đặc biệt là vốn Ngân sách Nhà nước. Việc bố trí vốn
đầu tư thuộc Ngân sách Nhà nước dàn trải, thiếu tập trung, số lượng các dự án được phê
duyệt vượt xa khả năng cân đối. Thất thoát, lãng phí trong hoạt động đầu tư chưa được
giải quyết thoả đáng. Hiện tại, vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án
đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định chính xác con số thất thoát mà dư luận lâu nay
đề cập. Tuy nhiên, kết quả thanh tra các dự án cho thấy: số sai phạm về tài chính phát
hiện chiếm 14-19% tổng số vốn đầu tư được thanh tra. Trong tổng số vốn được phát hiện
sai phạm nói trên, số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-6% tổng số vốn được thanh tra.

16


- Công tác quản lý đầu tư còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển. Chất lượng các quy hoạch chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho hoạch
định các kế hoạch phát triển nhất là xây dựng các chương trình đầu tư. Việc quản lý vừa
rườm rà, phức tạp lại vừa lỏng lẻo đối với hoạt động đầu tư, gây ra tình trạng thất thoát
vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách. Bao cấp về vốn còn nhiều, cơ chế quản lý
đầu tư và xây dựng còn chưa phù hợp. Chưa có những chế tài cụ thể thực sự nghiêm khắc
và có hiệu lực cao để quản lý hoạt động đầu tư và xử lý thích đáng những trường hợp vi
phạm. Công tác nghiên cứu dự báo, xây dựng quy hoạch và kế hoạch dài hạn hoạt động
đầu tư ở một số ngành và lĩnh vực chất lượng chưa cao, chưa gắn được sản xuất với thị
trường.
- Tư duy kinh tế chậm đổi mới:
Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường.Thực tế xử lý
các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa
đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt
Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát
triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia.
Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt

Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện
thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những
biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn
chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn
các nghị định của Chính phủ.
- Môi trường đầu tư - kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt
được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn
ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng
về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các
cam kết quốc tế.
- Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình
độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để
khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã
hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương
chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất
lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác
kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém

17


về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư-kinh doanh.
4.2. Nguyên nhân:

Quá trình đầu tư chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố
khách quan và cả những nhân tố chủ quan. Những nhân tố này tác động liên tục và tạo ra
những ảnh hưởng lớn tới việc huy động, sử dụng vốn đầu tư phát triển và những kết quả
của hoạt động đầu tư. Qua phân tích có thể thấy, những hạn chế của hoạt động hoạt động
đầu tư ở Việt Nam xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Trước hết, do sự nhận thức khác nhau trong các ngành, các cấp, tư duy kinh tế
chậm đổi mới. Thêm vào đó, việc quản lý theo cơ chế thị trường mới được hình thành,
chưa hoàn chỉnh, còn thiếu nhiều yếu tố của thị trường. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội, ngành, vùng chưa đầy đủ, và sát thực.
Công tác xây dựng chiến lược và kế hoạch đầu tư còn thiếu khoa học và chưa nhất
quán, làm cho quy hoạch, kế hoạch chưa thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư. Pháp
luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa thông thoáng và thiếu nhất quán, chưa tạo ra
động lực khuyến khích hoạt động đầu tư. Phân cấp quản lý trong đầu tư xây dựng còn
nhiều chồng chéo, chưa hợp lý. Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển
còn chậm được sửa đổi, bổ sung, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản
lý hiện nay. Công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ
thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể tham gia vào quá trình đầu tư. Việc ban
hành các định mức kinh tế, kỹ thuật, các tiêu chuẩn còn cứng nhắc.
Sự giao lưu vốn đầu tư chủ yếu được thực hiện theo phương thức gián tiếp thông
qua bộ phận trung gian là ngân hàng, các trung gian khác như công ty bảo hiểm xã hội
chưa thể hiện vai trò đáng kể. Sự giao lưu vốn theo phương pháp tài chính trực tiếp còn
đang ở giai đoạn sơ khai. Việc kiểm tra, thanh tra, xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm
chủ trương tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng còn bị coi nhẹ, chưa dứt khoát. Không
những thế, nền kinh tế nước ta trong thời gian qua còn chịu những tác động tiêu cực của
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực làm cho huy động vốn sụt giảm, hiệu quả đầu
tư thấp.

18



Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kích cầu đầu
tư ở Việt Nam.
1. Giải pháp khắc phục những hạn chế.
- Tạo môi trường đầu tư, chính sách thông thoáng để huy động hiệu quả nhất nguồn vốn
đầu tư.
- Cần có chính sách ưu đãi đầu tư đối với những vùng lãnh thổ khó khăn, những ngành
nghề ít thu hút đầu tư để cơ cấu hoạt động đầu tư được chuyển dịch nhanh, hợp lý.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tránh thất thoát, lãng phí vốn đầu tư.
- Nâng cao năng lực quản lí dự án đầu tư.
- Thẩm định kỹ lưỡng các dự án đầu tư để nâng cao tính hiệu quả, đảm bảo môi trường.

2. Giải pháp kích cầu ở Việt Nam.
2.1. Tiếp tục đổi mới để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, khuyến khích sản
xuất kinh doanh.
Cùng với việc tiếp tục giữ vững tình hình chính trị, xã hội ổn định, nước ta cần tập
trung chỉ đạo, tháo gỡ các rào cản về vốn, giảm sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước. Đảm
bảo giá cả thị trường và kìm chế lạm phát ở mức hợp lý, ổn định tài chính tiền tệ trên tầm
vĩ mô. Phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách để thu hẹp và đi đến chấm dứt mọi sự
phân biệt đối xử không bình đẳng như hiện nay. Đồng thời tiếp tục đổi mới chính sách,
bảo đảm sự ổn định, công khai, minh bạch và tăng cường sức cạnh tranh lành mạnh. Tiếp
tục tăng cường đầu tư của Nhà nước và khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu
tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo quy chế “một cửa”. Coi trọng việc
điều hành vĩ mô của Nhà nước. Từng bước điều chỉnh giá hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước
định giá xuống ngang bằng với các nước khu vực, xây dựng cơ chế quản lý, kiểm soát
các mặt hàng độc quyền, cơ chế chống bán phá giá và cơ chế kiểm soát việc chuyển giá
nội bộ trong doanh nghiệp để bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh, khuyến khích
hỗ trợ để chuyển một phần không nhỏ hộ kinh doanh cá thể sang kinh doanh theo các loại
hình doanh nghiệp. Chuyển các đơn vị sự nghiệp sang hoạt động theo cơ chế doanh
nghiệp phi vụ lợi. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp. Tiến tới Ngân sách Nhà

nước chỉ cấp cho những đơn vị sự nghiệp thực hiện các nhiệm vụ chính trị, các nghiên
cứu khoa học cơ bản làm nền tảng phát triển khoa học công nghệ.
Thực hiện tốt các biện pháp trên sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu
tư, môi trường cởi mở, thông thoáng sẽ khuyến khích các thành phần kinh tế tiếp tục khơi
dậy và phát huy tối đa các nguồn lực của đất nước cho đầu tư phát triển.
Trong những năm gần đây, chính sách khuyến khích đầu tư thực sự trở thành công
cụ thúc đẩy các tổ chức kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong các thành phần kinh tế tham
gia vào quá trình đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Các chính sách đầu tư trong những năm
gần đây rất đa dạng như hỗ trợ vốn đầu tư, ưu đãi về thuế, về tín dụng, về đầu tư chuyển
giao công nghệ.
- Một là, tài trợ từ Ngân sách Nhà nước.

19


+ Thứ nhất, tài trợ vốn đầu tư để xây dựng các công trình ngoài hàng rào, các công
trình liên quan đến các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc đầu tư xây dựng các khu
công nghiệp, khu chế xuất ở miền núi, vùng sâu, vùng xa được ưu đãi. Biện pháp này sẽ
góp phần khai thác tốt hơn các nguồn vốn đầu tư còn tiềm ần trong dân cư.
+ Thứ hai, tài trợ các nguồn vốn “mồi” nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tăng
thêm các nguồn lực vào hoạt động đầu tư. Biện pháp này thường sử dụng để khuyến
khích các cộng đồng cùng tham gia đầu tư. Chính sách tài trợ “vốn mồi” sẽ rất phù hợp
để kích thích đầu tư phát triển giáo dục, y tế, và thể dục thể thao.
+ Thứ ba, tài trợ vốn đầu tư để chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, hỗ
trợ giống vật nuôi, cây trồng, hỗ trợ thị trường, xúc tiến đầu tư và tiếp thị…
+ Thứ tư, tài trợ đầu tư qua hình thức góp vốn nhằm giúp các nhà đầu tư giảm
thiểu việc huy động vốn vay với lãi suất thông thường hoặc góp vốn để làm tăng vốn
pháp định, vốn điều lệ, tạo thế chủ động cho các chủ đầu tư.
- Hai là, chính sách thuế có tác động rất lớn trong việc kích thích hoặc hạn chế các
hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân.

Chính sách thuế và phí có thể kích thích đầu tư trong nước để phát triển các sản phẩm,
các ngành nghề hoặc lĩnh vực cần thiết, giảm và ngừng các hoạt động đầu tư vào các
ngành nghề, lĩnh vực và sản phẩm không có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Biện pháp này
thực hiện dưới hai hình thức là miễn hoặc giảm thuế theo những quy định thống nhất.
Chính sách thuế và phí khuyến khích các nhà đầu tư nhập các vật tư thiết bị và công nghệ
mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc cung ứng, khuyến khích các nhà đầu tư
xuất khẩu những mặt hàng mới làm tăng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế.
- Ba là, khuyến khích đầu tư qua tín dụng đầu tư được thực hiện với các hình thức:
ưu đãi về lãi suất (đối tượng khuyến khích đầu tư được vay vốn tín dụng ưu đãi với lãi
suất thấp hơn lãi suất thị trường, các tổ chức huy động vốn đầu tư để cho vay ưu đãi đầu
tư với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường sẽ được Nhà nước bù đắp chênh lệch lãi suất);
ưu đãi về thời hạn cho vay; ưu đãi về bảo lãnh tín dụng đầu tư; cải tiến chính sách vay và
hoàn trả vốn vay kể cả khoản vay nợ nước ngoài.
- Bốn là, hỗ trợ sau đầu tư được thực hiện khi kết thúc quá trình đầu tư xây dựng,
bắt đầu khai thác dự án theo các hình thức sau: Hỗ trợ một phần bằng tiền để chi trả tiền
lãi vay vốn của các nhà tài trợ vốn; Hỗ trợ qua giá đối với các sản phẩm, dịch vụ đang có
thị trường, mở rộng thị trường hoặc tìm thị trường mới; Hỗ trợ qua các tổ chức quản lý
khoa học, công nghệ, quản trị kinh doanh, thông tin, tin học…; Thành lập các trung tâm
tiếp thị, xúc tiến thương mại, tạo cơ hội cho lĩnh vực kinh doanh tiếp cận thị trường…
2.2. Đa dạng hoá các kênh, hình thức động nguồn lực cho hoạt động đầu tư.
Ngoài việc sử dụng có kết quả các công cụ tạo lập vốn truyền thống, cần nghiên
cứu đa dạng hoá công cụ thu hút các nguồn lực theo cơ chế thị trường. Các hình thức trái
phiếu, cổ phiếu, các quỹ đầu tư, các tổ chức tài chính trung gian ngân hàng, phi ngân
hàng, tiết kiệm bưu điện, các loại hình xổ số kiến thiết và một số hình thức huy động vốn
khác thông qua kênh thị trường vốn, thị trường chứng khoán cần tiếp tục được vận dụng

20


có kết quả nhằm tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Phải coi việc tạo lập

vốn thông qua thị trường vốn là giải pháp cơ bản, lâu dài để phát huy có hiệu quả cao
nguồn lực cho đầu tư. Cần nhanh chóng đa dạng hoá công cụ tạo vốn, kết hợp sử dụng có
hiệu quả công cụ trái phiếu, cổ phiếu mang tính cổ điển với các hình thức văn minh hiện
đại, áp dụng rộng rãi ở tất cả các lĩnh vực, ngành, nghề, địa phương. Trong thời gian tới,
cần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đất đai; ban hành và
sớm hoàn thiện Luật thuế sử dụng đất để vừa tạo cơ sở pháp lý quản lý chặt chẽ đất đai,
vừa động viên một phần cho Ngân sách Nhà nước. Áp dụng rộng rãi việc tổ chức đấu giá,
đấu thầu công khai để phát triển đô thị như hiện nay ở nhiều địa phương, tiến tới thu hẹp
và chấm dứt sự lãng phí tài nguyên đất. Khẩn trương tổ chức thực hiện cơ chế điều tiết
hợp lý thu nhập từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hình thành và phát triển thị
trường bất động sản.
Cùng với các nguồn lực nêu trên, nguồn lực trong các thành phần kinh tế cần quan
tâm, khơi dậy và từng bước tháo gỡ khó khăn. Đối với khu vực doanh nghiệp Nhà nước,
cần tập trung, rà soát, sắp xếp thu hẹp hơn lĩnh vực kinh doanh mà Nhà nước nắm giữ
100% vốn sở hữu. Tiếp tục mở rộng quyền tự chủ tài chính trong hoạt động của doanh
nghiệp Nhà nước; đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước thúc đẩy
cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, mở rộng việc bán cổ phần ra bên ngoài. Tập
trung xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước tạo môi trường
thuận lợi để thành phần kinh tế tư nhân phát huy cao độ các nguồn lực trong dân, đầu tư
vào mọi ngành, nghề pháp luật không cấm.
Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút FDI, cần tiếp tục mở rộng lĩnh vực thu hút vốn FDI,
bên cạnh các lĩnh vực truyền thống của công nghiệp, nông nghiệp và hệ thống công
nghiệp phụ trợ, sẽ đẩy mạnh thu hút FDI vào nâng cấp cơ sở hạ tầng và phát triển khu
vực dịch vụ; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế của Việt Nam cũng như cải thiện hệ
thống pháp lý đi cùng với cải cách hành chính sâu rộng sẽ là nhân tố quan trọng để củng
cố lòng tin của các nhà đầu tư về sức hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt
Nam. Thực hiện cơ chế ưu đãi đầu tư cũng được quan tâm nhưng sẽ quản lý chặt chẽ.
Tình trạng “cạnh tranh” không lành mạnh hiện nay giữa một số địa phương về “các ưu
đãi” cần được giải quyết thoả đáng.
Huy động FDI phải gắn kết với việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,

gắn tốt hơn với việc huy động và sử dụng ODA, nhất là trong việc hoàn thiện cơ sở hạ
tầng kinh tế xã hội, đào tạo nguồn nhân lực,… Chính phủ cần phải đẩy mạnh hơn nữa
công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, quảng bá các lợi thế sẵn có của Việt Nam để mời gọi
các nhà đầu tư nước ngoài.
2.3. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư.
- Một là, nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư, xác định chủ
trương đầu tư theo mục tiêu và định hướng phát triển giai đoạn 2006-2010. Coi trọng
công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội các ngành, vùng, lãnh thổ một cách
nhất quán, tránh mỗi nơi một kiểu, tập trung mục tiêu trọng điểm, không nên đưa nhiều

21


mục tiêu, nhiều mũi nhọn mà lại chưa tính hết đến tính cân đối theo nhu cầu thị trường.
Cần phải chấn chỉnh công tác nghiên cứu quy hoạch tổng thể theo định hướng phát triển
mà Đảng và Nhà nước đã nêu ra. Ngoài ra cần đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Chính
phủ từ trung ương đến địa phương, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch - bước cụ thể
hoá chiến lược.
- Hai là, chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế. Trong việc lựa chọn các
ngành nghề ưu tiên đầu tư, xuất phát điểm không phải là chọn ngành nghề mà là chọn
những sản phẩm mũi nhọn. Từ đó mới xác định các ngành nghề tạo ra sản phẩm mũi
nhọn. Trong công nghiệp, cần tập trung đầu tư để chuyển dịch nhanh cơ cấu công nghiệp
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, đa dạng hoá sản phẩm. Chú trọng đầu tư
công nghiệp năng lượng, công nghiệp có công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng, công
nghiệp phụ trợ, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phục vụ nông nghiệp
nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư phải cho phép khai thác, phát huy lợi thế và tính cạnh
tranh riêng của từng vùng trong mối liên kết chung để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội
của tất cả các vùng tạo nên thế mạnh của mỗi vùng theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với mở
rộng thị trường trong và ngoài nước. Tập trung hình thành một số trung tâm kinh tế lớn,

trọng điểm; nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất và các cụm công
nghiệp đã có đồng thời phát triển thêm một số khu công nghiệp, khu chế xuất và các cụm
công nghiệp. Tăng cường sự liên kết giữa các vùng và trong nội bộ từng vùng. Đầu tư
phát triển các vùng trọng điểm kết hợp với đầu tư hỗ trợ phát triển các vùng khó khăn.
Hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ.

22


KẾT LUẬN
Tăng trưởng, phát triển bền vững luôn là mục tiêu hướng tới của các quốc gia. Ở
Việt Nam, điều này có ý nghĩa then chốt trong việc chuẩn bị nền tảng vật chất kỹ thuật
cho CNXH. Mặt khác để có được sự phát triển bền vững thì vấn đề then chốt và tối quan
trọng là làm sao có thể huy động và thực hiện có hiệu quả vốn đầu tư phát triển. Những
sự thay đổi trong bộ mặt kinh tế của nước ta trong thời gian vừa qua đã chứng tỏ một
cách thuyết phục những cố gắng trong việc thu hút vốn đầu tư của nước ta. Song bên
cạnh những thành công đó chúng ta cũng cần phải nhìn nhận rằng vẫn còn những thiếu
sót trong nhiều mặt khi Việt Nam thực hiện kích cầu đầu tư. Nhận thức rõ điều đó, Nhà
nước ta đang ngày một cố gắng điều chỉnh và hoàn thiện hơn cơ chế, điều kiện để thực
hiện ngày một tốt hơn hoạt động kích cầu đầu tư nhằm đạt những mục tiêu kinh tế của
đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình kinh tế phát triển, GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng, Khoa Kế hoạch và
phát triển - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Lao động-xã hội, 2005.
2. Giáo trình kinh tế đầu tư, PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt & TS Từ Quang
Phương, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007.
3. Giáo trình kinh tế vĩ mô I & II, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
4. Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
5. Báo Đầu tư.
6. Thời báo kinh tế Việt Nam.

7. Báo điện tử của bộ kế hoạch & đầu tư.

23



×